KHÁNH HOÀNG
Plano, Texas ___________________
Có Điều Gì Đất Trời Muốn Nói
(Riêng về những cơn bão dữ hoành hành trên địa cầu; như bão Katrina, bão Rita vào tháng 8, năm 2005 ở miền Đông Nam nước Mỹ)
Có Điều Gì Đất Trời Muốn Nói
Mà ta vẫn vô tình chưa hiểu
Ôi Katrina Ôi Rita
Các nàng đến tự trời cao
để bao gia đình khổ đau
Đổ nát
Và trên những xa lộ thênh thang
miền Nam nước Mỹ
Tìm về nơi đâu?
Trú ẩn phương nào?
Những con tim âu lo
Vất vưỡng trong đêm tối
Mịt mờ
Có phiền muộn ướt nhòa nước mắt
Dòng xe vẫn vô tình bất động
Ôi Katrina Ôi Rita
Giữa màn đêm của sợ hãi
Tìm nhau để nhận ra nhau
Cùng khốn
Cầu mong chút hơi nồng thương yêu
vượt qua khổ nạn
Đường về xa xăm
Bước mỏi rã rời
Khắp không gian bao la
Đâu là nơi yên ấm
Quê nhà
Hãy mở lòng ra
Cùng thắp lên ngọn đèn
Bi Trí
Và hãy mở cửa căn nhà
Từ Ái
Để làm nơi
An trú cho nhau
Có điều gì đất trời muốn nói?
Khánh Hoàng
Plano _ September 24, 2005
Nhạc & Lời: Khánh Hoàng
Ca sĩ: Thùy Dương
Hòa âm: Thái Bảo Lộc
https://quangduc.com/a77332/co-dieu-gi-dat-troi-muon-noi
_________________________
SÓNG XUÂN (Nguyên bản)
Sông gợn ý tình lượn sóng Xuân
Hàm tàng vô lượng cỏi thanh tân
Rộn ràng bóng nước tuôn hình sắc
Thinh lặng hư không ánh tuyệt trần
Nhật nguyệt đôi bờ cùng chiếu tỏa
Cỏ hoa muôn dặm trọn hồng ân
Thời gian ngưng nghỉ cần chi vội
Biến hiện diệu huyền ngát bảo trân!
(Lê Khánh Hoàng)
Plano, TX
9/9/24
THIỀN LÃO (Họa)
Hạ thu nhàn hạ nhã đông xuân
Hành kiến Thiền tâm nhật nhật tân
Sự nghiệp chu toàn chung quả nghiệp
Tục trần ẩn dật thoát phong trần
Đồng tình nhân loại tri khiêm ái
Hòa cảnh thiên nhiên hưởng phước ân
Lão giả diệu tâm an tịch tĩnh
Niết bàn tự tánh sính huyền trân.
(Phan Thượng Hải)
9/9/24
____________________
Khai Bút Xuân
Tết này bận quá không cầm bút
Đành tạm dùng tay viết vào không
Một nét tròn vo theo thật tướng
Đĩnh đạc mây trôi chẳng bận lòng!
Khánh Hoàng
Link nghe Thầy Thích Thắng Hoan giảng về Duy Thức:
https://www.youtube.com/watch?v=eOwvS89oz0I
Tiễn Thầy
Thành kính bái biệt Đại Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan (1928-2024)
Bao niềm hỷ lạc nghe Thầy giảng
Chất giọng Cần Thơ thật rộn ràng
Biến Kế chuyển hành tâm Bát Nhã
Viên Thành định vị tuệ Kim Cang
Tận tường khảo nghiệm tông Duy Thức
Tỉ mỉ tinh chuyên nghĩa Đạo Vàng
Nhẹ bước hài vân buông lối mộng
Tiễn người bửu sắc ánh từ quang!
Khánh Hoàng
Plano _ January 27, 2024
___________________
Sơ Quát về Năm Giai Vị Tu Tập trong Phật Đạo
qua Duy Thức Học
Khánh Hoàng ____________________
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng, mỗi bài có 4 câu, mỗi câu có 5 chữ (mỗi bài có 20 chữ); trong đó có 5 bài tụng (100 chữ), thuộc phần Duy Thức Hạnh đã nêu rõ về 5 giai vị tu tập trong Phật Đạo. Đó là 5 giai vị với tên gọi là: Tư Lương vị, Gia Hạnh vị, Thông Đạt vị, Tu Tập vị, và Cứu Cánh vị. Năm giai vị này bao quát con đường tu tập đưa đến quả vị giải thoát cứu cánh trong đạo Phật. Bài viết sau đây chỉ là sự tổng hợp, góp nhặt, cảm nhận, suy luận có khi mang tính chủ quan từ những điều đã thu thập được nơi một số kinh luận, các bài giảng thuyết; các giai đoạn tu tập cũng chỉ được nêu ra một cách rất khái quát …nên chỉ có tính cách dùng để tham khảo.
Giai vị đầu tiên của Duy Thức Hạnh là Tư Lương vị. Được gọi tên là "Tư Lương" vì đây là giai đoạn xây dựng, tạo lập hành trang, vật thực cần thiết cho các giai trình tu tập sau đó. Trong giai đoạn Tư Lương, hành giả bắt đầu tìm tòi,học hỏi, suy nghĩ, tư duy, thắc mắc, lễ lạy và cúng dường Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng) cùng các Thiện Tri Thức, luận bàn về Phật pháp nơi các kinh sách, các vị tôn đức tăng ni, các vị thiện tri thức nơi các tôn tự, các chùa, ,các phương tiện truyền thông có được... Điều này tương hợp với Tam Huệ Học (Văn- Tư- Tu) trong giáo lý đạo Phật: Tư Lương vị chính là toàn phần "Văn" (học hỏi, tìm hiểu kỹ càng, tường tận giáo pháp qua nghe giảng pháp, đọc kinh sách...); là một phần "Tư" (bắt đầu có được suy nghĩ, phân biệt, thắc mắc, xác định, phủ định, vấn đáp về giáo pháp) ; và là một phần “Tu” (những bước tu tập sơ khởi như qui y Tam Bảo, thọ trì 5 giới, thọ Bát Quan Trai, ăn chay, niệm Phật, ngồi Thiền...).
Bài tụng thứ nhất (Tư Lương vị): Duy Thức Tam Thập Tụng có 4 câu là:
"Nãi chí vị khởi thức
Cầu trụ Duy Thức tánh
Ư Nhị Thủ tùy miên
Do vị năng phục diệt"
Tạm dịch:
"Đến khi chưa khởi thức
Mong trụ tánh Duy Thức
Còn hai Thủ tiềm ẩn
Do chưa hàng phục, đoạn trừ"
Ý nghĩa chi tiết 4 câu của Tư Lương vị được ghi nhận là:
Câu 1: "Nãi chí vị khởi thức" (Đến khi chưa khởi thức): “Thức chưa khởi” ở đây chính là thức A Lại Da. Vì ở giai đoạn này, Ý thức (Thức Thứ Sáu) hiện có của hành giả cùng với Tiền Ngũ Thức (Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỹ thức, Thiệt thức, Thân thức) còn đang dong ruổi theo 6 trần cảnh (Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp) và còn bị ngăn che với A Lại Da thức (Thức Thứ Tám) bởi Mạt Na thức (Thức Thứ Bảy).
Tựu trung, thức A Lại Da có 7 đặc điểm chính yếu như sau:
1. A Lại Da thức là thể trung gian,chuyển tiếp, cầu nối giữa Chơn Tâm (Giác Thể thanh tịnh, Chơn Như, Phật Tánh, Như Lai Tàng…) và Vọng Tâm. Vọng Tâm chính là 8 thức Tâm Vương bao gồm A Lại Da và 7 Chuyển Thức: Mạt Na thức, Ý thức, Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỹ thức, Thiệt thức, Thân thức. Theo Đại Thừa Khởi Tín Luận (tác giả = tổ Mã Minh (80-150), Dịch giả Phạn- Hán = ngài Chơn Đế Tam Tạng(499-569), dịch giả Hán- Việt = Hòa thượng Thích Thiện Hoa(1918-1973), sự liên hệ giữa Chơn Tâm và A Lại Da thức được diễn tả như sau: "Do không thật biết pháp "Chơn Như" nên tâm Bất Giác (mê) nổi lên, liền khởi vọng niệm (sanh tướng vô minh). Song vọng niệm vì là không có thật thể, nên chẳng rời Bản Giác".
2. Do vì từ nơi A Lại Da thức mà có ra sự lưu xuất, hình thành nên 7 Chuyển Thức nên A Lại Da còn có tên gọi khác là Căn Bản Thức. Căn Bản Thức chỉ mới có 5 tâm sở sơ khởi, sơ khai có dụng năng còn rất yếu ớt gọi là 5 Biến Hành tâm sở bao gồm: Xúc, Tác Ý, Thọ, Tưởng, và Tư. Vì thế, cảnh giới của A Lại Da thức được mô tả là "vô phú, vô ký" (không có chỗ nương tựa, chưa có phân biệt thiện ác) nên là rất nhẹ nhàng, bao la, mênh mang, hồn nhiên, không vướng mắc, không trụ chấp, không phân biệt thiện ác, dở hay, tốt xấu.
3. Tuy nhiên, A Lại Da thức chính là cội nguồn sâu xa nhất của Vọng Tưởng vì là nơi khởi phát ra 5 tâm sở Biến Hành trong đó có tâm sở Tưởng và tâm sở Tư, bản chất cố hữu của các loại Vọng Tưởng.
4. A Lại Da thức có công năng tích chứa chủng tử nghiệp thức nên A Lại Da còn có tên gọi khác là “Tàng Thức” ( hay Tạng Thức, Thức Tích Chứa, Thức Kho Tàng) hoặc là "Nhất Thiết Chủng Thức" (Thức Chứa Tất Cả Chủng Tử). Các chủng tử đã được gây tạo bởi 3 nghiệp (thân, khẩu, ý) rồi được tàng trử, tích chứa nơi A Lại Da thức thật an toàn, không bị mất mát, hư hao từ đời này qua đời khác trong vô lượng kiếp sống của tất cả chúng sinh.
5. Với sự biến hành của kho chủng tử, thức A Lại Da còn có tên gọi là Dị Thục Thức. Do vì các chủng tử này chính là đầu mối của chu trình nhân quả luân hồi, nôm na gọi là "Quả Báo". Nhưng từ nhân đến quả có các điểm dị biệt về thời gian ("Dị Thời nhi Thục"), về hoàn cảnh ("Dị Biến nhi Thục"), và về phẩm loại ("Dị Loại nhi Thục").
6. A Lại Da thức là tâm thức vi tế, sâu thẳm nhất, và bị ngăn che bởi 2 tầng lớp là Mạt Na thức (Thức tư lương chấp ngã) và Ý thức (Thức tư duy chấp pháp) nên rất khó nhận biết được trong đời sống thường nhật. Chỉ có các vị Thánh, từ giai vị Tu Đà Hoàn ( Thanh Văn thừa) hoặc Bồ Tát Sơ Địa ( Bồ Tát thừa) mới có thể thấy biết đươc từng phần mà thôi. Đây là các bậc Thánh đã hoàn tất giai đoạn Kiến Đạo, giai đoạn đã thấy biết rõ ràng về con đường Tu Đạo chơn chánh do đã hoàn tất đoạn trừ xong 5 Kiến Hoặc (Thân kiến, 2. Biên kiến, 3. Kiến thủ, 4. Giới cấm thủ, và 5. Tà kiến), đã ngộ nhập vào A Lại Da thức, đã mấp mé thấy được Chơn Tâm, Phật Tánh dù đây chỉ mới là từng phần, chưa là trọn vẹn.
7. A Lại Da thức chỉ được xả hết công năng chấp trì chủng tử nghiệp thức khi tu tập đạt đến giai vị A La Hán(Thanh Văn thừa) hoặc Bồ Tát Bát Địa (Bồ Tát thừa), các bậc đã hoàn tất tốt đẹp chặng đường Tu Đạo. Lúc này, A Lại Da thức được gọi tên là "Bạch Tịnh thức" hay là “Vô Cấu thức”.
Câu 2: "Cầu trụ Duy Thức tánh" (Mong trụ tánh Duy Thức): đây là nét đặc sắc nhưng rất quan yếu trong tu tập Phật đạo cho hành giả Tư Lương vị. Đó là hành giả cần phát tâm mong cầu thấy được, ngộ nhập được vào tánh Duy Thức, vào A Lại Da thức. Điều này đương nhiên hàm chứa 2 ý nghĩa: Ý nghĩa thứ nhất là hành giả cần có lòng tin chơn chánh (chánh tín) về Phật tánh và về tánh của thức A Lại Da. Hai tánh này vốn có tương quan gắn bó mật thiết với nhau như đã nêu ở phần trên. Ý nghĩa thứ hai là hành giả cần phát tâm ham thích, mong muốn, khát khao được hội nhập, an trụ vào thức A Lại Da. Tâm mong muốn, ham thích này cũng chính là bước khởi đầu của Dục Như Ý Túc, 1 trong 4 Thần Túc (Tứ Thần Túc : 1.Dục Thần Túc, 2. Tinh Tấn Thần Túc, 3.Tâm Thần Túc, 4. Quán Thần Túc), cũng là 4 trong 37 Phẩm Trợ Đạo, Đạo Đế của Tứ Diệu Đế, giáo lý căn bản của Phật Đạo. Tâm ham thích ở đây có thể xem là một dạng thái của tâm tham nhưng không phải là tâm tham phiền não , một trong 5 Căn Bản Phiền Não (Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Ác Kiến) của thế gian, vốn là tâm Ý thức bôn ba bám chấp, chạy đuổi theo 6 trần cảnh (Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp) ở bên ngoài. Trái lại, nó là tâm ngược chiều với tâm tham Ý thức phiền não vì là tâm hướng nội quay về hội nhập với A Lại Da thức. Do vậy, tâm ham thích hướng nội này được xem là một dạng thái sơ khởi của Định (Tam Ma Địa), nên còn có tên gọi là "Dục Tam Ma Địa" hoặc tên gọi đầy đủ là "Dục Tam Ma Địa Đoạn Hành Thành Tựu Thần Túc”. Có thể nói nôm na đây là Tham để nhập Định, không là Tham phiền não, khổ đau luân hồi. Như thế, ở giai đoạn Tư Lương, hành giả ngoài sự học hỏi, hiểu biết về Phật pháp, về Duy Thức còn cần phát khởi tín tâm chân chính và phát khởi lòng ưa muốn, ham thích ngộ nhập vào A Lại Da thức nữa.
Câu 3 và câu 4: “Ư Nhị Thủ tùy miên, Do vị năng phục diệt” (Còn hai Thủ tiềm ẩn Do chưa hàng phục, đoạn trừ). Thủ là bám giữ (thủ chấp). Hai Thủ gồm Năng Thủ (chủ thể thủ chấp) và Sở Thủ (đối tượng bị thủ chấp). Hai Thủ này được cảm nhận là công năng và tính chất chủ yếu của Mạt Na thức. Chúng là 2 dạng thể chuyển hành tinh khôi nơi tâm thức chúng sinh: Mạt Na thức (Năng Thủ) đã chấp thủ Kiến Phần của A Lại Da thức (Sở Thủ) làm bản ngã. Từ đây bắt đầu thấy ra có cái ta (Ngã) và có những cái không phải là ta (Nhân, Chúng Sanh, Thọ Giả). Như thế, muốn trở về hội nhập vào A Lại Da thức, Ý thức cần hoàn tất 2 việc: Việc thứ nhất là xa rời sự ràng buộc, tham chấp vào cảnh trần phiền não của Ý thức; đây được xem như tương ưng với công phu "Ly Sanh Hỷ Lạc" của cảnh giới Sơ Thiền. Việc thứ hai là cần vượt qua sự cản ngại của Mạt Na thức, nghĩa là cần khắc phục và đoạn trừ 2 thủ chấp, Năng Thủ và Sở Thủ, nơi Mạt Na thức. Việc thứ nhất cần được hoàn tất ở giai vị Tư Lương. Sau đó, việc thứ hai sẽ bắt đầu được hoàn tất ở các giai vị sau. Nên bài tụng nói là ở giai vị Tư Lương, hai Thủ còn hiện hữu ở trạng thái tiềm ẩn, do chưa được hàng phục, đoạn trừ.
Bài tụng thứ hai (Gia Hạnh vị): Duy Thức Tam Thập Tụng có 4 câu là:
"Hiện tiền lập thiểu vật
Vị thị Duy Thức tánh
Dĩ hữu sở đắc cố,
Phi thật trụ Duy Thức"
Tạm dịch:
"Lúc này đã tạo được chút thành tựu
Chưa là Duy Thức tánh
Do đã có chỗ sở đắc
Không là thật trụ Duy Thức"
Ý nghĩa 4 câu của Gia Hạnh vị được ghi nhận là:
Câu 1 và câu 2: " Hiện tiền lập thiểu vật Vị thị Duy Thức tánh " (Lúc này đã tạo được chút thành tựu, Chưa là Duy Thức tánh): Ở giai đoạn này, hành giả đã tạo thêm được một số thành tựu trên con đường tu tập. Cảm nhận theo Biện Trung Biên Luận (Bồ Tát Di Lặc thuyết kệ, Bồ Tát Thế Thân (316-396) luận giải, ngài An Huệ (475-555) thích sớ, ngài Chân Đế (499-569) dịch Phạn sang Hán, Quảng Minh dịch Hán sang Việt), các thành tựu tu tập này bao gồm các thành tựu công phu tu tập về 4 Niệm Xứ, 4 Chánh Cần, 4 Như Ý Túc, 5 Căn, 5 Lực, và Tứ Gia Hạnh (tổng cọng là 22 phẩm trong 37 Trợ Đạo phẩm). Theo luận Hiển Dương Thánh Giáo (Tác giả: Đại sĩ Vô Trước (310-390), Dịch giả Phạn- Hán: Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang (602-664), Dịch giả Hán- Việt: Quảng Minh), và theo Biện Trung Biên luận (Bồ Tát Di Lặc thuyết kệ, Bồ Tát Thế Thân (316-396) luận giải, ngài An Huệ (475-555) thích sớ, ngài Chân Đế (499-569) dịch Phạn sang Hán, Quảng Minh dịch Hán sang Việt) , ý nghĩa của 22 phẩm này được ghi nhận tổng quát như sau:
1) Tứ Niệm Xứ: là 4 chỗ qui huớng, tập trung tâm thức để giảm thiểu bớt đi tạp niệm và để tăng cường thêm sức Định, sức Huệ. 4 chỗ đó là:
1. Thân: tâm niệm qui hướng về nhục sắc thân, theo sát và rõ biết về thân, về hơi thở vào ra nơi thân, cảm nghiệm được sự Bất Tịnh nơi thân của chính mình.
2. Thọ: tâm niệm qui hướng và rõ biết về các cảm thọ nơi thân và nơi tâm của chính mình. Có 5 cảm thọ chính là Ưu thọ, Khổ thọ, Hỷ thọ, Lạc thọ, và Xả thọ, nhưng tất cả rõ ra đều chỉ là khổ đau, não phiền.
3. Tâm : tâm niệm qui hướng và rõ biết về các hành chuyển, các trạng thái Vô Thường, các sắc thái hiện khởi ra trong tâm thức của chính mình.
4. Pháp: tâm niệm qui hướng và rõ biết về dạng loại, hành trạng, bản chất Vô Ngã của các pháp hiện khởi ra trong tâm thức của chính mình.
2) Tứ Chánh Cần: bao gồm 4 pháp rèn luyện tâm thức qui hướng về chỗ thiện lành, lìa xa các nẻo ác trược. 4 pháp này là:
1. Pháp ác đã sanh thì khởi ước muốn, nỗ lực phát khởi Chánh Cần, giục tâm, giữ tâm để đoạn trừ chúng,
2. Pháp ác chưa sanh thì khởi ước muốn, nổ lực phát khởi Chánh Cần, giục tâm, giữ tâm để giữ cho chúng không sanh,
3. Pháp thiện chưa sanh thì khởi ước muốn, nổ lực phát khởi Chánh Cần, giục tâm, giữ tâm để phát sinh chúng,
4. Pháp thiện đã sanh thì khởi ước muốn, nổ lực phát khởi Chánh Cần, giục tâm, giữ tâm để an trú, không quên lãng, tu viên mãn, tăng trưởng rộng lớn thêm.
3) Tứ Như Ý Túc (còn gọi là “Tứ Thần Túc”) bao gồm 4 thứ : Dục Như Ý Túc, Cần (Tinh Tấn) Như Ý Túc, Tâm Như Ý Túc, và Quán Như Ý Túc. Ý nghĩa Tứ Như Ý Túc được ghi nhận theo Hiển Dương Thánh Giáo luận là:
1. Dục Như Ý Túc: là Dục Tăng Thượng nên đắc Tam Ma Địa. Dục Như Ý Túc và ba Như Ý Túc còn lại đều là các loại Tam Ma Địa (Định). Dục Như Ý Túc được gọi là Dục Tăng Thượng Tam Ma Địa. Định này bắt nguồn từ công phu tu tập Tứ Chánh Cần, từ nơi tâm mong muốn các ác pháp bị trừ diệt, không còn hiện hành và mong muốn các pháp thiện được hiện hành và tăng trưởng thêm lên. Định sau đó được tiếp tục triển chuyển ra thành Tâm Trú Nhất Cảnh Tánh.
2. Cần Như Ý Túc: là Cần Tăng Thượng nên đắc Tam Ma Địa. Đây là tinh tấn, dũng mãnh, nhiệt thành, siêng năng tu tập 8 pháp Đoạn Hành để chứng đắc Tâm Trú Nhất Cảnh Tánh. Tám pháp Đoạn Hành là pháp tu căn bản của Tứ Như Ý Túc, đặc biệt ở 3 Như Ý Túc sau (Cần Như Ý Túc, Tâm Như Ý Túc, và Quán Như Ý Túc). Tám pháp Đoạn Hành bao gồm:
(1) Dục : là tâm mong muốn các ác pháp bị trừ diệt, không còn hiện hành và mong muốn các pháp thiện được hiện hành và tăng trưởng thêm lên.
(2) Cần (Tinh Tấn): là siêng năng tu tập Xa Ma Tha (Chỉ) và Tỳ Bát Xá Na (Quán).
(3) Tín: là nhân tố để khởi Dục, là sở nhân cho Dục, do từ Tín mà có Dục sanh khởi.
(4) An: là nhờ có Tinh Tấn mà thân tâm không còn nặng nề, thô nặng mà trở nên nhẹ nhàng, thư thái để có thể kham nhiệm.
(5) Chánh Niệm: là phòng hộ tâm hôn trầm và trạo cử của Tùy Phiền Não khiến cho tâm ghi nhớ, không quên.
(6) Chánh Tri: là tâm liền nhận ra, nhận thấy, nhận biết bất cứ khi nào có Tùy Phiền Não hiện hành.
(7) Tư: là tâm tạo tác trong khi Tịnh Chỉ (tâm chán ghét các cảnh sở duyên nổi lên từ trạo cử) và khi Sách Cử (tâm phấn chấn trở lại sau khi hôn trầm).
(8) Xả: là tâm bình đẳng, chánh trực, an trú Bất Nhiễm Ô, đã rời xa trạo cử, hôn trầm.
3. Tâm Như Ý Túc: là Tâm Tăng Thượng nên đắc Tam Ma Địa. Đây là hành giả tu tập hạnh Xa Ma Tha, tư duy nội pháp (các Tưởng Uẩn, Hành Uẩn của 5 Uẩn), đắc Tâm Trú Nhất Cảnh Tánh mà thành tựu Tam Ma Địa.
4. Quán Như Ý Túc: là Quán Tăng Thượng nên đắc Tam Ma Địa. Đây là do công phu tu tập quán sát mà thành tựu Tam Ma Địa: hành giả nghe học Chánh Pháp, ghi nhớ rồi dùng trí tuệ giản trạch, quán sát, biến giác quán sát mà đắc Tam Ma Địa”.
Các thành quả này là tiền đề cơ bản để xây dựng và hình thành nên hai phần tiếp theo trong tu tập 37 Trợ Đạo Phẩm là Ngũ Căn và Ngũ Lực.
4) Ngũ Căn (Năm Căn) và Ngũ Lực (Năm Lực): bao gồm Tín Căn và , Tấn Căn và, Niệm, Căn và, Định Căn và, và Tuệ Căn và. Chữ “Căn” ở đây có thể được xem là căn nguồn, cội nguồn, căn cứ địa, căn cứ xuất phát, nơi khởi phát ra 5 Lực, 5 khả năng, 5 trạng thái hoạt dụng thiện lành của tâm thức là Tín, Tấn, Niệm, Định, và Tuệ . Ý nghĩa của 5 Căn và 5 Lực được sơ lược ghi nhận như sau:
1. Tín Căn và Tín Lực: là do Thế Gian Đạo khiến tâm thanh tịnh, trong sáng, không dơ bẩn, lìa Tùy Phiền Não, được trú Bất Động. Rồi sau cầu Thánh Đế Hiện Quán đễ vĩnh đoạn Tùy Miên, tu tập các phương tiện đối trị, nhờ đó tăng khởi Thượng Tín Căn, Thượng Tín Lực.
2. Tấn Căn (còn gọi là Chánh Cần Căn) và Tấn Lực: là dựa vào Tín Căn và Tín Lực, tu tăng tiến dũng mãnh, cùng hành chuyển với Tín Căn và Tín Lực.
3. Niệm Căn và Niệm Lực: là dựa vào Tấn Căn và Tấn Lực nên trí được sáng tỏ, không quên lãng, cùng hành chuyển với Tấn Căn và Tấn Lực.
4. Định Căn (còn gọi là Đẳng Trì Căn) và Định Lực: là dựa vào Niệm Căn và Niệm Lực, Tâm Trú Nhất Cảnh, cùng hành chuyển với Niệm Căn và Niệm Lực.
5. Tuệ Căn và Tuệ Lực: là dựa vào Định Căn và Định Lực, Tuệ giản trạch các pháp, cùng hành chuyển với Định Căn và Định Lực.
5) Tứ Gia Hạnh: bao gồm 4 giai vị là Noãn vị, Đảnh vị, Nhẫn vị, và Thế Đệ Nhất vị.
1. Noãn Vị: (Noãn là ấm nóng) là giai đoạn tâm thức cảm thấy được ấm nóng do từ công phu tu tập 5 Căn, 5 Lưc. Đây là giai đoạn báo hiệu sắp có lửa, ánh sáng nơi Thánh Đạo. Ở giai vị này, hành giả quán thấy các pháp tự tướng, các pháp cộng tướng đều chỉ là ý ngôn mà hoạch đắc Trí Pháp Minh, quán sát được chân xác các cảnh sở duyên của các pháp.
2. Đảnh Vị: (Đảnh là đỉnh đầu, đỉnh núi) là từ Noãn Vị được tăng trưởng rồi thành mãn mà chuyển lên.
3. Nhẫn Vị: Nhẫn là xác nhận (nhẫn khả) các pháp chỉ toàn là duy tâm, nên từ đây không còn bị thoái đọa trên con đường tu tập nữa.
4. Thế Đệ Nhất Vị: là thấy rõ cả thế gian chỉ là pháp hữu lậu. Trong các pháp hữu lậu này, pháp Hiện Quán của Bồ Tát là hơn cả nên gọi là Thế Đệ Nhất. Đến đây, Bồ Tát tu tập pháp Hiện Quán Thánh Đế, quán sát thành công nên thấu rõ được Lý Tứ Đế ở ba cõi (Dục Giới, Sắc Giới, và Vô Sắc Giới) mà có đủ được 16 Tâm (16 Trí) cần thiết để “Thấy Đạo”(Kiến Đạo), đắc Thánh vị. Bồ Tát hội nhập Cảnh Không, hòa nhập vào A Lại Da thức nên khiến 7 Chuyển Thức không còn phát sinh, làm điều kiện đưa đến Định Vô Gián để phát sinh Trí Vô Lậu, gọi là đắc nhập Kiến Đạo và Chánh Tánh Ly Sanh. Đắc nhập Kiến Đạo được gọi là đã chứng Thánh vị, đắc quả vị Tu Đà Hoàn (bên Thanh Văn thừa), tương đương với quả vị Bồ Tát Sơ Địa (quả vị đầu tiên trong 10 quả vị Bồ Tát Đăng Địa bên Bồ Tát thừa).
Câu 3 và câu 4: “Dĩ hữu sở đắc cố, Phi thật trụ Duy Thức” (Do đã có chỗ sở đắc, Không là thật trụ Duy Thức): Chỗ thành tựu tu tập trong 24 phẩm Trợ Đạo vừa nêu trên được gọi là chỗ "Sở Đắc". Đắc chính là 1 trong 24 Tâm Bất Tương Ưng Hành, được kể đến đầu tiên trong Duy Thực 24 Tâm Bất Tương Ưng Hành bao gồm: 1. Đắc, 2. Mạng Căn, 3.Chúng Đồng Phận, 4. Dị Sanh Tánh, 5. Vô Tưởng Định, 6. Diệt Tân Định, 7. Vô Tưởng Báo, 8. Danh Thân, 9. Cú Thân, 10. Văn Thân, 11. Sinh, 12. Trụ, 13. Lão, 14. Vô Thường, 15. Lưu Chuyển, 16. Định Vị, 17. Tương Ưng, 18. Thế Tốc, 19. Thứ Đệ, 20. Thời, 20.Phương, 22. Số, 23.Hòa Hợp, 24. Bất Hòa Hợp. Được gọi là "Bất Tương Ưng Hành" vì 24 Tâm này không tương ưng, không lệ thuộc vào bộ ba "Căn-Trần-Thức" hòa hợp mà sinh khởi. Nói cách khác, tâm thức của hành giả đã không còn bám đuổi theo 6 trần cảnh bên ngoài, mà quay ngược vào bên trong nội tâm, hướng về Mạt Na thức và ra sức vượt qua Mạt Na thức. Tựu trung, Mạt Na thức có 6 đặc điểm chính yếu, tạm nêu như sau:
1. Mạt Na thức là thức đầu tiên của 7 Chuyển Thức triển chuyển từ A Lại Da thức (Thức Thứ Tám) nên nó còn có tên gọi là Thức Thứ Bảy. Mạt Na thức có tánh Hữu Phú Vô Ký; gọi là Hữu Phú vì nó có chỗ nương dựa vào nơi thức A Lại Da, gọi là Vô Ký vì nó không có công năng phân biệt thiện ác như Ý thức.
2. Mạt Na Thức là thức trung gian giữa A Lại Da thức và Ý thức nên nó còn được gọi là Ý Căn (Căn nguồn của Ý thức). Gọi là Căn nguồn của Ý thức, vì Mạt Na thức có công năng đem các chủng tử từ Tạng thức A Lại vào nơi Ý thức, khiến Ý thức có thêm cơ sở cho hoạt dụng phân biệt cảnh trần. Ngoài ra, cũng chính Mạt Na thức đem các pháp hiện hành từ nơi Ý thức mà truyền ngược vào Tạng thức, biến thành chủng tử thêm cho kho Tạng thức, nên nó lại còn có tên là ”Truyền Tống thức”.
3. Mạt Na thức có tánh chấp trụ, đầu mối của tâm phan duyên và tâm phân biệt: Mạt Na thức chấp Kiến Phần của A Lại Da làm tự ngã nên có ra Ngã Tướng đầu tiên. Rồi từ Ngã Tướng này lại có sự phân biệt ra hai bên (nhị biên) mà tiếp tục phát triển tựu thành 3 tướng còn lại là Nhân Tướng, Chúng Sanh Tướng, Thọ Giả Tướng. Sự tựu thành và phát triển ra 4 tướng (Ngã, Nhân, Chúng Sanh, Thọ Giả) được cảm nhận là ý niệm về "Chúng Sanh Trược" ở kinh Thủ Lăng Nghiêm.
4. Dưới ảnh hưởng tác động từ vô lượng chủng tử nghiệp thức, Mạt Na thức cũng có tánh tuôn chảy không ngửng nghỉ giống như ở A Lại Da thức. Nó thường được ví như tiếng nói thầm thì liên tục đêm ngày, lúc tỉnh thức và cả lúc mộng ngủ; hoặc ví như nước liên tục rỉ chảy từ ống nước ăn thông, nối liền vào biển lớn.
5. Mạt Na thức cũng chính cưu mang sẵn trong nó tính chất phiền não. Điều này được thể hiện qua sự hiện diện nơi Mạt Na thức của 4 tâm sở Căn Bản Phiền Não (Tham, Si, Mạn, Ác Kiến) và của 8 tâm sở Đại Tùy Phiền Não (Trạo Cử, Hôn Trầm, Bất Tín, Giải Đãi, Phóng Dật, Thất Niệm, Tán Loạn, và Bất Chính Tri). Tổng cọng là 12 tâm sở, chiếm đến 2 phần 3 trong 18 tâm sở cố hữu của Mạt Na thức (gồm 12 tâm sở Phiền não và có thêm 5 tâm sở Biến Hành cùng 1 tâm sở Biệt Cảnh Huệ).
6. Mạt Na thức chính là lớp ngăn che ở giữa Ý thức và A Lại Da thức. Nó khiến tâm hành giả không thể cảm nhận, còn mờ mịt về A Lại Da thức và về Như Lai Tạng tâm nên nó cũng thường được nhà Thiền ví như Thùng Sơn Đen, Đầu Sào Trăm Trượng, Vô Thủy Vô Minh… Muốn cảm nhận và thể nhập vào A Lại Da thức, tâm thức hành giả cần phải vượt qua lớp rào chắn Mạt Na thức Vô Thủy Vô Minh, tức là vượt qua lớp rào chắn tư lương chấp ngã này. Khi đó, tâm hành giả không còn có chấp Ngã nữa, tâm được hòa nhập vào thức A Lại Da, trụ vào Duy Thức tánh.
Do vậy, các thành tựu nơi Tứ Gia Hạnh vị này cũng chỉ được xem là "chút ít", chưa có thể hội nhập, thể nhập vào A Lại Da thức nên bài tụng nói " Chưa là Duy Thức tánh”.
Bài tụng thứ ba (Thông Đạt vị): Duy Thức Tam Thập Tụng có 4 câu là:
"Nhược thời ư sở duyên
Trí đô vô sở đắc
Nhỉ thời trụ Duy Thức
Ly Nhị Thủ tướng cố "
Tạm dịch:
"Nếu khi đối trước cảnh
Trí đều không có chỗ đắc
Lúc đó trụ Duy Thức
Đã lìa tướng Hai Thủ"
Thông Đạt vị tương ưng với quả vị Kiến Đạo nơi Bồ Tát Sơ Địa (Hoan Hỷ Địa), quả vị đầu tiên trong 10 Thánh vị Đăng Địa của Thập Địa Bồ Tát. Bên Thanh Văn thừa, quả vị này tương ứng với Sơ Quả vị Tu Đà Hoàn. Gọi là Kiến Đạo bởi vì bắt đầu từ quả vị này, tâm Bồ Tát đã vượt qua Mạt Na thức, đã không còn có chấp Ngã nên Bồ Tát đã bắt đầu sống được với phần nào Giác Tánh, đã thấy biết ("Kiến") rõ con đường ("Đạo") tu tập chơn chánh thâm sâu nhất trong Phật Đạo. Bậc Sơ Quả Tu Đà Hoàn, còn gọi Nhập Lưu hay Thất Lai, nhờ vào tuệ giác có được từ 5 Căn, 5 Lực, Tứ Gia Hạnh nên đã tận diệt ba kiết sử Thân kiến, Nghi và Giới cấm thủ; nhưng các vị còn phải có bảy lần tái sanh trở lại vào Dục Giới để tiếp tục con đường tu tập tối thượng. Theo kinh Hoa Nghiêm (Dịch giả Phạn-Hán: Đại sư Thật Xoa Nan Đà (652-710), Dịch giả Hán-Việt: Hòa thượng Thích Trí Tịnh (1917-2014), Bồ Tát Sơ Địa được goi tên là Hoan Hỷ Địa vì từ nay, Bồ Tát được vui mừng rất lớn (hỷ duyệt, hân khánh...) do đã bắt đầu khởi nhận được trí Bát Nhã, thấy rõ con đường Tu Đạo. Các Ngài mong cầu Phật Trí, luôn nghĩ tưởng về Tam Bảo, không còn tham luyến danh sắc, ưa thích thực hành Bố Thí Ba La Mật (1 trong 10 Ba La Mật), Bố Thí Nhiếp Pháp, Ái Ngữ Nhiếp Pháp (2 trong 4 Tứ Nhiếp Pháp), Tứ Vô Lượng Tâm (Từ Bi Hỷ Xả) nên tâm các Ngài được Vô Úy, không còn kinh sợ nơi thế gian, sinh tử. Đây chính là " KIẾN ĐẠO KHỞI TU " (thấy ra con đường Đạo mà bắt đầu hành trì pháp Tu Tập tối thượng ) trong đạo Phật. Qui luật tất yếu ở đây là cần phải thấy ra con đường ("Kiến Đạo"), sau đó mới có thể bước đi trên con đường ("Tu Đạo").
Qua Biện Trung Biên Luận và qua Hiển Dương Thánh Giáo Luận, giai vị Kiến Đạo Tu Đà Hoàn chuyên chú tu tập về Thất Giác Chi, 7 phẩm trong 37 Trợ Đạo phẩm sau khi đã hoàn tất tốt đẹp 22 phẩm ở các giai vị trước. Thất Giác Chi được định nghĩa là “Bảy chi hổ trợ cho Tuệ Giác”. Bảy chi này bao gồm:
1. Niệm Giác Chi: là chi phần sở y cho Tuệ Giác, là tâm trí sáng tỏ Thánh Đế, không quên Thánh Đế. Đây là do đã có đủ thiện lực để Kiến Đạo hiện tiền, đắc nhập xuất thế Vô Công Dụng, Vô Phân Biệt.
2. Trạch Pháp Giác Chi: là chi phần tự tánh của Tuệ Giác, là do đã có Tuệ Giác vô phân biệt, vô công dụng nên y chỉ nơi Niệm, cùng Niệm câu hành, vì thế hiểu rõ, giác ngộ Thánh Đế.
3. Tinh Tấn Giác Chi: là chi phần xuất ly của Tuệ Giác, là sanh tâm dũng mãnh nơi Thánh Đế.
4. Hỷ Giác Chi: là chi phần lợi ích của Tuệ Giác, là có tâm hỷ duyệt nơi Thánh Đế.
5. Khinh An Giác Chi: là chi phần Vô Nhiễm của Tuệ Giác, có thể là Tuệ tâm sở, là có thân tâm kham nhiệm ở trong Chân Đế Hiện Quán (Kiến Đạo ly Tam Giới), lấy tánh Kham Năng làm chỗ dụng công tu tập.
6. Định (Tam Ma Địa) Giác Chi: là chi phần Vô Nhiễm của Tuệ Giác, là chỗ sở y của Vô Nhiễm để có được Chuyển Y, là có tâm trú Nhất Cảnh Tánh ở trong Chân Đế Hiện Quán.
7. Xả Giác Chi: cũng là chi phần Vô Nhiễm của Tuệ Giác, là tự tánh của Vô Nhiễm , là có tâm bình đẳng, tâm chánh trực, tâm không chuyển động ở trong Chân Đế Hiện Quán. Nơi Xả Giác Chi, các phiền não tạp nhiễm đều bị đoạn trừ nên hiển lộ tự tánh Vô Nhiễm .
Ý nghĩa 4 câu của Thông Đạt vị được ghi nhận là:
Câu 1: " Nhược thời ư sở duyên " (Nếu khi đối trước cảnh): Câu này có 2 điểm quan trọng sau:
1. Chữ "Thời" trong câu kệ này cũng chính là một trong 24 món Tâm Bất Tương Ưng Hành pháp, giống như chữ "Đắc" đã đề cập ở phần trên: Còn có "Thời" là còn chưa vượt thoát khỏi tầm tác động, ảnh hưởng của thức A Lại Da dù trí Bát Nhã đã được hé lộ.
2. Cảnh sở duyên của Thông Đạt vị có thể được phân biệt ra 2 loại: Loại 1 vẫn còn là 6 cảnh trần (Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp) của phần Tư Duy nơi Ý Thức hướng ngoại; loại 2 là cảnh giới của A Lại Da thức chỉ với 5 tâm sở Biến Hành và với 1 Xả Thọ nơi Ý thức hướng nội đã vượt qua "thùng sơn đen" Tư Lương chấp ngã Mạt Na thức. Nói cách khác, Thông Đạt vị là bậc Thánh đã có thêm được Thiên Nhãn, Huệ Nhãn nhưng Nhục Nhãn vẫn không mất.
Câu 2: " Trí đô vô sở đắc " (Trí đều không có chỗ đắc):
"Trí không có chỗ đắc" này được cảm nhận chính là trí Bát Nhã. Trí Bát Nhã tự hiển bày khi tâm hành giả đã có đầy đủ 5 Căn, 5 Lực, Tứ Gia Hạnh vị và khi A Lại Da không còn bị Mạt Na thức che khuất. Tựu trung, trí Bát Nhã có 6 đặc điểm sau:
1. Trí Bát Nhã là Trí của các bậc Thánh, của các Bồ Tát Đăng Địa (Thập Địa Bồ Tát), bắt đầu từ Bồ Tát Sơ Địa (tương đương với quả vị Tu Đà Hoàn bên Thanh Văn thừa) lên đến Bồ Tát Bát Địa (tương đương với quả vị A La Hán bên Thanh Văn thừa). Trí này vượt hẳn qua trí tuệ thế gian: phàm phu và ngay cả các nhà bác học, thông thái của thế gian cũng không thể biết được Trí Bát Nhã khi chưa Kiến Đạo. Đến giai vị Thiện Huệ (Cửu Địa), không còn gọi là trí Bát Nhã vì Bồ Tát đã được thể nhập vào Phật trí bất tư nghì.
2. Trí Bát Nhã là Trí đã khuất phục và đã vượt qua 2 chấp trụ cơ bản nhất của tâm thức: Hai chấp trụ này là Ý thức tư duy chấp pháp khiến có sinh khởi ra mê mờ, phiền não (Kiến Hoặc, Tư Hoặc, Căn Bản Phiền Não, Tùy Phiền Não...) và là Mạt Na thức tư lương chấp ngã khiến có ra 2 Thủ (Năng Thủ và Sở Thủ). Điều này khiến Trí Bát Nhã còn được gọi là Trí Vô Trụ, trí không có chỗ trụ (vượt qua ý niệm về không gian), trí không có lúc trụ (vượt qua ý niệm về thời gian) vì Thể và Dụng của trí Bát Nhã hằng hữu bàng bạc, mênh mang khắp không gian, khắp thời gian.
3. Do đã vượt qua các chấp trụ nêu trên, Trí Bát Nhã là Trí sẵn có khả năng hội nhập, thể nhập vào A Lại Da thức. Nói cách khác, tầng bậc nhập Định của các bậc Thánh này có khi khiến tâm các vị chỉ còn có 5 tâm sở Biến Hành và Xả thọ của A Lại Da thức.
4. Trí Bát Nhã là Trí thấy được Pháp thân (hay Pháp tánh, Phật tánh..) nên kinh Bát Nhã gọi Trí Bát Nhã là mẹ đẻ của chư Phật, chư Bồ Tát. Tuy nhiên, điều này còn tùy thuộc vào mức độ tu tập: Ở Sơ Địa Bồ Tát (giai vị vừa được Kiến Đạo), Bồ Tát chỉ thấy được một phần Pháp thân mà thấy không rõ ràng; còn ở Bát Địa Bồ Tát (giai vị hoàn tất Tu Đạo), Bồ Tát thấy Pháp thân được trọn vẹn, toàn phần rõ ràng hơn.
5. Do đã thấy ra Phật tánh, trí Bát Nhã là Trí tràn đầy thiết tha với Phật tánh nên đến lúc này, tâm Bồ Tát thực thụ chỉ hướng về Phật tánh, về Như Lai,về Vô Dư Y Niết Bàn mà không còn có chỗ bám víu, chỗ sở đắc nào khác nên bài tụng nói là “Trí đều không có chỗ đắc”.
6. Trong tu tập, trí Bát Nhã là Trí đã đã thấu rõ các hành chuyển, qui hướng, ưa thích...của tâm chúng sinh để giúp cho Bồ Tát tu tập có hiệu quả tốt đẹp về Tứ Nhiếp Pháp (4 pháp cấn thiết để nhiếp phục mà giáo hóa, hóa độ cho tất cả chúng sinh, bao gồm 1. Bố thí, 2. Ái ngữ, 3. Lợi hành, 4. Đồng sự); và cũng là Trí thông thấu về 2 bờ, bờ bên này và bờ bên kia, để giúp Bồ Tát tu tập có hiệu quả tốt đẹp về 10 Ba La Mật, 10 pháp tu tập đưa qua bờ bên kia, bao gồm: 1. Bố thí, 2. Trì giới, 3. Nhẫn Nhục, 4. Tinh Tấn, 5. Thiền Định, 6. Bát Nhã, 7. Phương tiện, 8. Nguyện, 9. Lực, 10. Trí Huệ, mà đi từ bờ bên này (bờ khổ đau- sinh tử) qua đến bờ bên kia (bờ giải thoát- tịch diệt).
Câu 3 và câu 4: " Nhỉ thời trụ Duy Thức , Ly Nhị Thủ tướng cố " (Lúc đó trụ Duy Thức, Đã lìa tướng Hai Thủ): "Trụ Duy Thức" là an trụ A Lại Da thức, là an trụ Duy Thức tánh vì A Lại Da chính là tánh của Duy Thức. An trụ vào A Lại Da cũng có nghĩa là tâm thức Bồ Tát đã vượt qua Mạt Na thức, vượt qua Nhị Thủ (Năng thủ, Sở thủ) của Mạt Na thức. Như thế, đến đây tâm thức Bồ Tát đã hoàn toàn rời lìa được 2 tầng lớp mê mờ quan trọng: Tầng lớp 1 là các tâm thức mê mờ của Kiến Hoặc (Thân kiến, Biên kiến, Kiến thủ, Giới Cấm thủ, Tà Kiến) từ nơi Ý thức chấp thủ, bám víu vào thân tâm 5 uẩn và vào dụng năng Thấy- Nghe- Hay- Biết (Kiến Văn Giác Tri) của thân tâm 5 uẩn; tầng lớp 2 là tâm thức bám víu chấp Ngã, tâm thức cội nguồn của Nhị Thủ (Năng thủ, Sở thủ) của Mạt Na thức. Chỗ này cũng chính là nền tảng cần thiết để Bồ Tát có thể tiếp tục tu tập đoạn trừ Tư Hoặc và xả bỏ A Lại Da thức trong các giai vị Tu Tập tiếp theo.
Bài tụng thứ tư (Tu Tập vị): Duy Thức Tam Thập Tụng có 4 câu là:
"Vô Đắc bất tư nghì
Thị xuất Thế Gian Trí
Xả nhị Thô Trọng cố
Tiện chứng đắc Chuyển Y"
Tạm dịch:
" Vô Đắc không thể nghĩ bàn
Đây là trí xuất thế gian
Xả xong hai Thô Trọng
Liền Chuyển Y chứng đắc"
Tu Tập vị tương ưng với quả vị Tu Đạo, bao gồm 7 quả vị của Bồ Tát Đăng Địa từ Địa 2 (Ly Cấu Địa) đến Địa 8 (Bất Động Địa). Kinh Hoa Nghiêm khai thị về các quả vị này, được ghi nhận sơ lược như sau :
1. Bồ Tát Nhị Địa (Ly Cấu Địa): các Ngài tu tập thiên về Trì Giới (1 trong 10 Ba La Mật); về Ái Ngữ Nhiếp Pháp( 1 trong 4 Nhiếp Pháp); các Ngài không còn có Tham, Sân, Si; xa lìa Tà Kiến cấu bẩn , nên được gọi tên là “Ly Cấu”.
2. Bồ Tát Tam Địa (Phát Quang Địa): các Ngài tu tập thiên về Nhẫn Khả Ba La Mật (1 trong 10 Ba La Mật), về Lợi Hành Nhiếp Pháp (1 trong 4 Nhiếp Pháp); thông thạo Tứ Thiền, Bát Định, xuất nhập các Tam Muội; thành tựu vô lượng sức thần thông cùng Trí Quán Tướng, quán được tướng chơn thật của các pháp Hữu Vi, nên được gọi tên là "Phát Quang".
3. Bồ Tát Tứ Địa (Diệm Huệ Địa): các Ngài tu tập thiên về Tinh Tấn Ba La Mật (1 trong 10 Ba La Mật), về Đồng Sự Nhiếp Pháp (1 trong 4 Nhiếp Pháp); 10 pháp Minh Môn quán sát vào 10 Giới mà đắc được Trí Thành Thục, phát khởi Huệ phương tiện để Tu Đạo và Trợ Đạo, nên được gọi tên là "Diệm Huệ".
4. Bồ Tát Ngũ Địa (Nan Thắng Địa): các Ngài tu tập thiên về Thiền Định Ba La Mật (1 trong 10 Ba La Mật), về tất cả công hạnh của 4 Nhiếp Pháp; (kể từ Ngũ Địa trở lên, các Bồ Tát đều có tu tập, công hạnh đầy đủ trọn vẹn 4 Nhiếp Pháp để nhiếp hóa chúng sinh), đắc các Đế Trí,Tín Giải Trí,Phương Tiện Trí; biết như thật về Tứ Thánh Đế, thấu đạt được Tâm Bình Đẳng; là giai vị khó vượt qua, khó ngăn hoại nên được gọi tên là "Nan Thắng".
5. Bồ Tát Lục Địa (Hiện Tiền Địa): các Ngài tu tập thiên về Bát Nhã Ba La Mật (1 trong 10 Ba La Mật), quán thế gian sinh diệt với tâm Đại Bi, quán về Ngã chấp, về nhị biên Có- Không chấp, thông tỏ lý Duyên Khởi cùng 12 Nhân Duyên, quán chiếu thấu suốt được 10 Pháp Bình Đẳng , nên các Ngài được Giải Thoát hiện tiền, Bát Nhã hiện tiền, Không Tam Muội hiện tiền, do vậy được gọi tên là "Hiện Tiền".
6. Bồ Tát Thất Địa (Viễn Hành Địa): các Ngài tu tập thiên về Phương Tiện Ba La Mật (1 trong 10 Ba La Mật), 9 phần Ba La Mật kia thì tùy sức mà tu tập, trong 1 niệm có đủ 10 Ba La Mật, thành tựu 10 môn Phương Tiện Huệ; 4 Nhiếp Pháp, 37 phẩm Trợ Đạo, 3 môn Giải Thoát; lại có thể nhập- xuất Diệt Tận Định nhưng không tác chứng, gọi là đã viễn ly Vô Hành thậm thâm nên được gọi tên là "Viễn Hành".
7. Bồ Tát Bát Địa (Bất Động Địa): Giai vị Bát Địa bên Bồ Tát thừa chính là A La Hán bên Thanh Văn thừa, giai vị hoàn tất giai đoạn Tu Tập Phật đạo. Các Ngài tu tập thiên về Nguyện Ba La Mật (1 trong 10 Ba La Mật), 9 phần Ba La Mật kia thì tùy sức mà tu tập, trong 1 niệm có đủ 10 Ba La Mật; đã thành tựu Phương Tiện Huệ, thành tựu về các Tánh Vô Sanh, Vô Khởi, Vô Tướng, Vô Tánh …; trong một niệm có thể dùng Trí Vô Công Dụng nhập cảnh giới Nhứt Thiết Chủng Trí. Các Ngài đã lìa các tưởng phân biệt nơi Tâm – Ý – Ý thức, đã đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, được hạnh Vô Tránh, Tịch Diệt hiện tiền, bình đẳng 3 thuở (Sơ–Trung-Hậu), thanh tịnh các Đạo, khéo nhiếp trì Đại Nguyện lực, được Phật Lực gia hộ ban cho Như Lai Trí, Tự Lực khéo giữ gìn, Trí Nhẫn đệ nhất, thâm tâm Tuệ Giác, có thể khởi phát vô lượng, vô biên Trí sai biệt, như thuyền vào biển lớn chỉ cần theo gió mà đi, không cần tốn hao công hạnh nên được gọi tên là "Bất Động" hay “Vô Sở Hành”, “Vô Công Dụng”, ‘Vô Sanh Pháp Nhẫn’...
Ý nghĩa 4 câu của Tu Tập vị được ghi nhận là:
Câu 1: “ Vô Đắc bất tư nghì” (Vô Đắc không thể nghĩ bàn):
“Vô Đắc” là cảnh giới đã thoát qua khỏi ảnh hưởng tác động của Mạt Na thức và của cả A Lại Da thức, cảnh giới không còn có chỗ Sở Đắc, khách thể , hay cảnh Sở Đắc; cũng không còn có Năng Đắc, chủ thể, hay khả năng có thể có thêm, tiếp nhận thêm bất cứ sự vật gì vào trong tâm thức vốn đã quá thanh tịnh. Vô Đắc là hệ quả tất yếu của công phu tu tập xả bỏ thức A Lại của Tu Tập vị. Công phu này được diễn đạt rõ qua 4 câu tụng trong Bát Thức Qui Củ Tụng, tác giả: ngài Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang (602-664), như sau:
"Bất Động Địa tiền tài xả Tàng
Kim Cang Đạo hậu Dị Thục không
Đại Viên, Vô Cấu đồng thời phát
Phổ chiếu thập phương sát trần trung"
Tạm dịch:
"Trước địa vị Bất Động còn phải xả bỏ Tàng thức
Sau Kim Cang Đạo, thức Dị Thục không có nữa
Trí Đại Viên, thức Vô Cấu đồng thời phát
Chiếu khắp mười phương vi trần quốc độ"
Cảnh giới Vô Đắc được cho là “bất tư nghì” (không thể nghĩ bàn) vì nó đã vượt qua A Lại Da thức, vượt khỏi các tâm Bất Tương Ưng của A Lại Da thức là Danh Thân, Cú Thân, Văn Thân. Ba Thân này chính là bản thể, là chất liệu căn bản của tất cả nghĩ bàn, bao gồm ngôn ngữ, văn tự, suy tư, hiểu biết, phân biệt cho muôn loài chúng sinh.
Câu 2: "Thị xuất thế gian trí” (Đây là trí xuất thế gian):
Trí thế gian là trí chỉ có thể thu nhận, quán sát, phân biệt cảnh trần (Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc,Pháp) mà không thể thấy biết thấu suốt được, không hội nhập, ứng hợp được với cảnh giới Vô Ngã, Vô Đắc. Nhưng đây không phải là cảnh giới Vô Ngã, Vô Đắc xuất ra khỏi thế gian trí mà chính là trí thế gian do không còn có sự ứng hợp nên tự xuất ly, tự cách ly ra khỏi cảnh giới u tuyệt, huyền nhiên, bất khả tư nghì này.
Câu 3: " Xả nhị Thô Trọng cố” (Xả xong hai Thô Trọng):
Trong 5 thọ, A Lại Da thức chỉ có duy nhất một Xả thọ. Các Bồ Tát Đăng Địa đã thể nhập, tương ưng vào A Lại Da thức nên các Ngài ứng hợp với thọ Xả này, công phu tu tập đầy đủ về Hạnh, Nguyện, Thiền Định khiến phát sinh các Đại Tâm, các trí tuệ thanh tịnh mà xả bỏ 2 thứ Thô Trọng là Phiền Não Chướng và Sở Tri Chướng. Đây là hai rào cản rất vi tế và thâm sâu trong tâm thức, khiến tâm thức bị ngăn ngại không được thông thấu với Phật tánh, Bồ Đề trí, nên được gọi là "Chướng".
Phiền Não Chướng chính là 6 tâm sở Căn Bản Phiền Não bao gồm: Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi và Ác Kiến; trong đó 5 tâm sở đầu (Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi ) được gọi là Tư Hoặc, còn Ác Kiến được gọi là Kiến Hoặc. Kiến Hoặc lại chia ra 5 loại là Thân Kiến, Biên Kiến, Tà Kiến, Kiến Thủ và Giới Cấm Thủ. Do vậy, 6 Căn Bản Phiền Não cũng thường được gọi là Kiến Tư Hoặc. Gọi là “Hoặc” vì đây là Bất Giác, mê mờ, vô minh khiến chúng sanh phải chịu trầm luân sanh tử. Duy Thức Học minh định lý do sâu thẳm nhất khiến có ra Bất Giác chính là do còn có sự hiện hữu của kho tàng chủng tử tập khí nghiệp thức nơi A Lại Da thức. Nên chỉ khi nào kho tàng này bị xả bỏ hoàn toàn qua tu tập tối thượng nơi các vị Bồ Tát Đăng Địa, tâm thức mới có thể trở về tương hợp, ứng nhập vào với Chơn Tâm, Chơn Như bản hữu. Do vậy, lý Tứ Đế và lý Thập Nhị Nhơn Duyên ít nhiều có liên hệ đến bóng dáng và sự biến hành, tác động của kho tàng chủng tử này. Như phải đến giai vị Hiện Tiền (Đệ Lục) Địa, Bồ Tát mới rõ thấu được Lý Duyên Khởi 12 Nhơn Duyên nhưng vẫn còn tu tập tiếp tục xả bỏ chủng tử Tàng Thức. Chỉ khi đến được giai vị Bất Động (Đệ Bát) Địa, Tàng Thức mới được xả bỏ xong; lúc này, Tàng Thức A Lại Da được đổi tên gọi là Bạch Tịnh Thức, hay Vô Cấu Thức; hành giả được xem là đã Kiến Tánh.
Trong khi Phiền Não Chướng là chướng có liên hệ đến các chủng tử của 6 Căn Bản Phiền Não, thì Sở Tri Chướng được cảm nhận là chướng có liên hệ đến tất cả dạng loại chủng tử còn lại có trong A Lại Da thức. Đây là bao gồm tất cả các chủng tử có công năng tri giác, nhận biết, phân biệt vào một đối tượng nào đó; nôm na gọi là có chỗ trụ, có chỗ để tri giác, nhận biết (gọi là "Sở Tri" = "chỗ biết"). Còn có "chỗ" là còn chưa được bình đẳng, là còn trái với Giác thể Chơn Như vốn là bình đẳng, nhất như. Lý tánh bình đẳng, nhất như cao diệu này lại bị che lấp bởi các tâm thức chấp ngã và chấp pháp của chúng sinh. Nên các Bồ Tát Đăng Địa phải tu tập đến giai vị Nan Thắng (Đệ Ngũ) Địa mới có được 10 Tâm Bình Đẳng, rồi phải đến giai vị Hiện Tiền (Đệ Lục) Địa mới quán chiếu thấu suốt được 10 Pháp Bình Đẳng.
Câu 4: " Tiện chứng đắc Chuyển Y” (Liền Chuyển Y chứng đắc):
"Tiện chứng đắc" được cảm nhận là có ý nghĩa rất vi tế, sâu sắc vì chữ "chứng đắc" ở đây không đồng nghĩa với chữ "Đắc" nơi 24 Tâm Bất Tương Ưng nơi các giai vị tu tập trước. Câu tụng này là cảnh giới của Bồ tát Bất Động (Đệ Bát) Địa: sau khi đã hoàn tất công phu xả bỏ trọn vẹn kho tàng chủng tử nghiệp thức, xả bỏ A Lại Da thức; thân tâm các vị Bồ tát Bất Động Địa (tương ưng với quả vị A La Hán bên Thanh Văn thừa) đã được hoàn toàn thanh tịnh, lìa xa các Tưởng nơi Tâm, Ý, và Ý thức; nhập Vô Sanh Pháp Nhẫn. Ngoài ra, do sức bản nguyện rộng lớn, các Ngài còn được thấy vô lượng chư Phật hiện ra và được chư Phật ban cho Như Lai Trí...Như thế "Tiện chứng đắc" có thể được tạm giải thích là "sự tương ưng, ứng hạp tự nhiên được tiếp nhận ân phước từ chư Phật", nên đây tạm gọi là sự chứng đắc mà không có thêm vào, không có bớt ra, không có dụng công như sự chứng đắc thông thường ở các giai vị trước.
"Chuyển Y" là chuyển đổi 4 chỗ Y chỉ, là chuyển đổi từ Thức sang Trí, bao gồm 4 chuyển đổi: Chuyển Ý thức ra Diệu Quán Sát Trí, chuyển Mạt Na thức ra Bình Đẳng Tánh Trí, chuyển Tiền Ngũ thức (Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỹ thức, Thiệt thức, Thân thức) ra Thành Sở Tác Trí, và chuyểnA Lại Da thức ra "Đại Viên Cảnh Trí". Đây cũng là sự chuyển đổi tự nhiên, như nhiên, tự hiện khởi sau khi đã Kiến Tánh mà không qua bất kỳ dụng công, tác ý nào.
Bài tụng thứ năm (Cứu Cánh vị): Duy Thức Tam Thập Tụng có 4 câu là:
"Thử tức Vô Lậu giới
Bất tư nghì Thiện Thường
An lạc giải thoát thân
Đại Mâu Ni danh pháp"
Tạm dịch:
"Đây là cõi Vô Lậu
Thiện Thường không thể nghĩ bàn
Thân giải thoát, an lạc
Tên gọi Đại Tịch Tịnh"
Cứu Cánh vị là giai vị tu tập sau cùng của Duy Thức Học, bao gồm các địa vị từ Bồ Tát Thiện Huệ (Đệ Cửu) Địa, Bồ Tát Pháp Vân (Đệ Thập) Địa, Đẳng Giác, Diệu Giác, và Phật. Kinh Hoa Nghiêm khai thị về Thiện Huệ Địa và Pháp Vân Địa, được ghi nhận sơ lược như sau :
1. Bồ Tát Cửu Địa (Thiện Huệ Địa): các Ngài tu tập thiên về Lực Ba La Mật (1 trong 10 Ba La Mật), 9 phần Ba La Mật kia thì tùy sức mà tu tập, trong 1 niệm có đủ 10 Ba La Mật; thâm nhập Phật Tam Muội, quán sát bất tư nghì Đại Trí tánh; tu tập 10 Lực, đức Vô Úy và 18 Bất Cộng pháp của chư Phật, theo chư Phật chuyển Pháp luân; được 4 Vô Ngại Trí, khéo diễn thuyết hóa độ, điều phục chúng sinh; thể nhập Tịch Diệt, Giải Thoát, Phật Trí bất tư nghì nên được gọi tên là "Thiện Huệ".
2. Bồ Tát Thập Địa (Pháp Vân Địa): các Ngài tu tập thiên về Trí Huệ Ba La Mật (1 trong 10 Ba La Mật), 9 phần Ba La Mật kia thì tùy sức mà tu tập, trong 1 niệm có đủ 10 Ba La Mật; các Ngài thể nhập Phật cảnh giới, được Phật quán đảnh làm bậc Thọ Chức; tùy thuận công hạnh Tịch Diệt của Như Lai, thể nhập Tam Muội tối hậu, thể hiện được các quang minh của chư Phật; Bồ Tát hạnh ví như Đại Hải, có thể an trì, nhiếp thọ vô lượng Đại pháp của Như Lai; các Ngài dùng Tự Nguyện Lực nổi mây Phước Đức Đại Bi, chấn sấm Đại Pháp, nháng chớp Trí Huệ Vô Úy, nên được gọi tên là " Pháp Vân ".
Ba giai vị sau cùng (Đẳng Giác, Diệu Giác, Phật) không còn có dụng công tu tập nữa, cảnh giới chư Phật lại quá huyền diệu, quá nhiệm mầu, quá bất khả tư nghì nên kinh luận rất ít khi đề cập đến.
Ý nghĩa 4 câu của Cứu Cánh vị được ghi nhận là:
Câu 1 và câu 2:“ Thử tức Vô Lậu Giới, Bất tư nghì Thiện Thường”
(Đây là cõi Vô Lậu, Thiện Thường không thể nghĩ bàn)
Cảnh giới của chư Phật là cõi Vô Lậu, không còn bị rơi rớt trở lại vào thế gian. Cảnh giới này được tạm mô tả là cảnh giới cực kỳ thanh tịnh, không còn hiện hữu bất kỳ dấu vết, bóng dáng của chủng tử, nghiệp thức nên cũng không còn có bất cứ tỳ vết nào của phiền não, khổ đau, đã tuyệt nhiên vắng bóng tất cả phân biệt, chấp trước nên được bài tụng gọi là Bất Tư Nghì Thiện. Cảnh giới nhiệm mầu, như nhiên, tận xuất Thế Gian này lại cũng tuyệt đối thường hằng, đã siêu tuyệt, vượt thoát khỏi các chu trình biến hoại Sinh-Tử, Có-Không của thế gian nên được bài tụng gọi là Bất Tư Nghì Thường.
Câu 3 và câu 4:“ An lạc giải thoát thân Đại Mâu Ni danh pháp”
(Thân giải thoát, an lạc Tên gọi Đại Tịch Tịnh)
Thân an lạc, giải thoát tối hậu chính là pháp thân của chư Phật. Gọi là An Lạc vì đã tuyệt nhiên không có bất cứ vướng chấp phiền não, cũng là nghĩa của chữ “Tịch” (tuyệt nhiên vắng bóng); gọi là Giải Thoát vì đã vượt thoát ra khỏi tất cả ràng buộc của kho tàng chủng tử nghiệp cảm nơi A Lại Da thức, cũng là nghĩa của chữ “Tịnh”(tuyệt nhiên trong sáng). Do từ ý nghĩa này, 2 chữ An Lạc và Giải Thoát cũng được gọi là Tịch và Tịnh. Tịch Tịnh cũng được gọi là Mâu Ni, là danh hiệu của đức Bổn Sư vậy.
Do bổn tánh Bình Đẳng và thường hằng chu biến khắp pháp giới, pháp thân an lạc và giải thoát vốn thường sẳn đủ, quang minh thường hằng biến chiếu nơi muôn loài chúng sinh. Nhưng theo Duy Thức Học, chúng sinh không thể thấy biết, thụ hưởng, sử dụng nguồn quang minh này là do còn bị ngăn che bởi 3 lớp màn che, rào ngăn chính. Lớp 1 là Tiền Lục Thức (Ý thức và Tiền Ngũ Thức: Nhãn, Nhĩ, Tỹ, Thiệt, Thân:) tư duy chấp mắc vào cảnh trần (6 trần cảnh: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) khiến không ngớt gây tạo, phát sinh biết bao chủng tử phiền não nghiệp chướng. Lớp 2 là Mạt Na thức, cội nguồn tư lương chấp ngã, đón đưa chủng tử nghiệp thức, gây tạo ra vô lượng phiền não, nghiệp chướng mà phải đến giai vị Kiến Đạo mới vượt qua được lớp màn che Ngã chấp này và mới rõ ra được con đường tu tập tối thượng (Kiến Đạo Khởi Tu). Lớp 3 là A Lại Da thức, cội nguồn tàng trử kho tàng chủng tử nghiệp thức; kho tàng này cần được xả bỏ hoàn toàn, gọi là Kiến Tánh, để chuyển Thức thành Trí và để cảnh giới, pháp thân an lạc- giải thoát tự hiện khởi trở lại.
Trong nhà Thiền có câu chuyện kể: Ngài Nam Nhạc Hoài Nhượng (677-744) đến Tào Khê tham yết Lục Tổ Huệ Năng (638-713). Tổ hỏi: "Ở đâu đến?", Ngài thưa: "Ở Tung Sơn đến." Tổ lại hỏi: "Đem vật gì đến?", Ngài trả lời không được, bèn ở lại với Tổ. Sau tám năm, Ngài chợt có tỉnh, liền đến trình Tổ :"Nói một vật là không đúng". Tổ liền hỏi: "Lại có thể đạt đến chăng?" Ngài đáp: "Tu chứng tức chẳng không, nhiễm ô tức chẳng được." Tổ bèn ấn chứng: "Chính cái không nhiễm ô này là chỗ hộ niệm của chư Phật, ngươi đã như thế, ta cũng như thế". Và khi đã trở về được với bổn tánh Bình Đẳng, thường hằng chu biến khắp pháp giới, pháp thân tịch tịnh, an lạc và giải thoát này thì "ai ai cũng như thế" vậy.
Khánh Hoàng
Plano _ January 15, 2024
Sơ Quát Về Cội Nguồn Vọng Tưởng
Qua Duy Thức Học
Khánh Hoàng
Tưởng là một trong những sắc thái sự sống căn bản nhất của tất cả các loài chúng sinh, bao gồm hữu tình chúng sinh và cả vô tình chúng sinh. Tưởng cũng là tác nhân có vai trò tác động chủ yếu trong vô vàn khổ-vui, thất tình, lục dục... của bao kiếp sống luân hồi; và nó cũng là đối tượng thử thách lớn cần được chế phục, vượt qua trong tu tập thiền định, giải thoát. Theo Duy Thức Học, cội nguồn của Tưởng xuất phát từ nơi A Lại Da thức , mà sự hiện diện của Tưởng thì bao khắp, xuyên suốt 8 thức Tâm Vương (Bát thức Tâm Vương). 8 thức Tâm Vương bao gồm A Lại Da thức, Mạt Na thức, Ý thức, Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỹ thức,Thiệt thức, và Thân thức . Từ Mạt Na thức đến Thân thức được gọi tên là 7 Chuyển thức, từ Ý thức đến Thân thức được gọi tên là Tiền Lục Thức (Sáu Thức Trước), từ Nhãn thức đến Thân thức được gọi tên là Tiền Ngũ Thức (Năm Thức Trước). 8 Thức Tâm Vương được chia ra làm 3 nhóm Năng Biến là: A Lại Da thức, Mạt Na thức, và Tiền Lục Thức.
Thức A Lại Da (nhóm Năng Biến thứ nhất ) thuộc về Tâm sinh diệt, để phân biệt với Chơn Tâm (Như Lai Tàng Chơn Như Tâm) bất sinh, bất diệt. Thức này hiện diện ở tất cả các loài chúng sinh hữu tình (chúng sinh có đủ 8 thức Tâm Vương) và ở cả chúng sinh vô tình (chúng sinh chỉ có 2 thức là thức A Lại Da và thức Mạt Na mà không có Ý thức và Tiền Ngũ thức). Nó có rất nhiều tên gọi khác như Dị Thục thức (Thức chuyển biến đổi khác, thành thục từ nhân ra quả), Nhất Thiết Chủng thức (Thức có tất cả, vô lượng chủng tử), Tàng Thức (Thức kho tàng có công năng tích chứa), Đệ Bát Thức (Thức thứ tám trong Bát Thức Tâm Vương), Căn Bản Thức (Thức cội nguồn, từ đó sinh xuất ra 7 Chuyển thức kia), ...Đặc điểm chính yếu của A Lại Da thức là vô phú (rất mênh mang, do không có đủ sức để trụ bám, chấp trước, vướng mắc) và vô ký (hồn nhiên, không có sự phân biệt thiện ác, tốt xấu, hơn thua, hay dở; không có âu lo, khổ sở, mừng vui, an vui vì không có các Ưu thọ, Khổ thọ, Hỷ thọ, Lạc thọ, mà chỉ duy nhất có một Xả thọ...). Do là vô phú, vô ký nên trong tổng số 51 tâm sở của Duy Thức Tam Thập Tụng (Tác giả: Tổ Thế Thân (316-396)), A Lại Da thức chỉ có 5 tâm sở gọi tên là 5 Biến Hành Tâm Sở, bao gồm Tác Ý, Xúc, Thọ, Tưởng, và Tư.
Được gọi là Tâm Sở vì đây là hành trạng (trạng thái chuyển hành, chuyển biến, hiện tướng sanh diệt) của 8 thức Tâm Vương. Chữ "Tâm Sở" có thể được tạm dịch là "Chỗ Tâm" cũng như các chữ "Sở Kiến", "Sở Văn", "Sở Tri", "Sở Trụ"...có thể tạm dịch là "Chỗ Thấy", "Chỗ Nghe", "Chỗ Biết", "Chỗ Y Nương"… Như thế, "Tâm sở Tác Ý" có thể được tạm dịch là "Chỗ Tâm khởi tạo ra Ý", "Tâm sở Xúc" được tạm dịch là "Chỗ Tâm chạm biết", "Tâm sở Thọ" là "Chỗ Tâm cảm nhận biết"... Tương tợ, chữ “Tâm Sở Hữu” có thể được dịch là "Chỗ Tâm Có" hoặc "Chỗ Có Tâm" (tức là chỗ Tâm có mặt, chỗ Tâm có biểu lộ sự hiện hữu). Lý do được gọi tên như vậy là vì Thức A Lại Da nói riêng và bản thể tâm thức nói chung vốn là mênh mang biến khắp ra các nơi chốn, không có chỗ ở nhất định, nhưng nay do ở trạng thái bị tác động bởi các duyên nào đó, nên chúng bắt đầu có sư hiện khởi ra các chỗ có tướng trạng khác nhau. Các tướng trạng này chính là các Tâm Sở hoặc Tâm Sở Hữu. 5 Biến Hành Tâm Sở nơi A Lại Da thức chính là 5 tướng trạng chuyển hành tâm thức tinh khôi, sơ khai nhất của chúng sinh. Sở dĩ có tên gọi là Biến Hành vì do các tâm sở này có sự hiện diện ở khắp các nơi chốn trong không gian, ở trong mọi lúc của thời gian, bao gồm tất cả tánh (thiện, ác, và vô ký) , và ở nơi tất cả 8 thức Tâm Vương cùng có tương quan liên hệ với tất cả tâm sở. Duy Thức Tam Thập Tụng (tác giả: tổ Thế Thân(316-396)) có bài kệ về thức A Lại Da cùng 5 Biến Hành tâm sở như sau:
"Sơ A Lại Da thức
Dị Thục, Nhứt Thiết Chủng
Bất khả tri chấp thọ
Xứ liễu thường dữ Xúc
Tác ý, Thọ, Tưởng, Tư
Tương ưng duy Xả thọ
Thị vô phú vô ký
Xúc đẳng diệc như thị
Hằng chuyển như bộc lưu
A la hán vị xả"
Tạm dịch:
“Sơ khởi là thức A lại da
Còn có tên gọi là Dị thục, Nhứt thiết chủng
Không thể biết, nương chấp và cảm thọ
Xứ cảnh rõ biết với Xúc
Tác ý, Thọ, Tưởng, Tư
Chỉ tương ưng với Xả thọ
Là vô phú, vô ký
Năm Biến Hành cũng như vậy
Luôn chuyển động như dòng thác chảy xiết
Bậc A La Hán mới xả bỏ xong thức này"
Theo Hiển Dương Thánh Giáo Luận (Tác giả: Đại sĩ Vô Trước (310-390), Dịch giả Phạn- Hán: Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang (602-664), Dịch giả Hán- Việt: Quảng Minh) giải thích về 5 tâm sở Biến Hành được ghi nhận khái quát như sau:
“1. Tác Ý: được sinh ra từ chủng tử nơi A Lại Da thức, dựa vào A Lại Da mà sinh khởi, cùng tương ưng với A Lại Da, và cùng A Lại Da chuyển hiện.
2. Xúc: là sự phân biệt có được từ sự hòa hợp 3 sự Căn, Cảnh, Thức. Xúc làm chổ sở y cho tâm sở Thọ tiếp nối theo ngay sau đó.
3. Thọ: là cảm nghiệm, lãnh nạp (những cảm nhận, cảm giác....).
4. Tưởng: là những ảnh tượng, ấn tượng, hình bóng... trong tâm thức được tiếp nối ngay sau tâm sở Thọ.
5. Tư: là ý nghiệp nơi cảnh khiến có tâm tạo tác các điều thiện, ác, phi thiện phi ác...
Ngay đây, ta có thể tạm rút ra 2 điều:
Điều 1: Có thể rõ thấy là tâm sở Tưởng đã xuất hiện rất sớm trong sự vận hành của tâm thức chúng sanh: Tưởng đã có mặt ngay nơi cội nguồn tâm thức là thức A Lại Da và Tưởng được xem là có vai trò căn bản và trọng yếu nhất trong 5 Biến Hành Tâm Sở. Nói vậy là do sau 3 tâm sở Tác Ý, Xúc, và Thọ (tạm gọi chung là 3 tâm sở mầm của niệm tưởng), Tưởng liền đã xuất hiện; rồi liền sau đó nó được tâm sở "Tư" duy trì, trưởng dưỡng, nuôi nấng, phát triển . Tâm sở Tư có thể được cảm nghiệm là một chuổi "Tưởng" liền lạc, rõ ràng được nối kết, phát triển qui mô ra các quan niệm, quan điểm, chủ trương, thành kiến, định kiến …theo nghiệp thức của mỗi chúng sinh.
Điều 2: Có thể xem tất cả Tưởng chỉ là Vọng Tưởng. Lý do là Tưởng chỉ là một động thái của Thức mà chính ngay cội nguồn Thức A Lại Da còn chưa là chơn thực, chỉ là ảo huyễn, không có thực thể, thiếu vắng tự thể huống là động thái của chính nó. Điều này khiến trong đạo Phật nói chung, và Duy Thức Học nói riêng dù có đề cập về Chơn Tâm, Chơn Tánh, Chơn Tướng, Chơn Thể , Chơn Kiến, Chơn Tri, Chơn Giác...mà không hề có đề cập đến Chơn Tưởng.
Do bởi thức A Lại Da có tánh mênh mang, mong manh, nhẹ nhàng, hồn nhiên, không vướng mắc nên tâm sở Tưởng nơi A Lại Da cũng chỉ là những dạng tướng tâm thức rất vi tế, chuyển động rất nhanh nhạy, không có sức bám trụ, biến hiện và ẩn khuất rất khó có thể nhận thấy và suy lường. Vì thế, phàm phu và kể cả các bậc Hiền Thánh chưa đạt đến Tam Quả (quả vị A Na Hàm, còn gọi là Bất Lai, không còn luân hồi trở lại vào Dục Giới) không thể thấy và chưa có khả năng nhận biết được 5 tâm sở Biến Hành nói chung và tâm sở Tưởng nói riêng nơi A Lại Da thức cùng sự vận hành ẩn hiển, có không của chúng nơi A Lại Da thức.
A Lại Da thức có thể được cảm nhận là Thức Ấm, một trong 5 Ấm (Sắc Ấm, Thọ Ấm, Tưởng Ấm, Hành Ấm, và Thức Ấm) hình thành nên thân và tâm của chúng sinh. Gọi là Thức Ấm vì chính sự hiện hữu của lớp thức này đã khiến làm che mờ đi Giác Tánh. Trong tiến trình tu tập giải thoát khỏi sự buộc ràng của 5 Ấm, kinh Thủ Lăng Nghiêm (Dịch giả Phạn-Hán: ngài Bát Lạt Mật Đế (đời nhà Đường, Trung quốc), dịch giả Hán- Việt: Hòa thượng Thích Duy Lực (1923-2000)) gọi Thức Ấm là Điên Đảo Vọng Tưởng. Điều này khẳng định là ngay nơi căn nguồn sự sống , tâm sở "Tưởng" nơi A Lại Da thức của chúng sinh, đã sẵn cưu mang tính chất điên đảo rồi. Tính chất điên đảo này được tạm giải thích qua 2 khía cạnh:
Khía cạnh 1: là tính cách dị biệt giữa Như Lai Tàng tâm và A Lại Da thức. Tính cách này được phân biệt khái quát như sau: Thức A Lại Da (Tâm Sanh Diệt) được hình thành chính là do sự hòa hợp giữa Như Lai Tàng Chơn Như Tâm (được xem là Giác Tánh, là Phật Tánh, là Chơn Tâm, là cái chơn tịnh, bất động, không có Sinh- Diệt, đã vượt qua phân biệt hai bên về Có và Không, về Sinh và Diệt ) và vô lượng chủng tử (là cái có Sanh- Diệt, Có- Không, cái nhiễm ô, luôn động chuyển theo các duyên); nên khi A Lại Da ở thể Tịnh thì nó không khác biệt với Như Lai Tàng, còn khi A Lại Da ở thể Động thì nó có khác với Như Lai Tàng. Như Lai Tàng Chơn Tâm thì không có Đồng- Khác (không có Một- Khác, không có Hòa Hợp- Bất Hòa Hợp) nên chỉ nói là A Lại Da khác (là khác với Như Lai Tàng ) và nói A Lại Da đồng (là đồng với Như Lai Tàng). Hai thuật ngữ khác hay được nhắc đến là "Như Lai Xuất Triền"("Triền" là trói buộc, xoay vấn chung quanh) dùng để chỉ cho Như Lai Tàng Chơn Tâm, bao hàm các pháp vô lậu thuần chơn thanh tịnh, không bị trói buộc bởi những phiền não, triền phược; và thuật ngữ "Như Lai Tại Triền" dùng để chỉ cho thức A Lại Da, bao hàm các pháp hữu lậu, nhiễm ô, còn bị trói buộc, che mờ, lấp khuất bởi vô lượng não phiền.
Khía cạnh 2: là trong tất cả kinh điển của đạo Phật, đức Phật đại từ, đại bi đã khai thị và hàm ý xác quyết là "tất cả chúng sanh đều có Phật tánh". Như trong kinh Đại Bát Niết Bàn, câu nói được đức Phật tuyên thuyết nhiều lần là“Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Phật tánh ấy là Thường Lạc Ngã Tịnh.” Như thế, mỗi loài chúng sinh đều có sẵn Phật Tánh, sẵn có Như Lai Tàng Chơn Như Tâm, sẵn có cảnh giới Đại Niết Bàn tự tại, giải thoát. Nhưng do vì chúng sinh mê lầm, không thấy được tánh Phật (gọi là "Bội Giác": là quay lưng lại với Như Lai Tàng Chơn Như Tâm , Giác thể, Chơn Trí) mà lại nhận chấp, hòa nhập vào với các thứ lớp Vọng Tưởng (gọi là "Hiệp Trần": là theo Vọng Thức A Lại Da rồi cùng các Vọng Tưởng choàng ôm, nâng niu các trần cảnh) nên bị các phiền não kiết sử trói buộc mà đành chịu lưu chuyển trong sanh tử, luân hồi. Như thế, tính chất "Điên Đảo" của Vọng Tưởng nơi Thức Ấm A Lại Da có thể được rút gọn là: do mê lầm, không có Trí Tuệ nên gọi là "Điên"; do nhận chấp sai quấy nên gọi là "Đảo".
Lại nữa, kinh Thủ Lăng Nghiêm cũng ghi nhận Vọng Tưởng Điên Đảo do nương chấp nơi thức A Lại Da, nên tự gánh mang vào nó duyên phần, thân phận có sinh có diệt, gọi là Mạng Căn, căn nguyên sự sống và thọ mạng của thân tâm chúng sinh trong vô lượng kiếp luân hồi. Mạng Căn là một trong 24 món Tâm Bất Tương Ưng Hành Pháp trực thuộc nơi thức A Lại Da, không thuộc phạm vi Tam Hòa Hợp (Căn- Trần - Thức) của Tiền Lục Thức, nên được gọi là "Bất Tương Ưng" (để phân biệt với nhóm tâm sở được gọi là "Tương Ưng" của Tiền Lục Thức). Chính Tâm Bất Tương Ưng Hành Pháp “Mạng Căn” nơi thức A Lại Da đã khiến có ra Mạng Trược, lớp ô trược, uế trược về thọ mạng, về ràng buộc tái sinh, về vọng chấp y nương vào thân tái sinh, và là 1 trong 5 lớp trược của đời sống chúng sinh trong Tam Giới.
Tựu trung, tâm sở Tưởng nơi thức A Lại Da, cội nguồn sơ khai nhất của Vọng Tưởng, tạm nêu có 3 đặc điểm sau:
Đặc điểm 1: Tâm sở Tưởng nơi thức A Lại Da được xuất sinh, biến thể từ 3 tâm sở Biến Hành khác của Thức này là Xúc, Tác Ý, và Thọ. Nhưng nguyên nhân xuất sinh của 3 tâm sở Xúc, Tác Ý, và Thọ lại khó có thể xác định rõ ràng vì chỉ có các bậc Thánh từ quả vị A Na Hàm trở lên mới có khả năng phân biệt, nhận biết được.
Đặc điểm 2: Tâm sở Tưởng nói riêng và 5 Tâm sở Biến Hành nói chung nơi thức A Lại Da có cường lực, sức lực không đáng kể. Có thể ví các tâm sở này chỉ là những chuyển biến rất nhẹ nhàng, mềm mỏng, có tác động như là chỉ để đánh thức, khơi nguồn chảy cho thức A Lại Da. Điều này có nghĩa là nếu ví A Lại Da thức như biển lớn thì những chuyển biến này chỉ là các động thái còn rất vi tế, rất mơ hồ, chỉ như nước nổi tăm, nổi bọt, nổi bong bóng …, chưa đủ sức tạo ra những nét nhăn lăn tăn mong manh huống chi là những gợn sóng, làn sóng , lượn sóng chao động trên mặt biển.
Đặc điểm 3: Do có tính cách rất nhẹ nhàng, hồn nhiên nên tâm sở Tưởng nơi thức A Lại Da không có khả năng kết nghiệp, tạo lập thêm các chủng tử mới vào trong thức A Lại Da mà nó chỉ có thể làm chỗ dựa, nền tảng để sinh khởi và phát triển thêm cho tâm sở Tư. Tâm sở Tư nơi thức A Lại Da này cũng chưa có khả năng kết nghiệp mà chỉ đóng vai trò chủ yếu, quan trọng trong sự sinh khởi, hình thành, và phát triển ra tất cả các dạng tướng tâm thức khác của 7 Chuyển Thức sau (Mạt Na thức và Tiền Lục Thức).
Khi A Lại Da thức theo dòng tập nghiệp chuyển biến mà lại có sự tự chấp nơi Kiến phần (năng lực, năng lượng tri giác) của chính nó rồi chấp trì, gìn giữ thì khi đó có thêm một biến thể mới, một tâm vương mới gọi là thức Mạt Na. Tâm sở Tư theo sự chấp ngã này cũng có biến chuyển, trở nên rõ ràng, đậm nét hơn và phát triển tối đa thành một nguồn tư lương vô tận. Nguồn tư lương vô tận này chính là nét đặc trưng, là Tánh, là Tướng của Mạt Na thức. Tạm nói là vô tận bởi vì thức Mạt Na cũng như thức A Lại Da đều vẫn còn tồn tại khi chúng sinh còn có mê chấp; 2 Thức này chỉ biến mất, không còn tồn tại sau khi chúng sinh đã kiến tánh, đắc A La Hán quả, đã được giải thoát, không còn luân hồi, đã chuyển Thức thành Trí.
Trong khi A Lại Da thức có đặc tánh là Vô Phú, Vô Ký; Mạt Na thức cũng có đặc tính là Vô Ký (giống như ở A Lại Da thức) nhưng nó lại là Hữu Phú, vì nó có chổ y nương, chỗ trụ chấp là nương dựa vào thức A Lại Da. Do tính cách Hữu Phú và do là nguồn Tư Lương Chấp Ngã bất tận, nên Mạt Na thức ngoài 5 tâm sở Biến Hành còn có thêm 13 tâm sở khác bao gồm 1 tâm sở Biệt Cảnh và 12 tâm sở Phiền Não:
1 tâm sở Biệt Cảnh nơi Mạt Na thức = là tâm sở Huệ;
Biệt Cảnh là phân biệt trần cảnh, đối tượng được thu nhận, thấy biết, nghe biết...từ nơi 6 căn (Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, Ý Thức). 5 tâm sở Biệt Cảnh gồm: 1. Dục = Tâm ham muốn nhận biết, phân biệt; 2.Thắng Giải = Tâm liễu tri rõ được đối tượng muốn nhận biết; 3. Niệm = Tâm nghĩ nhớ về các đối tượng liễu tri; 4. Định = Tâm an ổn, không chao động; và 5. Huệ = Tâm sáng suốt, không chướng ngại, rõ biết các đối tượng. Cần rõ thêm là tâm sở Biệt Cảnh Huệ nơi Mạt Na thức không là rõ biết về các đối tượng trần cảnh mà là rõ biết về các đối tượng nội tâm, về Ngã chấp sơ khai nơi nội tâm, và về hai bên Năng và Sở nơi nội tâm. Do vậy, trong 5 Biệt Cảnh tâm sở, Mạt Na thức chỉ duy có một tâm sở Huệ.
12 tâm sở Phiền Não nơi Mạt Na thức = bao gồm 4 Căn Bản Phiền Não (gồm có 3 tâm sở thuộc về Tư Hoặc là Tham, Si, Mạn và 1 tâm sở thuộc về Kiến Hoặc là Ác Kiến), và 8 Đại Tùy Phiền Não (gồm có Trạo Cử, Hôn Trầm, Bất Tín, Giải Đãi, Phóng Dật, Thất Niệm, Tán Loạn, và Bất Chánh Tri).
Gọi là “Phiền Não” vì chúng khiến gây ra các khổ đau, các tập nghiệp khiến che mờ Giác Tánh và khiến chúng sinh chịu đày đọa trong các nẻo luân hồi bất tận. Gọi là "Căn Bản Phiền Não " vì những phiền não này có tính cách cội gốc trong Mạt Na thức, chỉ thuần là các đối tượng tâm thức mênh mang trong nội tâm, chưa nhuốm hình tướng, bóng dạng của đối tượng cảnh trần nên chúng là tiền đề để sinh khởi ra các Tùy Phiền Não. Gọi là "Tùy Phiền Não" vì các phiền não này được sinh khởi tùy vào Căn Bản Phiền Não và tùy vào các đối tượng cảnh trần.
Căn Bản Phiền Não trong Duy Thức Học gồm có 6 tâm sở chính:
1.Tham = tâm ham muốn chỉ mong được có và cứ có thêm, thủ đắc bất tận ;
2. Sân = tâm giận tức, nổi nóng, bực bội, thù oán;
3. Si = tâm vô minh, u muội, không rõ chơn lý, đạo lý;
4. Mạn = tâm cao ngạo, luôn thấy mình hơn người khác;
5. Nghi = tâm chưa liễu tri, chưa phân biệt rõ ràng;
6. Ác Kiến = là tâm nhận biết, phân biệt, chấp thủ còn sai lầm, trái nghịch với chơn lý, đạo lý. Ác Kiến lại được phân định ra 5 thứ: 6.1.Thân Kiến = là cái thấy biết chấp trước có thân tâm 5 uẩn, có Ngã và Ngã Sở; 6.2. Biên Kiến = là cái thấy biết chấp trước về 2 bên như chấp đoạn - thuờng, chấp có – không, chấp sinh – diệt, chấp khổ – vui, chấp thương – ghét, chấp đẹp – xấu …; 6.3. Tà Kiến = là cái thấy biết chấp trước chấp sai lầm đối với chơn lý và đạo lý; 6.4.Kiến Thủ = là thủ chấp cái thấy biết sai lầm của mình, không chấp nhận các ý kiến đúng đắn khác; và 6.5. Giới Cấm Thủ =là thủ chấp vào các cảnh giới, các cấm giới còn sai lầm của mình nên còn thiếu sót sự tu tập chân chính.
5 tâm sở Phiền Não Căn Bản đầu tiên (Tham, Sân, Si, Mạn và Nghi) còn được gọi là Tư Hoặc . Tư Hoặc là những mê mờ, sai lầm, có tánh nhiễm ô nơi tà tư, tà niệm, nơi nghĩ suy, tư duy không đúng với chơn lý, đạo lý. Tâm sở Phiền Não Căn Bản còn lại (Ác Kiến) được gọi là Kiến Hoặc dùng để chỉ cho tất cả những mê mờ, sai lầm nơi dụng năng của 6 thân căn là thấy biết, nghe biết, ngửi biết, nếm biết, xúc biết, và nhận biết. Như thế 6 Căn Bản Phiền Não chính là toàn bộ Kiến Tư Hoặc. Trong 6 tâm sở Căn Bản Phiền Não trên, Mạt Na thức do bản tính mênh mang, nhẹ nhàng nên chỉ có 4 tâm sở là Tham, Si, Mạn, và Ác Kiến mà không có 2 tâm sở Sân và Nghi.
Tùy Phiền Não trong Duy Thức Học được phân định chi tiết ra 3 loại tùy vào phạm vi tương ưng với nhận thức, và tùy vào kích thước, dung lượng dính mắc vào đối tượng nhận thức (nơi nội tâm hoặc nơi trần cảnh bên ngoài) là rộng lớn hay nhỏ hẹp. Đó là 3 loại: Đại Tùy Phiền Não, Trung Tùy Phiền Não, và Tiểu Tùy Phiền Não:
Đại Tùy Phiền Não: là Tùy Phiền Não có phạm vi rộng lớn, không có đối tượng rõ ràng, mà lại mênh mang, khó nhận biết rõ. Đại Tùy Phiền Não có 8 tâm sở là: 1. Trạo Cử = thân tâm chao động, không tĩnh lặng; 2. Hôn Trầm = tâm nặng nề, không sáng suốt; 3. Bất Tín = không có lòng chánh tín nơi Tam Bảo; 4. Giải Đãi= lười biếng,không tinh tấn; 5. Phóng Dật = tâm phóng túng, buông lung; 6. Thất Niệm = tâm hay quên, không nhớ các sự việc đã trải qua; 7. Tán Loạn = tâm rối ren nhiều việc, không thể nhất tâm vào một việc; 8. Bất Chánh Tri = không biết đúng sự việc thực tế nơi thân tâm. (Mạt Na thức có đủ 8 tâm sở Đại Tùy Phiền Não này);
Trung Tùy Phiền Não: là Tùy Phiền Não có phạm vi trung bình, có đối tượng rõ ràng hơn, dễ nhận biết hơn so với Đại Tùy Phiền Não. Trung Tùy Phiền Não có 2 tâm sở là: 1. Vô Tàm = không biết tự hổ thẹn với chính mình; 2. Vô Quý = không biết xấu hổ với mọi người khác. (Mạt Na thức không có tâm sở Trung Tùy Phiền Não do không thích hợp về phạm vi tương ưng);
Tiểu Tùy Phiền Não: là Tùy Phiền Não có phạm vi nhỏ hẹp, có đối tượng cụ thể, rõ ràng, dễ dàng nhận biết như phiền não về một người, một việc, một vật...nào đó rõ rệt, không mông lung. Tiểu Tùy Phiền Não có 10 tâm sở là: 1. Phẫn = tâm giận dữ; 2. Hận = tâm trì giữ những phẫn nộ trong quá khứ; 3. Phú = tâm che dấu các tội lỗi, các việc xấu ác của mình; 4. Não = tâm chao động, xáo trộn, băn khoăn, muộn phiền; 5. Tật = tâm đố kỵ, ganh ghét; 6. Xan = tâm bỏn xẻn, xan tham, không san xẻ, giúp đỡ người khác; 7. Cuống = tâm dối trá, lường gạt; 8. Siễm = tâm a dua, nịnh hót; 9. Hại = tâm gây tổn thương, thiệt hại đến người khác; 10. Kiêu = tâm tự mãn, xem mình hơn người khác về chuyên biệt một sự việc nào đó. (Mạt Na thức không có tâm sở Tiểu Tùy Phiền Não do không thích hợp về phạm vi tương ưng).
Có thể cho rằng 13 tâm sở có thêm nơi Mạt Na thức này đều được sinh khởi, phát triển ra từ cội nguồn là tâm sở Tư, tâm sở Biến Hành có mặt nơi A Lại Da thức và nơi Mạt Na thức, nên chúng nhận tâm sở Tư là Chánh Nguồn và nhận tâm sở Tưởng là Sơ Nguồn. Duy Thức Tam Thập Tụng có bài kệ về Mạt Na thức cùng 18 tâm sở tương ứng như sau:
“Thứ đệ nhị năng biến
Thị thức danh Mạt na
Y bỉ chuyển duyên bỉ
Tư lương vi tánh tướng
Tứ phiền não thường câu
Vị Ngã si, Ngã kiến
Tinh Ngã mạn, Ngã ái
Cập dữ Xúc đẳng câu
Hữu phú vô ký nhiếp
Tùy sở sanh sở hệ
A la hán Diệt định
Xuất thế đạo vô hữu”
Tạm dịch:
“Thức Năng Biến thứ hai
Thức này tên Mạt Na
Nương A Lại Da rồi lại duyên A Lại Da
Tánh tướng là tư lương
Thường cùng bốn phiền não
Là Ngã Si, Ngã Kiến
Thuần Ngã Mạn, Ngã Ái
Cùng gắn liền với 5 Biến Hành
Nhiếp trì tánh Hữu Phú - Vô Ký
Tùy chỗ nào khởi sanh, chỗ đó hệ thuộc
Bậc A La Hán, Diệt Tận Định
Đạo Xuất Thế Gian, không còn có Thức này”
Thức Mạt Na được cảm nhận là Hành Ấm vì nó là dòng chuyển biến của nguồn năng lượng vô tận từ nơi vô lượng chủng tử rất nhanh nhạy, rất vi tế, khó nhận biết của tâm thức A Lại Da. Kinh Thủ Lăng Nghiêm gọi Hành Ấm (Mạt Na thức) với tên gọi là U Ẩn Vọng Tưởng (vọng tưởng u nhàn, ẩn mật, mờ tối, bị khuất lấp, khó nhận biết), tượng trưng cho Chúng Sinh Trược (lớp uế trược về sự thọ nhận thân phận chúng sinh, có sinh rồi có diệt cùng với bao điều xấu ác nơi thân tâm).
Nhìn chung, tâm sở Tưởng nơi Mạt Na thức tạm nêu có 4 đặc điểm:
Đặc điểm 1: Tâm sở Tưởng nơi Mạt Na thức được xuất sinh từ vô lượng chủng tử tàng trữ sẵn có nơi A Lại Da thức. Do vậy nó có tính cách giống như là bất tận, như dòng nước chảy ào ạt, dữ dội từ ống nước thông với biển cả tâm thức khiến cho dòng Tưởng này cứ chảy mãi miết, liên tu bất tận, không ngưng nghỉ.
Đặc điểm 2: Tâm sở Tưởng nơi Mạt Na thức có tướng trạng được thể hiện như một dòng Tưởng chảy liên tục nên được xem là rõ nét, đậm đà hơn so với tướng trạng bọt Tưởng, tăm Tưởng nơi A Lại Da thức. Lý do là Mạt Na thức luôn có khuynh hướng chấp Ngã, chấp trước vào 2 bên (Năng- Sở, Bỉ- Thử...) khiến cho 5 Biến Hành tâm sở nơi A Lại Da thức từ trạng thái mênh mang, nhẹ nhàng trở nên có chút nặng nề hơn khi được chuyển hóa thêm ra, tạo thành 18 tâm sở nơi Mạt Na thức. 18 tâm sở này cũng có thể được xem là 18 sắc thái, 18 giai điệu tâm thức khiến phong phú hóa và cường lực hóa cho tâm sở Tưởng nơi Mạt Na thức. Tuy vậy, cũng giống như ở A Lại Da thức, tâm sở Tưởng nơi Mạt Na thức cũng chưa có đủ sức gây tạo, hình thành nên các chủng tử mới.
Đặc điểm 3: Sự đậm nét rõ ràng hơn của tâm sở Tưởng nơi Mạt Na thức lại gắn liền với tính chất phiền não, gây tạo khổ đau từ chính nó và cho chính nó. Điều này được thể hiện rõ là trong 18 Tâm Sở của Mạt Na thức có đến 12 Tâm Sở (12/18 = 2/3) thuộc về nhóm Tâm Sở Phiền Não . Như thế ở A Lại Da thức, tâm sở Tưởng đã sẵn mang tính cách điên đảo, nay qua đến Mạt Na thức, lại mang thêm tính cách u buồn, não phiền, tăm tối, ẩn khuất (U Ẩn Vọng Tưởng).
Đặc điểm 4: Tâm sở Tưởng nơi Mạt Na thức có quan hệ mật thiết với khuynh hướng chấp Ngã. Khuynh hướng này không có ở A Lại Da thức, mà chỉ bắt đầu xuất hiện ở Mạt Na thức khi Mạt Na thức trụ nương, chấp mắc vào Kiến phần của A Lại Da thức rồi khiến phát sinh Ngã Tướng. Từ Ngã Tướng (tướng chúng sinh này) lại sẽ có thêm Nhân Tướng (tướng chúng sinh kia), Chúng Sinh Tướng (tất cả các tướng chúng sinh này và tướng chúng sinh kia hợp lại), Thọ Giả Tướng (khoảng thời gian hiện hữu lâu mau của Chúng Sinh Tướng). Bốn tướng này chính là cơ sở tiền đề của Chúng Sinh Trược vừa được đề cập bên trên.
Thế nhưng khi theo nghiệp tái sinh vào trong thế gian, thân và tâm của chúng sinh dần dà được kết tụ, hình thành thì 2 lớp Ấm (Thức Ấm, Hành Ấm), 2 lớp Tưởng (Điên Đảo Vọng Tưởng, U Ẩn Vọng Tưởng) của 2 thức A Lại Da và thức Mạt Na chưa dừng lại nơi đó mà còn tiếp tục được bồi đắp thêm 3 lớp Ấm, 3 lớp Tưởng nơi Tiền Lục Thức (Đệ Tam Năng Biến, Thức Năng Biến Thứ Ba).
Tiền Lục Thức chính là 6 nguồn thức để nhận biết, phân biệt trần cảnh bên ngoài và được gán mắc, nương gá vào 6 cơ quan nơi thân: Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân và Bộ Óc (Não Bộ) cùng hệ thống dây thần kinh tương quan. Do vậy, Tiền Lục Thức có tánh Hữu Phú (có chỗ nương trụ), Hữu Ký (có phân biệt về thiện, ác, và vô ký) khác với A Lại Da thức (Vô Phú, Vô Ký), và khác với Mạt Na thức (Hữu Phú, Vô Ký). Duy Thức Tam Thập Tụng có bài kệ về thức Đệ Tam Năng Biến như sau:
"Thứ Đệ Tam Năng Biến
Sai biệt hữu lục chủng
Liễu cảnh vi tánh tướng
Thiện, bất thiện, câu phi"
Tạm dịch:
“ Thức Năng Biến thứ ba
Có sáu thứ sai biệt
Tánh tướng là rõ cảnh
Thiện, Ác cùng Vô Ký”
Tùy vào các giai đoạn hình thành và phát triển công năng liễu cảnh, Tiền Lục Thức được phân định ra 2 nhóm là Tiền Ngũ Thức (5 Thức Trước) và Ý Thức (Đệ Lục Thức).
Tiền Ngũ Thức nương dựa vào A Lại Da thức mà phát khởi; 5 thức này khởi phát đồng thời (như vừa nhìn, vừa nghe...), hoặc không đồng thời (như chỉ nhìn, hoặc chỉ nghe …) và được ví như sóng nước biển trên mặt biển A Lại Da, trong bài kệ của Duy Thức Tam Thập Tụng sau:
"Y chỉ Căn Bản Thức
Ngũ thức tùy duyên hiện
Hoặc câu hoặc bất câu
Như đào ba y thủy"
Tạm dịch:
“Nương vào Căn Bản Thức
Năm thức hiện theo duyên
Hoặc cùng hoặc chẳng cùng
Như sóng nương trên nước”
Tiền Ngũ Thức đóng vai trò thu gom, đón nhận trần cảnh tiếp xúc được từ bên ngoài rồi đưa vào Ý thức tổng hợp, chọn lọc, và phát triển ra thành những nhận thức, những nhận định, những phân biệt qui mô, chính xác. Theo Bát Thức Quy Củ Tụng (Tác giả: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664)), Tiền Ngũ Thức được xem là có 34 tâm sở qua 2 câu:
"Biến Hành, Biệt Cảnh, Thiện thập nhất
Trung nhị, Đại bát, Tham Sân Si"
Tạm dịch:
"Biến Hành, Biệt Cảnh, Thiện mười một
Hai Trung, tám Đại, Tham Sân Si"
Như thế, 34 tâm sở nơi Tiền Ngũ Thức bao gồm:
5 tâm sở Biến Hành gồm: 1. Xúc, 2. Tác Ý, 3. Thọ, 4. Tưởng, 5. Tư. 5 tâm sở này xuất sinh và chuyển hóa trọn vẹn từ A Lại Da thức và Mạt Na thức (đã đề cập ở phần A Lại Da thức);
5 tâm sở Biệt Cảnh gồm: 1. Dục, 2.Thắng Giải, 3. Niệm , 4. Định và 5. Huệ. (đã đề cập ở phần Mạt Na thức). Như thế Tiền Ngũ Thức có số lượng tâm sở Biệt Cảnh nhiều hơn so với A Lại Da thức (A Lại Da thức không có tâm sở Biệt Cảnh), và nhiều hơn cả với Mạt Na thức (Mạt Na thức chỉ có tâm sở Huệ);
11 tâm sở Thiện gồm: 1. Tín = Tâm tin vào chơn lý, đạo lý, vào Tam Bảo; 2. Tàm = Tâm tự hổ thẹn với chính mình; 3. Quý = Tâm xấu hổ với người khác; 4. Vô Tham = Tâm không tham cầu; 5. Vô Sân = Tâm không giận dữ; 6. Vô Si = Tâm không u tối; 7. Cần = Tâm tinh tấn, chuyên cần; 8. An = Tâm an lành, nhẹ nhàng; , 9. Bất Phóng Dật = Tâm không giải đãi, buông lung, phóng túng; 10. Hành Xả = Tâm buông bỏ, không chấp trước, vướng víu, níu kéo; và 11. Bất Hại = Tâm không làm tổn thương, thiệt hại đến các chúng sanh khác. Như thế phải đến Tiền Ngũ Thức mới có hiện diện 11 tâm sở Thiện (vì cả 2 thức A Lại Da và thức Mạt Na đều không có Thiện tâm sở);
8 tâm sở Đại Tùy Phiền Não: (đã đề cập ở phần Mạt Na thức), Tiền Ngũ Thức có số lượng tâm sở Đại Tùy Phiền Não bằng với Mạt Na thức và nhiều hơn so với A Lại Da thức (thức A Lại Da không có Đại Tùy Phiền Não tâm sở);
2 tâm sở Trung Tùy Phiền Não: (đã đề cập ở phần Mạt Na thức), Tiền Ngũ Thức có số lượng tâm sở Trung Tùy Phiền Não nhiều hơn Mạt Na thức và A Lại Da thức (cả 2 thức A Lại Da và thức Mạt Na đều không có Trung Tùy Phiền Não tâm sở);
3 tâm sở Căn Bản Phiền Não cua Tiền Ngũ Thức chỉ bao gồm: 1.Tham, 2. Sân, và 3. Si (đã đề cập ở phần Mạt Na thức). Tiền Ngũ Thức có số lượng Căn Bản Phiền Não nhiều hơn so với thức A Lại Da (A Lại Da thức không có Căn Bản Phiền Não) và ít hơn so với thức Mạt Na (thức Mạt Na không có tâm sở Sân nhưng có thêm 2 tâm sở Mạn và Kiến).
Tiền Ngũ Thức nương gá nơi nhục thân nên thuộc về Sắc Ấm. Kinh Thủ Lăng Nghiêm gọi Sắc Ấm là Kiên Cố Vọng Tưởng. Gọi là Kiên Cố vì đây là loại vọng tưởng khó phá vỡ, loại vọng tưởng có từ vô lượng kiếp trong quá khứ, loại vọng tưởng giao kết chồng chất thêm vào vọng tưởng của cha và của mẹ trong khi tái sinh. Kiên Cố Vọng Tưởng tượng trưng cho Kiếp Trược, lớp uế trược về sự thọ nhận muôn vàn khổ đau, vô thường nơi thân phận chúng sinh.
Ngoài Tiền Ngũ Thức, Đệ Tam Năng Biến còn có thành phần cơ bản, rất trọng yếu là Ý Thức. Đây là tâm vương Đệ Lục Thức được nương gá vào bộ óc (não bộ), nơi có sự tương hệ mật thiết với các cơ quan khác trong toàn thân thể qua hệ thống dây thần kinh chằng chịt, phức tạp, và cũng là nơi có hoạt động gắn liền với 2 tâm vương Đệ Thất Mạt Na thức và Đệ Bát A Lại Da thức. Do Ý Thức là nơi 8 Thức Tâm Vương tụ hội , nơi dồn tụ, duy trì và phát triển tối đa tâm sở Tưởng nói riêng và tất cả các tâm sở khác nói chung nên Ý thức có đẩy đủ tất cả 51 tâm sở của Duy Thức Học, bao gồm:
5 Biến Hành (Tác Ý, Xúc, Thọ, Tưởng, và Tư) (đã đề cập ở phần A Lại Da thức);
5 Biệt Cảnh (Dục, Thắng Giải, Niệm, Định, và Huệ) (đã đề cập ở phần Mạt Na thức);
11 Thiện (Tín, Tàm, Quý, Vô Tham, Vô Sân, Vô Si, Cần, An, Bất Phóng Dật, Hành Xả và Bất Hại ) (đã đề cập ở phần Tiền Ngũ Thức);
6 Căn Bản Phiền Não: gồm 1. Tham, 2. Sân, 3. Si, 4. Mạn, 5. Nghi, và 6. Ác Kiến (đã đề cập ở phần Mạt Na thức);
20 Tùy Phiền Não , chia ra gồm 8 Đại Tùy Phiền Não: 1. Trạo Cử, 2. Hôn Trầm, 3. Bất Tín, 4. Giải Đãi, 5. Phóng Dật, 6. Thất Niệm, 7. Tán Loạn, 8. Bất Chánh Tri (giống như nơi Mạt Na thức); thêm 2 Trung Tùy Phiền Não : 1. Vô Tàm, 2. Vô Quý (giống như nơi Tiền Ngũ Thức); và nay Ý Thức đặc biệt có thêm 10 Tiểu Tùy Phiền Não (1. Phẫn, 2. Hận, 3. Phú, 4. Não, 5. Tật, 6. Xan, 7. Cuống, 8. Xiểm, 9. Hại, và 10. Kiêu) ( 20 Tùy Phiền Não này đã được đề cập ở phần Mạt Na thức). Quan trọng là 10 Tiểu Tùy Phiền Não không có hiện diện ở A Lại Da thức, ở Mạt Na thức, và cả ở Tiền Ngũ Thức. Chúng chỉ xuất hiện nơi Ý thức và là một nét vô cùng độc đáo, đặc sắc của Ý thức vì chúng đã đưa sự rõ biết cảnh trần (Liễu Biệt Cảnh) đến tận cùng qua các tâm sở có phạm vi tương ưng nhỏ nhiệm, cụ thể nhất . Thí dụ: tâm sở Phẫn không thể hiện hữu mà không có đối tượng cụ thể mà phải là có thấu suốt rõ ràng phẫn về việc gì, phẫn với ai, phẫn trong hoàn cảnh, trường hợp nào.
4 tâm sở Bất Định: gồm 1. Hối = là tâm nuối tiếc những sự việc, sự vật thiện hay bất thiện đã trải qua; 2. Miên = là tâm không tỉnh giác, mệt mỏi, buồn ngủ; 3. Tầm =là tâm tìm tòi, truy cứu để liễu tri; và 4. Tứ = là tâm cảm nhận, dò xét, tìm hiểu tinh tế và đánh giá đối tượng được tìm thấy. Gọi là Bất Định vì các tâm sở này không nhất định là thiện hay bất thiện, cũng không nhất định là thuộc về ngoại trần cảnh hay nội tâm thức. Cũng như 10 Tiểu Tùy Phiền Não, 4 tâm sở Bất Định này không có hiện diện ở A Lại Da thức, ở Mạt Na thức, và cả ở Tiền Ngũ Thức. Chúng chỉ xuất hiện nơi Ý thức và cũng làm nên nét đặc sắc quan trọng khác của Ý thức vì chúng đã mở rộng thêm phạm vi về thời gian và về không gian cho tâm sở Tưởng nói riêng cũng như cho tất cả các tâm sở khác của Ý thức nói chung. Thí dụ tâm sở Hối là tâm thức quay ngược vào quá khứ với xiết bao sự việc, cảnh vật, tình huống đã trải nghiệm qua; tâm sở Tầm và tâm sở Tứ là hướng về tương lai cũng với xiết bao sự việc...sẽ thực hiện.
Ý thức thuờng xuyên hiện hữu , ngoại trừ trong 5 trường hợp là : 1. Sanh ở cõi trời Vô Tưởng; 2. và 3. Ở 2 Vô Tâm Định (là Vô Tưởng Định và Diệt Tận Định, cả 2 đều không còn có sự hiện hữu của Tiền Lục Thức); 4. Ở ngủ say; và ở 5. Ở chết ngất. Như trong bài kệ của Duy Thức Tam Thập Tụng sau:
"Ý thức thường hiện khởi
Trừ sanh Vô Tưởng thiên
Cập Vô Tâm nhị định
Thùy miên dữ muộn tuyệt"
Tạm dịch:
“Ý thức thường khởi hiện
Ngoại trừ sanh nơi cõi trời Vô Tưởng
Cùng hai định Vô Tâm
Ngủ say với chết ngất"
Ý thức được cảm nhận gồm cả 2 Ấm là Thọ Ấm và Tưởng Ấm. Lý do là 5 loại cảm thọ (Ưu thọ, Khổ thọ, Hỷ thọ, Lạc thọ, và Xả thọ) và tất cả hoạt động về tư tưởng của não bộ đều được xuất hiện, nhận biết và phân biệt thông qua Ý thức. Kinh Thủ Lăng Nghiêm gọi Thọ Ấm và Tưởng Ấm với tên gọi lần lượt là "Hư Minh Vọng Tưởng" và "Dung Thông Vọng Tưởng". Hư Minh Vọng Tưởng là lớp vọng tưởng mờ tối, hư huyễn; là cái rõ biết ("minh") về những cảm thọ vốn là hư vọng, không có thực thể ("hư"). Hư Minh vọng tưởng tượng trưng cho Kiến Trược (lớp uế trược về sự thấy biết sai lầm, không đúng với chân tướng, thực tướng của vạn pháp). "Dung Thông Vọng Tưởng" là lớp vọng tưởng liền lạc, hòa nhập, thông suốt không chướng ngại, biến hóa khắp thân tâm, khắp trần cảnh. Dung Thông Vọng Tưởng tượng trưng cho Phiền Não Trược (lớp uế trược do nơi phiền não, tưởng niệm lấp che Giác Tánh).
Nhìn chung, tâm sở Tưởng nơi Tiền Lục Thức tạm nêu có 5 đặc điểm:
Đặc điểm 1: Tâm sở Tưởng nơi Tiền Lục Thức là sự tiếp nối trọn vẹn và có thêm sự phát triển rộng lớn, sâu sắc, tinh tế trong dòng tư lương cuộn chảy ào ạt, dữ dội, mãi miết, liên tu bất tận, không ngưng nghỉ từ tâm sở Tưởng nơi cội nguồn là 2 thức Năng Biến thứ nhất (A Lại Da thức ) và thức Năng Biến thứ hai (Mạt Na thức).
Đặc điểm 2: Khác với cảnh giới của thức A Lại Da và thức Mạt Na chỉ thuần là nơi nội tâm với những nét hành chuyển tâm thức còn mơ hồ, u huyền, ẩn khuất; thì khi qua đến Tiền Lục Thức, cảnh giới này đã được mở sâu, mở rộng thêm ra bên ngoài trần cảnh có tính cách cụ thể hơn. Điều này khiến cảnh giới của Tiền Ngũ Thức có thêm muôn vàn các hình ảnh, các sắc thái, các tướng trạng rõ ràng, với đầy đủ hình tướng, sắc màu, âm thanh, hương vị, xúc chạm...được thu thập từ xiết bao trần cảnh bên ngoài nơi vũ trụ, không gian, núi sông, mây nước, cây cỏ, hoa lá, con người, thú vật,...
Đặc điểm 3: Do cảnh giới của Tiền Lục Thức vừa là nội tâm, vừa là ngoại trần nên tâm sở Tưởng và dòng tư lương nơi Tiền Lục Thức cũng được phát triển vô cùng mạnh mẽ, phong phú. Điều này được thấy rõ qua sự phát triển về số lượng (và cả về chất lượng) các tâm sở nơi 3 thức Năng Biến: nơi thức A Lại Da chỉ có 5 tâm sở, Mạt Na thức có 18 tâm sở; còn nơi Tiền Lục Thức, Ý thức có đầy đủ 51 tâm sở. Chi tiết hơn, từ Mạt Na thức với 18 tâm sở qua đến Ý thức với 51 tâm sở có độ cách biệt (có thêm) là 33 tâm sở. Vậy 33 tâm sở này có thể được dùng làm sự biểu hiện của công năng liễu cảnh của Tiền Lục Thức. 33 tâm sở này bao gồm:
4 tâm sở Biệt Cảnh: Dục, Thắng Giải, Niệm, và Định
2 tâm sở Căn Bản Phiền Não: Sân, và Nghi
11 tâm sở Thiện: Tín, Tàm, Quý, Vô Tham, Vô Sân, Vô Si, Cần,An, Bất Phóng Dật, Hành Xả, và Bất Hại
2 tâm sở Trung Tùy Phiền Não: Vô Tàm, Vô Quý
10 tâm sở Tiểu Tùy Phiền Não: Phẫn, Hận, Phú, Não, Tật,Xan, Cuống, Xiễm, Hại, và Kiêu;
4 tâm sở Bất Định: Hối, Miên, Tầm, và Tứ
Đặc điểm 4: Tiền Lục Thức nói chung và Ý thức nói riêng là nơi tụ hội của 3 nguồn thức Năng Biến. Mỗi nguồn thức lại có một sự chấp mắc riêng biệt, không giống nhau : thức A Lại Da (Năng Biến 1) chấp mắc vào chủng tử nghiệp thức, thức Mạt Na (Năng Biến 2) chấp Ngã, thức Năng Biến 3 chia ra có Tiền Ngũ Thức chấp cảnh trần (chấp cảnh), còn Ý thức chấp pháp trần (chấp pháp). Tất cả sự chấp mắc, vướng víu này thể hiện các hành tướng, hiện tướng của tâm sở Tưởng tập trung nơi Ý thức. Điều này khiến nếu cho tâm sở Tưởng nơi A Lại Da thức ví như các bọt nước, tăm nước nơi mặt biển âm thầm, phẳng lặng thì Tưởng ở nơi Ý thức lại được xem là các cơn sóng ào ạt nhất, lớn lao nhất, dữ dội, có khi điên cuồng nhất.
Đặc điểm 5: Chính do bản thân, bản chất là các cơn sóng lớn nên tâm sở Tưởng nơi Tiền Lục Thức có tính cách kết nghiệp, gây tạo nghiệp thức rất mạnh mẽ. Nghiệp thức lâu ngày, năm này tháng nọ, lại được kết tinh thành các chủng tử. Các chủng tử kết tinh này do là sản phẩm từ tâm thức nên không thể bị tiêu hao, hủy diệt bởi bất kỳ phương tiện nào ở bên ngoài mà chúng chỉ có thể được chuyển hóa từ công phu thiền định nội tại. Tiến trình chuyển hóa này chỉ có thể thành tựu nơi quả vị A La Hán, sau khi đã Kiến Tánh, được gọi là "Chuyển Thức thành Trí" trong Duy Thức Học: chuyển Ý thức thành "Diệu Quán Sát Trí", chuyển Mạt Na thức thành "Bình Đẳng Tánh Trí", chuyển Tiền Ngũ Thức thành "Thành Sở Tác Trí", và chuyển A Lại Da thức thành "Đại Viên Cảnh Trí".
Trong nhà Thiền có câu chuyện kể:
"Tăng hỏi tổ Hoàng Bá: "Vọng tưởng hay chướng ngại tâm. Lấy gì để trừ vọng?”
Tổ đáp: "Nếu khởi tâm muốn trừ vọng, là đã có thêm một lớp vọng.
Vọng vốn không có gốc, vì nó chỉ do nơi phân biệt mà có. Nếu ở hai đầu phàm thánh mà không có khởi tâm suy lường, nhớ nghĩ thì tự nhiên không có vọng. Đâu cần phải tính toan trừ bỏ nó..."
Tựu trung, trong hào quang Phật đạo Đại Từ, Đại Bi soi rọi; khi ngay cả thức A Lại Da chưa là Chơn Tâm mà chỉ là Vọng thức và khi cả kho tàng vô lượng chủng tử, tập khí nghiệp thức cũng chỉ là các kết tinh từ vọng ngã, vọng tưởng, vọng tình...hư vọng chấp mắc, vướng víu, đan bện vào nhau nơi tâm thức hàng ngày của chúng sinh; lại có điều oái oăm, đau đớn là những hư vọng này lại có thể khiến chúng sinh cứ phải trôi lăn, gắn kết vào vòng sinh tử luân hồi vô tận. Chỉ khi nào tâm thức chúng sinh có khả năng ngược dòng cuộn chảy ào ạt, không ngừng nghỉ của 7 Chuyển Thức ; rồi ngược dòng tư lương của Tiền Lục Thức và của Mạt Na thức; vượt qua 5 lớp Ấm, 5 lớp Vọng Tưởng, 5 lớp Trược mà trở về tắm mát nơi biển lớn A Lại Da thức ảo huyền cùng với phước trí, thiện duyên đầy đủ; một lúc nào đó, sương tuyết rã tan, khói bụi không còn, bỗng lại nhận ra được cội nguồn chơn tâm thường hằng thanh tịnh vậy.
Khánh Hoàng
Plano _ October 02, 2023
Tuổi Già
Bạn đến đón ta nơi cuối đường
Nẻo mây sự thế chẳng biên cương
Diệt sanh hành chuyển đâu hề dứt
Già trẻ luân phiên khó thể lường
Mưa nắng mấy mùa còn chấp luyến
Thong dong cánh hạc lại hồi hương
Cùng ta bạn khẽ ngân câu hát
Mọi việc rồi ra cũng tỏ tường!
Khánh Hoàng
Plano _ July 19, 2023
NGUYỆT TRÀ
Dẫn:
Thênh thang chiếu nguyệt
Lồng lộng sắc vàng
Chiêu một ngụm trà
Ực cả ngàn trăng!
Nguyệt Trà
Vườn khuya trăng tỏa bóng toàn chân
Lấp loáng chung trà lộng sắc vân
Cung thỉnh đất trời nguồn phước lộc
Hòa nhiên mây nước cội thanh tân
Núi sông rộn rã mừng khai hội
Hoa lá an nhàn khéo chuyển luân
Nâng chén trầm hương thường lạc xứ
Đẹp dòng nhậm vận ngát huyền ân!
Khánh Hoàng
Plano _ June 15, 2023
Mai Này Đi Vào Núi
https://quangduc.com/a75361/mai-nay-di-vao-nui
Mai này đi vào núi
Đường mây bặt dấu hài
Thân tâm chút cát bụi
Điểm hồng đời thêm vui!
Mai này đi vào núi
Trăng sáng vẫn mỉm cười
Trời đất ươm thơ mộng
Ửng một màu tinh khôi
Núi chập chùng tuôn dài
Mưa và nắng vẫn hoài
Luân chuyển bao vi diệu
Hiển bày trong hư thái
Chốn tuyệt lộ mịt mùng
Trăng vẫn chiếu vô cùng
Thơm ngát hương hạnh nguyện
Từng bước về thung dung
Mai này đi vào núi
Quê xưa đó rạng ngời
Thênh thang xứ tĩnh lặng:
An vui!
Khánh Hoàng
Plano_ December 15, 2006
Vài nét về
"Bảy Chỗ Tìm Tâm" trong kinh Thủ Lăng Nghiêm qua Duy Thức Học Khánh Hoàng
Kinh Thủ Lăng Nghiêm có tên gọi đầy đủ là :"Kinh Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm", thường được xem là kinh diễn đạt rõ ràng nhất về công đức của sáu căn. Đây là kinh thuộc hệ thượng thừa, viên đốn, liễu nghĩa nên kinh này đã là quốc bảo của xứ Ô Trường (Trung Thiên Trúc), bị cấm đem ra nước ngoài. Tuy thế, kinh đã được sa môn Bát Lạt Mật Đế (?-?) xả thân, tự xẻ cánh tay để dấu kinh rồi đem kinh đến Quảng Châu (Trung Quốc) vào năm 705 (đời vua Đường Trung Tông). Kinh sau đó đã được dịch từ Phạn văn sang Hán văn với ngài Bát Lạt Mật Đế là vị “dịch chủ” (người đứng đầu Hội Đồng Phiên Dịch, chủ tọa đạo tràng dịch Kinh): Ngài tụng nguyên bản Phạn văn của Kinh gồm 10 quyển, sa-môn Di Già Thước Khư dịch nghĩa, sa môn Hoài Địch dịch văn, cư sĩ Phòng Dung nhuận sắc, hiệu chính.
"Bảy Chỗ Tìm Tâm" ("Thất Xứ Truy Tâm") hoặc còn gọi là "Bảy Chỗ Bày Tâm" ("Thất Xứ Trưng Tâm") là đoạn kinh văn khởi đầu trong quyển 1 của kinh Thủ Lăng Nghiêm. Đoạn kinh văn này được tóm lược nội dung với các mấu chốt quan trọng về nạn Ma Đăng Già của ngài A Nan như sau: "Vào ngày mãn hạ tự tứ, vua Ba Tư Nặc kính thỉnh đức Phật cùng hàng thánh chúng vào thành để cúng dường thọ trai. Tất cả thánh chúng đều đầy đủ, chỉ riêng ngài A Nan trước đó đã nhận lời mời riêng, đi xa chưa về kịp. Nên hôm ấy chỉ một mình ngài A Nan ôm bình bát đi khất thực. Ngài y theo lời dạy của đức Phật, thực hiện lòng từ bình đẳng, theo thứ lớp từng nhà, không phân biệt các nhà thí chủ giàu nghèo, quí tiện mà khất thực. Do đó, Ngài đã đi qua nhà nàng Ma Đăng Già, bị mắc phải tà chú huyễn thuật của nàng, sắp bị hủy giới thể. Đức Phật rõ biết, liền trở về tinh xá. Rồi từ trên đỉnh đầu đức Phật phóng ra ánh sáng báu vô úy, trong ánh sáng ấy xuất hiện tòa sen báu ngàn cánh, trên đó có hóa thân của Phật ngồi kiết già, tuyên nói thần chú. Phật bảo ngài Bồ Tát Văn Thù đem thần chú này đến cứu hộ,tiêu trừ ác chú, dẫn đại đức A Nan cùng nàng Ma Đăng Già đưa về chỗ Phật. Ngài A Nan gặp Phật, đảnh lễ rơi lệ, hối hận xưa nay chỉ ham học rộng nghe nhiều, chưa tròn đạo lực, nên nay ân cần thỉnh hỏi Như Lai về phương tiện đầu tiên của ba thứ thiền quán: Xa Ma Tha (Chỉ), Tam Ma Bát Đề (Quán), và Thiền Na (Thiền) mà mười phương Như Lai đã tu được thành Chánh Giác” .
Qua đoạn toát yếu trên, ta có thể rút ra vài điểm mấu chốt và nhận định như sau:
1/ Bối cảnh của kinh xảy ra vào mùa lễ Tự Tứ, một trong những mùa lễ có ý nghĩa quan trọng trong đạo Phật. Trong mùa lễ này, chư tăng ni sau ba tháng an cư, thúc liễm thân tâm, sẽ có thêm được một tuổi đạo (còn gọi là tuổi hạ hay hạ lạp), thêm thanh tịnh và gần gũi hơn với nguồn cội Chơn Tâm. Đặc trưng tinh thần của lễ Tự Tứ là chư tăng ni trợ giúp nhau trong việc tự quán xét thân tâm và trình bày, diễn đạt những điểm còn thiếu sót hay chưa được hoàn hảo về Thân- Khẩu- Ý trong quá trình tu tập Phật đạo, và sau đó phát tâm chí thành sám hối (nếu có lỗi lầm) để khiến gia cố thêm tín tâm cùng hạnh nguyện rốt ráo thanh tịnh đối với Tam Bảo.
2/ Tôn giả A Nan (605 TTL – 485 TTL) là đương cơ chính của kinh Thủ Lăng Nghiêm. Ngài là em họ của đức Phật Thích Ca Mâu Ni (624 TTL – 544 TTL) và cũng là thị giả lâu năm nhất của đức Phật. Ngài học rộng, nhớ nhiều về Phật pháp nên đươc mệnh danh là "Đa Văn Đệ Nhất" trong hàng 10 vị đại đệ tử của đức Phật. Tuy vậy, khi đức Phật nhập đại NiếtBàn, Ngài vẫn chưa đắc Thánh quả A La Hán (còn là bậc Hữu Học, chưa là bậc Vô Học). Mãi sau đó 3 tháng, Ngài mới có đủ cơ duyên để chứng đắc quả vị A La Hán mà tham dự đại hội kiết tập kinh điển lần thứ nhất tại nước Ma Kiệt Ðà của vua A Xà Thế và được Tôn giả Đại Ca Diếp truyền trao chánh pháp làm vị Tổ thứ hai của Thiền Tông.
3/ Trong Tam Huệ Học (Văn- Tư- Tu) của nhà Phật, "Văn" (học rộng, nhớ nhiều) mới chỉ là giai đoạn khởi đầu, giai đoạn tiếp nhận và làm quen với chân lý nguồn cội nên chưa có thể tiếp cận, đắc nhập đến cảnh giới Kiến Đạo (“Thấy Đạo”) của các bậc Thánh ở giai vị Tu Đà Hoàn (Thanh Văn thừa ) hoặc ở giai vị Bồ Tát Sơ Địa (Bồ Tát thừa). Ở giai vị Kiến Đạo, các Ngài đã được nhập vào dòng Thánh nên đã thấy rõ ra con đường tu tập để thành Phật. Theo Tổ Vô Trước (300-370) với Hiển Dương Thánh Giáo Luận và Tổ Thế Thân (315-395) với Biện Trung Biên Luận, con đường tu tập của bậc Tu Đà Hoàn (Sơ Địa Bồ Tát) là tập trung vào phần Thất Giác Chi; còn con đường tu tập của các bậc từ Tư Đa Hàm đến A La Hán (Bồ Tát Nhị Địa đến Bồ Tát Bát Địa) là tập trung vào phần Bát Chánh. Vậy đây không phải là con đường mà các phàm phu và cả các vị hiền thánh chưa Kiến Đạo có thể tu tập có hiệu quả được. Trong giai đoạn tu tập Thất Giác Chi và tu tập Bát Chánh Đạo, Liễu Biệt Cảnh thức dù vẫn còn hiện hữu nhưng tác dụng của nó dần dà càng ngày càng bị giảm sút để nhường chỗ cho Tuệ Tri, Giác Trí lưu xuất từ Như Lai Tàng thanh tịnh. Duy Thức Học cũng minh định giai đoạn"Văn" còn tùy thuộc và còn nằm trong hoạt động của Ý thức (Đệ Lục thức) hay nói rộng hơn là còn thuộc phạm trù ảnh hưởng của Liễu Biệt Cảnh Thức.
4/ Theo tinh thần Văn-Tư-Tu, muốn tu tập có hiệu quả (trước là Kiến Đạo của bậc Tu Đà Hoàn, sau là Kiến Tánh của bậc A La Hán) trong đạo Phật thì không nên dừng lại, đứng chựng lại ở giai đoạn "Văn” mà cần vượt qua nó. Vì đây còn là giai đoạn thuộc về tu tập của Tiền Lục Thức (Liễu Biệt Cảnh Thức). Điều này có nghĩa là trong tu tập, hành giả không những cần hiểu biết thấu đáo lời Thầy, lời Tổ mà còn cần phải vượt qua các phạm trù ngữ ngôn này. Do đó, trong nhà Thiền vẫn thường nghe câu "không để các lão Hòa Thượng trong thiên hạ đánh lừa”. Thực tế, không có Hòa Thượng nào muốn đánh lừa kẻ hậu học mà đây là câu hành giả tự nhắc nhớ, nhắn nhủ cho chính mình, không để tâm thức của mình bị trôi lăn theo cảnh trần bên ngoài, theo Tiền Lục Thức, theo Ý thức bám chấp vào lời lẽ, ngữ ngôn của các ngài. Chương 5 (chương "Như Lý Thật Kiến") trong kinh Kim Cang xác quyết không nên chấp mắc nơi công năng Thấy của Tiền Lục Thức: "Đức Phật hỏi ngài Tu Bồ Đề: "Có thể do nơi thân tướng mà thấy Như Lai?", ngài Tu Bồ Đề liền thưa rằng "Không thể do nơi thân tướng mà thấy Như Lai vì thân tướng Như Lai nói đó tức chẳng phải thân tướng". Ngài liền được đức Phật tán thán: "Đúng thế, phàm cái gì có tướng đều là hư dối. Nếu thấy các tướng là phi tướng, tức là thấy Như Lai". Ngoài ra, nơi chương 6 (chương “Chánh Tín Hy Hữu") của kinh này cũng xác quyết không nên chấp mắc nơi công năng Nghe của Tiền Lục Thức : “Pháp của Như Lai nói dụ cũng như bè, đến pháp còn nên xả bỏ hà huống phi pháp”. Điều này có nghĩa là nếu muốn thấy, muốn nghe ra thật tướng, thật pháp thì cần phải vượt qua chỗ thấy, chỗ nghe của Tiền Lục Thức do vì Tiền Lục Thức chỉ thấy, chỉ nghe được nơi cảnh trần bên ngoài.
5/ Theo Duy Thức Học, Ý thức cùng với 5 Thân Thức (5 thức nơi Thân gồm có Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức; còn gọi là Tiền Ngũ Thức hoặc "Năm Thức Trước"), được gọi chung là Tiền Lục Thức ("Sáu Thức Trước"). Tiền Lục Thức được xếp vào cùng một nhóm Năng Biến , nhóm Năng Biến thứ ba, với tên gọi là "Liễu Biệt Cảnh Thức". Hai Năng Biến kia là A Lại Da thức (Đệ Bát thức, Năng Biến thứ nhất) và Mạt Na thức (Đệ Thất thức, Năng Biến thứ nhì). Trong khi công năng chính yếu của A Lại Da thức là tàng chứa tất cả chủng tử có từ bao đời kiếp, công năng của Mạt Na thức là tư lương chấp ngã, thì công năng của Liễu Biệt Cảnh thức là phân biệt, phân định, so đo, tính toán, suy lường rõ ràng về trần cảnh. Do vậy, Ý thức nói riêng và Liễu Biệt Cảnh thức nói chung (Tiền Lục Thức) có 3 đặc điểm sau:
(1) Đó là Tâm Phan Duyên, tâm có khuynh hướng và có khả năng bám chấp một cách tích cực mạnh mẽ, khắn khít vào trần cảnh bên ngoài (6 trần cảnh: sắc, thanh, hương, vị, xúc pháp). Thật ra, cả 3 thức Năng Biến (8 thức Tâm Vương) đều có khả năng bám chấp này nhưng mức độ thể hiện và hiệu dụng khác nhau: thức A Lại Da chỉ có 5 Biến Hành tâm sở (Xúc, Tác Ý, Thọ, Tưởng, Tư) nên mức độ phan duyên chỉ là sơ khởi, không có tác dụng gây tạo chủng tử, nghiệp quả; thức Mạt Na với 18 tâm sở (5 Biến Hành, thêm 1 Biệt Cảnh Dục, thêm 8 Đại Tùy Phiền Não: Trạo Cử, Hôn Trầm, Bất Tín, Giải Đãi, Phóng Dật, Thất Niệm, Tán Loạn, Bất Chánh Tri, thêm 4 Căn Bản Phiền Não: Tham, Si, Mạn, Ác Kiến) nên có mức độ phan duyên mạnh hơn so với A Lại Da, nhưng cũng chưa đủ sức để gây tạo ra chủng tử nghiệp quả; chỉ có Ý thức với đầy đủ 51 tâm sở (gia cố vững chắc thêm cho sự bám chấp) nên có sức phan duyên mạnh mẽ, dữ dội nhất để gây tạo ra vô lượng chủng tử nghiệp quả. Ở phẩm “Văn Thù Thăm Bệnh” (phẩm 5), kinh Duy Ma Cật cũng xác quyết tâm phan duyên chính là gốc bệnh của tất cả chúng sanh: "Sao gọi là gốc bệnh? Ấy là phan duyên. Do theo việc có phan duyên, ắt nảy ra gốc bệnh. Phan duyên với những cảnh nào? Ấy là ba cõi: Dục giới, Sắc giới,Vô sắc giới...”
(2) Đó là tâm "Có Chỗ Trụ"("Hữu Sở Trụ") để làm chỗ nương tựa phát sinh ra Tâm Phan Duyên. Điều này cho thấy có sự khác biệt cơ bản rất thú vị giữa A Lại Da thức (Căn Bản thức) và 7 Chuyển Thức (7 thức còn lại của Bát Thức Tâm Vương, bao gồm Mạt Na thức, Ý thức, và Tiền Ngũ Thức): chỉ có A Lại Da thức, vô phú vô ký tánh lồng lộng mênh mang, là tâm Vô Sở Trụ nên không không có đủ lực để phan duyên ; còn lại tất cả 7 chuyển thức kia đều là các tâm thức "Có Chỗ Trụ"("Hữu Sở Trụ") nên đều khiến có ra phan duyên.
(3) Đó là tâm làm căn nguồn cơ bản cho việc hình thành vọng tưởng trong đời sống hiện tại. Vọng tưởng là kết quả thể hiện rõ rệt nhất của tâm phan duyên nơi Đệ Tam Năng Biến (Liễu Biệt Cảnh Thức) trong đời sống thường nhật của tất cả chúng sanh, nhất là nơi các phàm phu. Từ vọng tưởng, chúng sanh lại cứ tiếp tục gây tội và tạo phước, đón nhận và sử dụng các chủng tử cũ từ vô lượng kiếp sống trong quá khứ (xuất ra từ A Lại Da thức) cùng hình thành, sinh khởi thêm các chủng tử mới cho các kiếp sống trong thời vị lai (đưa vào A Lại Da thức) mà duy trì vòng sinh tử luân hồi liên miên, bất tận.
Các điều trên được nêu rõ qua bài tụng về Tiền Lục Thức (bài thứ 8 trong 30 bài của Duy Thức Tam Thập Tụng):
" Thứ đệ tam năng biến
Sai biệt hữu lục chủng
Liễu cảnh vi tánh tướng
Thiện, bất thiện, câu phi"
(Tạm dịch: "Thức năng biến thứ ba
Có sáu thứ khác biệt
Rõ cảnh làm tánh tướng
Thiện, ác, cùng vô ký")
6/ Thần chú là những câu Chân Ngôn có công năng diệu dụng bất khả tư nghì như đem đến sự an tĩnh, thành tựu đại định nơi tâm thức cùng tiêu trừ, hóa giải ảnh hưởng độc hại từ các tâm phan duyên, từ các ác chú, ác duyên bên ngoài. Ngoài các bài chú có nhiều câu như chú Thủ Lăng Nghiêm, chú Đại Bi…, cũng có các bài chú chỉ có môt câu như các chân ngôn Tịnh Pháp Giới, chân ngôn Tịnh Khẩu Nghiệp, chân ngôn Tịnh Thân Nghiệp, chân ngôn Tịnh Tam Nghiệp, chân ngôn An Tâm, chân ngôn Phổ Cúng Dường… Trong đoạn kinh văn trên, đức Phật đã thị hiện phóng quang (vô úy quang) trong đó xuất hiện hoa sen báu ngàn cánh (bửu liên hoa) cùng vị hóa Phật ngồi kiết già, tuyên nói thần chú. Thần chú mật âm này được Phật bảo ngài Bồ Tát Văn Thù đem đến cứu hộ ngài A Nan cùng nàng Ma Đăng Già, đưa về chỗ Phật. Đây là chỗ "cắt đứt con đường ngôn ngữ, dứt bặt chỗ tâm tư lự (ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ tuyệt) của kinh. Theo cảm nhận về Duy Thức Học, các câu chú có được công năng diệu dụng là do âm thanh, ngữ ngôn của chúng đã không còn thuộc về phạm trù phân biệt, hiểu biết của Ý thức , tức là đã vượt qua Ý thức mà thể nhập, thâm nhập vào đến tận Như Lai Tàng bản thể. Do vậy, các câu Chơn Ngôn thanh tịnh, mật nhiệm này không thể dung hợp, chứa mang các ý nghĩa thông thường của các loại ngôn ngữ thường ngày (như các ngôn ngữ giao tiếp, ngôn ngữ bác học, khoa học và của cả ngôn ngữ Đạo học) để có thể phân biệt, hiểu biết qua Ý thức, mà chỉ có thể thành tâm nương vào để phát triển chánh tín, kiện toàn tâm thức.
7/ Phương pháp tu thiền trong đạo Phật có 2 pháp môn căn bản là "Chỉ” (Sammatha) và "Quán" (Vipassana).
(1) "Chỉ" có nghĩa là đình chỉ, là dừng lại, thôi dứt: đó là dừng lại, thôi dứt tất cả mọi vọng tưởng, không cho vọng tưởng dấy khởi. Do công phu tu tập thiền Chỉ, tâm hành giả dần được an trụ vào đối tượng Chánh pháp mà có ra các kết quả tốt đẹp như thành tựu tịnh chỉ, tịch tĩnh, và nhất tâm; tạo ra các công đức để làm cơ sở căn bản đi vào Định (Samadhi)”.
(2) "Quán" có nghĩa là quán sát , chiếu soi, xem xét các đối tượng nơi tự tâm, làm cơ sở căn bản để phát Huệ (Prajna). "Quán" luôn cần có đối tượng nên Quán luôn có hai bên là bên Năng Quán (chủ thể năng quán, chủ thể này được công phu tu "Chỉ" thanh lọc và gia cố sức mạnh) và bên Sở Quán (đối tượng sở quán). Có rất nhiều đối tượng sở quán, các đối tượng thường được nhắc đến nhiều nhất là quán về 4 Niệm Xứ (Thân, Thọ, Tâm, Pháp)...
(3) Ngoài Chỉ và Quán, Thiền (Dhyana) có thể được cảm nhận là sự vượt thoát lên cả hai công phu Chỉ và Quán này. Nếu "Chỉ" là yên lặng cùng tột, "Quán" là phân biệt, rõ biết mọi sự vật như huyễn, thì “Thiền" được xem là tâm không trụ chấp vào cả hai bên (Chỉ và Quán). Do đó, “Thiền” là một từ ngữ rất khó định nghĩa chuẩn xác vì phạm vi nội dung của Thiền quá bao quát khắp cả một cách sống, một lối sống, một hướng sống, một đời sống... Như từ ngữ "Thiền" đã có hiện hữu trong nhiều danh xưng quen thuộc hàng ngày như thiền tọa, thiền hành, thiền trà, thiền cắm hoa...
Tiếp nối toát yếu đoạn kinh văn trên:
"Đức Phật hỏi ngài A Nan lý do khiến ngài phát tâm xuất gia theo Phật. Ngài thưa là do được thấy 32 tướng vàng kim sáng rỡ, trong sạch, tốt đẹp vi diệu của đức Phật mà khát ngưỡng xuất gia theo Phật. Đức Phật liền khai thị về nguyên nhân của luân hồi sinh tử nơi tất cả chúng sinh từ vô thỉ là do chỉ sống theo vọng tưởng mà quên mất Chơn Tâm. Nên nay đức Phật muốn ngài A Nan dung Trực Tâm để trả lời các câu hỏi từ đức Phật. Do đây, liền tiếp theo có 8 lần hỏi đáp giữa đức Phật và ngài A Nan, trong đó có 7 lần hỏi đáp trực tiếp về Tâm ("Bảychỗ tìm tâm”) như sau:
Hỏi 1: “ Lúc thấy 32 tướng của Như Lai mà phát tâm xuất gia, thì ông dùng cái gì để thấy, và dùng cái gì để ưa thích?”
Đáp 1: “Con dùng tâm và mắt để thấy tướng thù thắng của Như Lai, sanh lòng ham thích nên phát tâm, nguyện xả bỏ sanh tử.”
Hỏi 2: “Ông nói là do tâm và do mắt để thấy. Vậy cần nên biết chỗ của chúng. Mắt và tâm của ông hiện ở chỗ nào?”
Đáp 2: “Con mắt con ở trên mặt, tâm con ở trong thân.”
Hỏi 3: “Nếu tâm ở trong thân thì phải rõ biết về mọi vật thể (lục phủ, ngũ tạng,..), mọi sự việc (tóc,móng tay mọc dài ra, gân cốt động chuyển,...) trong thân mà tại sao tâm ông lại không biết bên trong thân, chỉ biết bên ngoài thân?”
Đáp 3: “Như thế, tâm con ắt là ở ngoài thân.”
Hỏi 4: “Nếu tâm ở ngoài thân, thì thân và tâm cách lìa, thân và tâm không thể cùng biết vì chúng không có liên can gì với nhau. Nghĩa là cái gì tâm biết thì thân không thể biết, và ngược lại, cái gì thân biết thì tâm không thể biết sao?”
Đáp 4: “Do tâm con không ở trong thân, cũng không ở ngoài thân. Vậy tâm con ở giữa thân, tức là nó núp sau con mắt.”
Hỏi 5: “Nếu tâm núp sau con mắt thì khi tâm trông thấy cảnh bên ngoài, tại sao lại chẳng thấy được con mắt? Còn giả sử, tâm thấy được con mắt thì con mắt đã đồng như ngoại cảnh rồi; khi đó mắt thấy nhưng tâm sẽ không biết sao?”
Đáp 5: “Cái thân của chúng sinh đây, phủ tạng ở bên trong, khiếu huyệt ở bên ngoài, có tạng thì tối, có khiếu thì sáng. Vậy,mở mắt thấy sáng gọi là thấy bên ngoài, nhắm mắt thấy tối gọi là thấy bên trong.”
Hỏi 6: “Khi thấy ra ngoài mà nhắm mắt thấy tối, cái cảnh giới tối ấy là đối với con mắt, hay không đối với con mắt? Nếu đối với con mắt thì cảnh giới tối ấy ở trước con mắt, vậy tại sao lại nói là ở trong thân? Và nếu cảnh giới tối ấy quả thật ở trong thân, thì mọi vật trong nhà tối, chẳng lẽ đều là phủ tạng của ông? Vả lại, nếu cảnh giới tối không đối trước con mắt thì không thể được gọi là thấy! Còn nếu có thể thấy ngược vào trong, khi nhắm mắt thấy tối ông gọi là thấy bên trong thân, thế tại sao khi mở mắt thấy sáng lại không thấy được mặt mình? Khi đó, chẳng lẽ cái tâm rõ biết và con mắt đều ở nơi hư không? Khi đó, tâm và mắt còn là thân thể của ông sao? Khi đó, tâm và mắt còn có thể cùng biết sao? ”
Đáp 6: “Theo lời Phật khai thị chúng rằng: "Tâm sanh nên các pháp sanh, pháp sanh nên các tâm sanh": Nay con suy nghĩ, chính cái suy nghĩ ấy là tâm của con; tùy sự suy nghĩ ở đâu, tâm liền có ở đó, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở chính giữa.”
Hỏi 7: “Nếu nói là "nơi pháp sanh nên các tâm sanh, hễ suy nghĩ hòa hợp ở chỗ nào thì tâm liền có ở chỗ đó"; vậy, tâm này có tự thể hay không có tự thể? Nếu tâm không có tự thể thì tâm chẳng thể suy nghĩ. Còn nếu tâm có tự thể thì khi dùng tay tự búng thân mình, cái tâm biết bị búng của ông là từ bên trong thân ra hay từ bên ngoài thân vào? Nếu từ bên trong thân ra thì phải thấy trong thân; nếu từ bên ngoài thân vào thì trước tiên phải thấy mặt của ông...Vả lại, cái tâm hay biết của ông nếu thật có tự thể, thì đó là một thể hay nhiều thể? là cùng khắp thân ông hay chẳng cùng khắp? Nếu tâm chỉ có một thể, thì khi búng vào tay (khiến tay đau) thì cả tứ chi, tất cả chỗ nơi thân thể ông đều phải thấy đau, nay sao lại chỉ thấy một chỗ đau ở nơi tay? Còn nếu tâm có nhiều thể thì thành ra có nhiều người, vậy thể nào là của ông? Mặt khác, nếu cái tâm thể ở cùng khắp cả thân thì giống như luận thuyết “một thể” vừa nói; còn nếu nói tâm thể không cùng khắp, thì khi ông đụng cả ở hai nơi đầu và chân thì lẽ ra hễ đầu biết đau thì chân không thể biết đau sao?”.
Đáp 7: “Theo lời Phật với Bồ Tát Văn Thù và các Pháp Vương Tử luận về thật tướng, con cũng nghe Phật nói “tâm chẳng ở trong cũng chẳng ở ngoài”.Do vì chẳng biết trong nên tâm con chẳng phải ở trong, thân tâm cùng biết một lượt nên tâm con chẳng phải ở ngoài, nay cùng biết một lượt mà chẳng thấy bên trong, tất tâm con phải ở giữa”.
Hỏi 8: “Nếu nói là tâm ở khoảng giữa, tâm là Thức hòa hợp của Căn và Cảnh, thì tâm thức ấy có bao gồm hay không có bao gồm hai bên Căn và Cảnh? Nếu tâm ấy bao gồm cả hai bên thì Căn (có tánh tri giác, phân biệt) và Cảnh (vô tri, không có tánh tri giác, phân biệt) xen lộn, đâu thể có khoảng giữa? Còn nếu tâm không bao gồm cả hai bên thì cái thấy biết của Tâm sẽ không giống với cái thấy biết của Căn, cũng không giống với cái không thấy biết của Cảnh, tức là Tâm ông không có thể tánh sao?”.
Đáp 8: “Theo lời Phật với bốn đại đệ tử (Mục Kiền Liên,Tu Bồ Đề, Phú Lâu Na và Xá Lợi Phất) cùng chuyển pháp luân, thường nói "cái tâm giác tri chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, cũng chẳng ở giữa, chẳng ở chỗ nào cả, tất cả vô trước gọi là tâm”. Vậy con vô trước, được gọi là tâm chăng?
Đức Phật liền khai thị là nếu cái tâm hiểu biết phân biệt không có ở chỗ nào cả, vậy những hiện tượng trong thế gian và các loài sinh vật (trên mặt đất, dưới nước, trong không trung) mà tâm ngài A Nan thấy biết là có hay là không có? Nếu chúng không có thì đâu cần nói là tâm không dính bám? Còn nếu có mà tâm không dính bám vào, thì đây chưa thể nói là Không. Vì không có tướng, mới gọi là Không; nếu chẳng phải Không, tức là có tướng. Có tướng thì nhất định phải có chỗ nơi, đâu có thể nói là không dính bám được! Cho nên biết rằng, cái không dính bám vào đâu cả, gọi đó là tâm hiểu biết, cũng là điều không hợp lý.”
Qua đoạn toát yếu trên, ta có thể rút ra vài điểm mấu chốt và nhận định như sau:
1/ Trong sinh hoạt đời thường, sự sống con người được thể hiện qua các họat động, sự việc về thấy - nghe- hay- biết (Kiến Văn Giác Tri). Đây chính là nói gọn về sự biểu hiện của các tác năng nơi Tiền Lục Thức (Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý): ở mắt gọi là thấy, ở tai gọi là nghe, ở mũi gọi là ngửi, ở lưỡi gọi là nếm, ở thân gọi là hay biết (cảm thấy), ở Ý gọi là hiểu biết. Do Tiền Ngũ Thức (Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân) đều tập trung về Ý thức, kết hợp với Ý thức để khởi ra phân biệt, nên các tác năng nơi Tiền Ngũ Thức đều có thêm chữ "biết": như do nơi mắt gọi là thấy, khi mắt kết hợp với Ý thức gọi là "thấy biết"; nơi tai gọi là nghe, khi tai kết hợp với Ý thức gọi là "nghe biết"; nơi mũi gọi là ngửi,khi mũi kết hợp với Ý thức gọi là "ngửi biết"...Đức Phật đã khéo léo, đại từ bi, đại trí tuệ, đại phương tiện theo thứ lớp chỉ bày về 3 pháp môn (Chỉ, Quán, Thiền) qua câu hỏi nhắm ngay về các tác năng thông thường nhất nơi Tiền Lục Thức này: "Lúc thấy 32 tướng của Như Lai mà phát tâm xuất gia, thì ông dùng cái gì để thấy, và dùng cái gì để ưa thích?" (Hỏi 1). Đây cũng chính là căn nguồn khiến có ra "Bảy Chỗ Tìm Tâm" mà qua đó, ngài A Nan đã “thẳng tắp“ trả lời các câu hỏi khéo léo, đại phương tiện, đại thiện xảo, từ nơi đức Phật.
2/ “Tâm” là một trong những từ ngữ thường được biết, được nhắc đến nhiều nhất trong đời sống hằng ngày (tâm, tâm lý , tâm linh, tâm thần, tâm niệm, tâm não, tâm tánh, tâm trạng, tâm sự, tâm tình…) cũng như cũng rất phổ thông, phổ dụng trong đạo Phật. Lý do vì đạo Phật là đạo tu Tâm, với những điều thường đươc nghe như "vạn pháp duy tâm", "nhất thiết pháp duy tâm tạo"... Tuy vậy, Tâm lại là một trong những từ ngữ khó có thể định nghĩa một cách chính xác, chắc nịch. Như các câu hỏi căn bản “Tâm là gì? Tâm ở đâu? Tu tâm là tu như thế nào… cũng là các điều cần được nắm vững mà lại không dễ dàng có thể hiểu biết thông suốt, rõ ràng được. Lý do là Tâm có nhiều tầng lớp hoạt động, nhiều thứ lớp hiểu biết, nhiều trình độ thể nhập, nhiều giai vị xả ly... tùy theo căn cơ, môi trường, hoàn cảnh, sự gắng sức...của mỗi người, mỗi hành giả. Thông thường, ở giai vị phàm phu, Tâm chính là Ý thức (Đệ Lục thức) hoặc nói rộng hơn, Tâm là Tiền Lục thức (Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức, Ý thức) vì đời sống phàm phu chỉ quanh quẩn trong 6 giác quan này mà không thể thâm nhập và vượt qua Mạt Na thức cùng A Lại Da thức như các bậc Hiền Thánh.
3/ “Trực Tâm” được xem là một trong các Tâm căn bản trong tu tập Phật Đạo. Đó là tâm ngay thẳng, tâm không cong vạy, tâm thẳng hướng về Giải Thoát, về bản thể Chơn Như. Trực Tâm được xem là đã bắt đầu, không còn thuộc về Tâm Thế Gian (tâm chấp cảnh, tâm thuộc về Ý thức phân biệt, luôn có khen chê, thô phù điên đảo...) mà thuận hợp với Tâm Xuất Thế Gian (xa lìa chấp cảnh, xoay hướng về cảnh giới vi tế thẳm sâu Như Lai Tàng thanh tịnh). Theo kinh Duy Ma Cật, từ Trực Tâm sẽ đạt đến các tâm thanh tịnh khác như :Thâm Tâm, Bồ Đề Tâm, Hồi Hướng Tâm… Các tâm này sẽ khiến Ý thức bớt đi và không còn có những chấp mắc từ phân biệt hướng ngoại mà có được sự chú tâm, định tâm hướng nội. Do đây, Ý thức thay vì "liễu cảnh", rõ biết về cảnh trần bên ngoài, sẽ bắt đầu dần dà phân biệt, hiểu biết về các hiện tượng vi tế, thâm mật hơn ở Mạt Na thức và A Lại Da thức bên trong.
4/ Với câu hỏi 1, ngài A Nan đã dùng Trực Tâm, trả lời ngay thẳng với sự thật khách quan và hiển nhiên, thông thường, dễ dàng nhận biết về công năng của tâm và mắt là “Dùng tâm và mắt để thấy tướng thù thắng của Như Lai, sanh lòng ham thích nên phát tâm, nguyện xả bỏ sanh tử ” (Đáp 1). Đây là chỗ của Nhãn Căn, Nhãn thức và Ý thức, chỗ phát khởi ra các động lực lôi kéo vào trần lao, lưu chuyển cùng sanh tử; chỗ còn hệ thuộc vào các hình tướng hữu vi và vào các tâm thức hữu lậu. Câu trả lời này của ngài A Nan lại tỏ ra rất thuận hợp xít xao theo thường tình thế gian “theo Trần, bỏ Giác” (hiệp Trần, bối Giác). Mặt khác, câu trả lời này cũng có liên hệ và tương ưng mật thiết với Duy Thức Học: Qua lăng kính Duy Thức Học, cái Thấy được minh định không chỉ xuất sinh từ một duyên Mắt (Nhãn Căn) mà từ 9 Duyên, bao gồm: 1.Mắt (Nhãn Căn), 2.Vật thể (Cảnh Trần, bao gồm tất cả cảnh, người, và vật), 3. Ánh sáng (Minh), 4. Hư Không (nền của vật cảnh và của ánh sáng), 5.Chủng tử (hạt giống tâm thức, được tích chứa, tàng trử trong A Lại Da thức để làm nguồn năng lực định hướng cho toàn diện sự sống), 6. Tác Ý (động thái kích hoạt công năng hoạt động của chủng tử vào nơi đối tượng, Tác Ý có mặt trong tất cả 8 Thức Tâm Vương), 7. Ý thức (Phân Biệt Y, Thức Thứ Sáu, có công năng dong ruổi, phân biệt, rõ biết theo trần cảnh bên ngoài), 8. Mạt Na thức (Nhiễm Tịnh Y, Thức Thứ Bảy, có công năng tư lương chấp ngã), và 9. A Lại Da thức (Căn Bản Y, Thức Thứ Tám, cũng gọi là Tàng thức, có công năng nhiếp trì thân tâm). Do vậy, tướng Thấy có các thành phần bao trùm khắp mọi nơi, như nơi nhục thân (nhãn căn), nơi khí thế gian và cảnh trần (vật thể, hư không, ánh sáng, con người, động vật và thực vật), và cả ở nơi Thức (5 thức duyên còn lại: Chủng tử, Tác Ý, Ý thức, Mạt Na thức, và A Lại Da thức). Nói cách khác, cái Thấy bao trùm cả Ba Hòa Hợp là Căn, Cảnh và Thức. Các thành phần này khiến có ra cái Thấy mà tiến trình hình thành cái Thấy có thể phân biệt ra 3 giai đoạn, tạm tóm lược như sau: giai đoạn 1 là mắt (nhãn căn) tiếp nhận, thu nhận bóng hình trần cảnh (vật thể, hư không, ánh sáng) với nguồn năng lực có sẳn từ thức A Lại Da (tác ý, chủng tử để thấy), thí dụ: “thấy một nhánh hoa”; giai đoạn 2 là bóng hình trần cảnh được đưa vào đến Ý thức để khởi ra phân biệt, rõ biết chi tiết về trần cảnh qua các tính chất như hình dạng, màu sắc, tên gọi, công dụng...của trần cảnh, thí dụ: “À! đây là nhánh hoa mai vàng 8 cánh rất đẹp”; giai đoạn 3 là từ sự phân biệt, rõ biết này mà tiếp tục sanh ra các tâm sở yêu-ghét, thích-sợ, .. nơi Ý thức , thí dụ:” Thích quá, phải cắt nhánh hoa mai này đem về nhà”. Hai giai đoạn sau được thể hiện cùng với 5 duyên sau cùng, 5 thức duyên (Chủng tử, Tác Ý, Ý thức, Mạt Na thức, và A Lại Da thức).
5/ Theo đoạn kinh văn trên, ngài A Nan thưa với đức Phật là do Ngài thấy 32 tướng thù thắng của Như Lai mà sanh lòng ham thích, xuất gia theo đức Phật. Vậy cái Thấy của Ngài ở đây đã lậm thấu đến giai đoạn 3, giai đoạn phát sinh tâm sở ham thích. Duy Thức Học phân định, chỉ bày rõ tâm sở ham thích chính là Tham Ái, là một trong sáu Căn Bản Phiền Não (Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Ác Kiến). Mong dựa vào phiền não (tham ái) để tu tâp, thoát ly ra khỏi phiền não (giải thoát, giác ngộ) là điều không có thể hiện thực được. Do vậy trong Tín Tâm Minh, Tam Tổ Tăng Xán đã chí thiết dặn dò:
"Chí đạo vô nan,
Duy hiềm giản trạch.
Ðản mạc tắng ái,
Ðổng nhiên minh bạch"
Tạm dịch:
"Tột đạo không khó
Cốt đừng lựa chọn
Chỉ đừng ghét thương
Tự nhiên sáng rõ"
Phước nghiệp- duyên sự, động lực nguyên ủy xuất gia của mỗi người mỗi khác. Ở đây, động lực xuất gia của ngài A Nan là dựa vào tâm sở ham thích. Động lực này không giống như của đức Phật là dựa vào lòng khát khao tìm cầu chân lý, giải thoát ra khỏi các buộc ràng, chi phối nơi thế gian ắp đầy khổ đau và đại nguyện phổ độ chúng sanh thể hiện qua 4 điều yêu cầu vua cha Tịnh Phạn:
1. Làm sao cho con trẻ mãi không già?
2. Làm sao cho con khoẻ mãi không bệnh?
3. Làm sao cho con sống mãi không chết?
4. Làm sao cho mọi người, tất cả chúng sinh không còn khổ đau?
6/ Từ câu trả lời của ngài A Nan có liên hệ, dính líu chặt chẽ đến Mắt và Tâm, đức Phật liền nhân đó mà đặt ra thêm các câu hỏi về hai Căn này, mà câu hỏi thiết thực gần gũi nhất là hỏi về chỗ ở, vị trí của chúng: “Mắt và tâm của ông hiện ở chỗ nào?” (Hỏi 2).
Bảy chỗ của Tâm được ngài A Nan trả lời, xác định từ Trực Tâm của Ngài nhưng dĩ nhiên câu đáp của Ngài tùy thuộc rất nhiều vào tâm lượng phân biệt, hiểu biết, ghi nhớ của Ngài ngay lúc đó. Bảy chỗ lần lượt được ghi nhận tóm lược như sau:
Chỗ 1: ”Tâm ở trong thân" : Đây là cái thấy có đủ Căn-Cảnh-Thức với sự tương hệ, gắn liền với nhục thân (ở trong thân); là cái thấy có đủ 9 duyên ( 1.Mắt , 2.Vật thể, 3. Ánh sáng, 4. Hư Không, 5.Chủng tử, 6. Tác Ý (bao gồm tất cả các Tác Ý của A Lại Da thức, Mạt Na thức, Ý thức và Nhãn thức, đại diện cho Tiền Lục Thức), 7. Ý thức, 8. Mạt Na thức và 9. A Lại Da thức). Đây cũng là cái Thấy thường tình nhất, "thấy đâu biết đó", nơi thế tục. Đức Phật đã nhân nơi đó,nêu lên lý đơn giản nhưng trái ngược để phá chấp vào lý lẽ thường tình này : "Nếu tâm không thể thấy biết ở trong thân, thì tâm không thể ở trong thân". Ở đây, kinh chỉ rõ chỗ thấy của ngài Anan còn là tri kiến phân biệt, hiểu biết nơi thân tâm thường tình thuộc về thức tình nên đức Phật thị hiện nhổ bỏ chỗ thức tình này.
Chỗ 2: “Tâm ở ngoài thân”: Đây còn là cái thấy có đủ Căn-Cảnh-Thức với sự tương hệ, gắn liền với nhục thân (ở ngoài thân); cái thấy có đủ 9 duyên như ở chỗ 1. Nhưng cái thấy đã bắt đầu không còn thường tình khi cho rằng Tâm ở ngoài Thân, một ý tưởng kỳ đặc không thể được chấp nhận trong đời sống thông thường. Đây cũng là bắt đầu có sự tương ưng, hội nhập với chỗ phạm vi hiểu biết, tri giác đã vượt thoát qua thân thể thịt xương mà hòa quyện vào chỗ liễu nghĩa của Tâm Chơn Như, cái tâm trùm khắp mênh mang khắp đất trời, vũ trụ trong vô lượng đời sống. Thế nên ngài A Nan mới nói “Tỉnh ngộ biết cái tâm con thật ở ngoài thân”, lại nói thêm “Nghĩa ấy rõ ràng, chắc là không lầm”. Nhưng do ngài chấp thủ vào kiến giải “Tâm ở ngoài thân” này, chấp Tâm chỉ có ở ngoài Thân, vậy chẳng lẽ Tâm không có trong Thân sao? Lại nữa, nếu Tâm ở ngoài Thân, thì Thân với Tâm không thể cùng biết Tâm sao? nên đức Phật cũng đã thị hiện dứt trừ chỗ chấp mắc này.
Chỗ 3: “Tâm ở giữa thân” (tâm núp sau con mắt): Đây cũng còn là cái thấy có đủ Căn-Cảnh-Thức với sự tương quan xít xao với nhục thân (ở giữa thân); cái thấy có đủ 9 duyên như ở chỗ 2 và chỗ 3. Cái Thấy ở chỗ này quá đỗi dị thường vì khó có ai có thể nghĩ đến. Tuy nhiên, đây cũng là chỗ tương hợp với chỗ diệu dụng, trùm khắp mọi nơi, kể cả những chỗ không thể nghĩ đến, không thể ngờ đến của tâm Chơn Như. Nhưng do thấy ngài A Nan chấp thủ vào kiến giải này, đức Phật bèn nhẹ nhàng nhổ đinh, tháo chốt giúp Ngài: "Nếu tâm núp sau con mắt, vậy tại sao tâm không thấy được con mắt?”
Ba chỗ 1, 2, và 3 đều có liên hệ đến quan niệm "thân ở đâu thì tâm ở đó", và "thân tâm cùng biết", thân tâm kết hợp khắn khít, không thể phân ly. Quan niệm này rất gần gũi với đời sống hằng ngày, nên rất dễ được đồng tình và dễ được chấp nhận nơi tất cả mọi người. Tuy nhiên, dưới con mắt nhà Thiền, quan niệm này có 3 vướng mắc: 1. Chấp tâm (với Tâm còn là Ý thức, chưa là A Lại Da thức, chưa là Chơn Tâm) và chấp thân (thân 5 uẩn) đều là thật có, 2. Chấp có sự tương hệ giữa tâm và thân (tâm ở trong-ở ngoài- ở giữa thân, và 3. Chấp có và chấp không. Do vậy, 3 chỗ vướng mắc này chỉ là các vọng tưởng, chấp trước không hợp lý Đạo nên Ngài A Nan đã được đức Phật từ bi chỉ bày, khai thị mà dẹp phá .
Chỗ 4: “Mở mắt thấy sáng gọi là thấy bên ngoài, nhắm mắt thấy tối gọi là thấy bên trong”: Đây là cái Thấy không có vật thể, cái Thấy chỉ còn có 8 duyên là 1.Mắt, 2. Ánh sáng, 3. Hư Không, 4. Chủng tử, 5. Tác Ý (cũng bao gồm tất cả các Tác Ý của các Thức như ở các chỗ nêu trên), 6. Ý thức, 7. Mạt Na thức và 8. A Lại Da thức. Do vậy, có thể cảm nhận cái Thấy ở chỗ này đã được nhẹ nhàng, thênh thang, phóng khoáng vì không còn bị trói buộc, đóng khung theo vật thể nữa. Đây cũng là giai đoạn khởi đầu cho cái Thấy “cởi ngược trâu vào Phật điện” (“Đảo kỵ ngưu nhập Phật điện”), theo cách nói trong nhà Thiền. Nói là "cởi ngược trâu" vì Ý thức nay quay ngược vào nội tâm (Mạt Na thức, A Lại Da thức, Như Lai Tàng tâm) không còn hướng ngoại, phân biệt, xét đoán theo cảnh trần để gây tạo nghiệp quả nữa. Vật thể cảnh trần càng cụ thể, càng dễ nhận bắt, càng dễ tạo ra các cảm thọ thích khoái cho các giác quan nơi thân tâm ngũ uẩn thì lại càng khiến Ý thức mắc vướng sâu nặng vào các phiền não nghiêm trọng. Duy Thức Học nêu rõ về sự nghiêm trọng nơi các phiền não là tùy vào phạm vi đối tượng mà Ý thức tác ý là rộng hay hẹp, là bao quát, mênh mang, vô hình tướng hay là cụ thể, hữu hình tướng. Đối tượng càng hẹp, càng cụ thể, càng có hình tướng để thương hoặc ghét thì Ý thức tác ý, gây tạo nghiệp quả càng mạnh mẽ, dữ dội qua 10 tâm sở Tiểu Tùy Phiền Não (Phẫn, Hận, Phú, Não, Tật, Xan, Cuống, Xiểm, Hại, Kiêu). Đối tượng của 10 Tiểu Tùy Phiền Não được gọi là “vật thể”, một duyên trong chín duyên của cái Thấy. Ở chỗ Cái Thấy 8 Duyên này, Tâm đã trở nên thanh tịnh hơn vì không còn có Tiểu Tùy Phiền Não thô trọng nữa. Tuy vậy, tâm vẫn còn các phiền não vi tế hơn. Các phiền não vi tế hơn bao gồm và được gọi tên lần lượt là 2 Trung Tùy Phiền Não (Vô Tàm, Vô Quý) và 8 Đại Tùy Phiền Não (Trạo Cử, Hôn Trầm, Bất Tín, Giải Đãi, Phóng Dật, Tán Loạn, Thất Niệm, Bất Chánh Tri). Tuy nhiên, đây cũng chỉ là cái thấy từ Ý thức vọng tưởng, cái thấy còn có các tướng hai bên (nhị biên) như tối-sáng, trong-ngoài, nhắm- mở; còn là cái Thấy chưa viên mãn (thấy có ở bên này tức là thấy không có ở bên kia) nên đức Phật đã giúp phá trừ đi các kiến chấp này qua các câu hỏi và giải minh giúp Ngài vượt thoát qua chúng.
Chỗ 5: Tâm sanh nên các pháp sanh, pháp sanh nên các tâm sanh . Chính cái suy nghĩ ấy là tâm; tùy sự suy nghĩ ở đâu, tâm liền ở đó, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở chính giữa: Chỗ này không phải là do ngài A nan tự mình suy nghĩ, hiểu biết mà là do Ngài đã lắng nghe và ghi nhớ lời đức Phật khai thị chúng rằng: "Tâm sanh nên các pháp sanh, pháp sanh nên các tâm sanh". Đây cũng là cái Thấy không có vật thể (như chỗ 4 bên trên), nhưng lại thêm là không có cả con mắt (nhãn căn), hư không, và ánh sáng. Như thế, cái Thấy nay chỉ còn có 5 duyên, và toàn là 5 thức duyên: 1. Chủng tử, 2. Tác Ý (chỉ bao gồm các Tác Ý của các thức A Lại Da, Mạt Na, và Ý thức; không còn có Tác Ý nơi Nhãn thức), 3. Ý thức, 4. Mạt Na thức và 5. A Lại Da thức. Đây là cái Thấy tinh thuần của Tâm Thức, cái thấy hòa hợp giữa Năng Kiến (Ý thức) và Sở Kiến (Pháp trần). Cái Thấy tinh thuần Tâm Thức này vi tế, thâm sâu, có công năng bắt đầu gần gũi với cái Thấy của Thiên Nhãn nên ít khi được thế gian (chỉ chuyên về cái Thấy của Nhục Nhãn) thông hiểu và chấp nhận. Ngay cả ngài A Nan ở vào thời điểm này vẫn chưa có thể tự mình thực thấy ra chỗ này nên Ngài phải dựa vào lời đức Phật để nêu ra. Tuy nhiên, nơi đây ngài A Nan còn bám chấp vào Ý thức, tâm thức suy nghĩ, suy tưởng, tư duy phân biệt.. cho rằng phải có hai bên Năng- Sở hòa hợp thì Tâm mới có còn nếu như không có hai bên Năng Sở hòa hợp thì Tâm không có, nên đức Phật đã bày ra các câu hỏi về tự thể của Ý thức là có hay không, Ý thức là một thể hay là nhiều thể.. để phá trừ các chấp mắc này giúp Ngài.
Chỗ 6: Tâm chẳng ở trong cũng chẳng ở ngoài, Tâm và thân cùng biết, mà lại không biết ở bên trong, như thế thì tâm phải ở khoảng giữa: Đây cũng là chỗ không phải là do ngài A nan tự mình suy nghĩ, hiểu biết mà là do Ngài đã lắng nghe và nhớ lại lời đức Phật cùng Bồ Tát Văn Thù và các Pháp Vương Tử luận về nghĩa Thật Tướng,và nghe được đức Phật nói là "tâm chẳng ở trong cũng chẳng ở ngoài". Đây cũng là cái Thấy tinh thuần của Tâm Thức giống như ở chỗ 5 nhưng nay đã tách ly ra khỏi Ý thức mà hòa nhập vào Mạt Na thức. Như thế, cái Thấy nơi đây chỉ còn có 4 duyên là : 1. Chủng tử, 2. Tác Ý (chỉ còn có các Tác Ý của hai thức A Lại Da và Mạt Na; không còn có Tác Ý nơi Nhãn thức và Ý thức), 3. Mạt Na thức, và 4. A Lại Da thức. Do tách ly khỏi Ý thức nên cái Thấy nay không còn có sự phân biệt về các pháp trần nữa, nhưng do còn kẹt vướng vào Mạt Na thức nên cái Thấy vẫn còn có bám chấp vào hai bên Năng và Sở. Mạt Na thức chỉ duyên, chỉ trụ, chỉ xoay về, quay vào chiếu soi các chủng tử và hiện hành nơi A Lại Da thức. Mạt na thức sanh ra từ A lại da thức rồi lại lấy thức này làm đối tượng sở duyên. Các chủng tử và hiện hành của A lại da thức luôn bị Mạt na thức chấp làm cảnh sở duyên mà chiếu soi, tư lương chấp ngã. Các điều trên được nêu rõ qua bài tụng (bài thứ 5 trong 30 bài của Duy Thức Tam Thập Tụng):
"Thứ đệ nhị Năng Biến
Thị thức danh Mạt Na
Y bỉ chuyển duyên bỉ
Tư lương vi tánh tướng"
Tạm dịch:
"Thức Năng Biến thứ hai
Thức này tên Mạt Na
Dựa đó rồi duyên đó
Tư lương làm tánh tướng"
Để giúp ngài A Nan vượt thoát ra khỏi vướng chấp này, đức Phật đã khéo nêu lên các câu hỏi về sự dị biệt quan trọng nơi bản chất của 2 bên Năng (Căn,Thức, có tánh tri giác và phân biệt) và Sở (Cảnh, Trần không có tánh tri giác và phân biệt).
Chỗ 7: “Cái tâm không có bám víu vào chỗ nào cả. Vậy không bám víu, chấp mắc vào bất cứ đâu, đó gọi là tâm”: Đây cũng là chỗ không phải là do ngài A nan tự mình suy nghĩ, hiểu biết mà là do Ngài đã lắng nghe và nhớ lại lời đức Phật cùng với bốn vị đại đệ tử (Mục Kiền Liên,Tu Bồ Đề, Phú Lâu Na và Xá Lợi Phất) cùng chuyển pháp luân, thường nói "cái tâm giác tri chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, cũng chẳng ở giữa, chẳng ở chỗ nào cả, tất cả vô trước gọi là tâm”. Đây là cái Thấy tinh thuần nhất của Tâm Thức, cái Thấy đã vượt qua Ý thức và cả Mạt Na thức, cái Thấy đã đến và đã hội nhập vào A Lại Da thức. Cái Thấy ở chỗ này chỉ còn có 3 duyên là : 1. Chủng tử, 2. Tác Ý (chỉ thuần là Tác Ý của thức A Lại Da), và 3. A Lại Da thức. Do không còn có sự hiện diện của 7 Chuyển Thức (Mạt Na Thức cùng Tiền Lục Thức) nên tất cả dạng lọai Sở Phân Biệt (các tiền trần và pháp trần) và cả Năng Phân Biệt (Ý thức, Mạt Na thức) đều cũng không còn có bóng hình hiện diệntrong cái Thấy chỗ này nữa. Đây là cái Thấy không có chỗ trụ chấp, vướng mắc nên là cái Thấy rất mênh mang, lồng lộng, khoá ng đạt (do là "Vô phú, vô ký") nhưng lại chuyển biến như thác nước, rất linh động, mạnh mẽ không thể ước lường (do năng lực thấy biết từ muôn vàn chủng tử trong vô lượng kiếp sống). Đây cũng chính là cái Thấy đã có sự gần gũi với Chơn Tâm (Như Lai Tàng tâm) thanh tịnh. Các điều trên được nêu rõ qua bài tụng (bài thứ 4 trong 30 bài của Duy Thức Tam Thập Tụng):
“Thị vô phú vô ký
Xúc đẳng diệc như thị
Hằng chuyển như bộc lưu
A la hán vị xả”
Tạm dịch:
“Là không trụ chấp, không thiện ác
Năm Biến Hành cũng vậy
Luôn chuyển động như thác nước
Giai vị A La Hán mới xả bỏ”
Đến đây đức Phật đã khai thị thêm về ý nghĩa trụ trước, dính bám và chỗ Không Tướng cho ngài A Nan: "Những hiện tượng trong thế gian và các loài sinh vật (trên mặt đất, dưới nước, trong không trung) là có hay là không có. Nếu chúng không có thì đâu cần nói là tâm không dính bám? Còn nếu có mà tâm không dính bám vào, thì đây chưa thể nói là Không. Vì không có tướng, mới gọi là Không; nếu chẳng phải Không, tức là có tướng. Có tướng thì nhất định phải có chỗ nơi, đâu có thể nói là không dính bám được!". Đây là chỗ đức Phật đã phủi sạch các tướng, xóa trọn các chỗ, nên dù tạm nói là có chỗ (“Tại”) nhưng thật ra không có chỗ nhất định (“Bất Tại’). Đây cũng chính là đức Phật đã ngầm chỉ bày về Chân Tâm mầu nhiệm, Chân Tâm không có Tự Tánh, vô thể, vô tướng, vô tại - vô bất tại (không có ở đâu nhưng không đâu chẳng có; không là gì, nhưng không gì chẳng là), vô sanh, phi hòa, phi hợp; về cảnh giới Giải Thoát, nơi Nhất Như, nơi không còn có hai bên; nơi Năng Sở, Tâm-Cảnh không đến nhau.
"Bảy Chỗ Tìm Tâm" qua các phần nêu trên, là bảy chỗ thấy biết, nhớ biết do ngài A Nan nêu ra. Bảy chỗ này gồm có 4 chỗ (từ chỗ 1 đến chỗ 4) do Ngài A Nan tự mình suy nghĩ, hiểu biết và có thêm 3 chỗ (từ chỗ 5 đến chỗ 7) do Ngài đã lắng nghe, ghi nhớ lời đức Phật khai thị đại chúng, hoặc lời đức Phật nói với các vị Đại Bồ Tát, hoặc lời đức Phật luận bàn cùng các vị đại đệ tử. Qua lăng kính Duy Thức Học, bảy chỗ của Tâm ngài A Nan trình bày không phải được nêu ra một cách hồn nhiên, "biết đâu nói đó", không có thứ lớp mà thật sự chúng đã hiển bày một cách chí thành, chí thiết từ nơi Trực Tâm của ngài A Nan qui về một trình tự nghiêm chỉnh, mạch lạc theo 9 duyên của cái Thấy, của Căn- Cảnh- Thức, của Bát Thức Tâm Vương từ Nhãn thức đến Ý thức, qua Mạt Na thức và vào tận A Lại Da thức. Tuy nhiên 7 chỗ này chỉ đều là những vọng tưởng chấp trước từ thô đến tế nên tất cả cần được dứt trừ để mở lối cho con đường dẫn đến Chơn Tâm thanh tịnh. Tựu trung, ý nghĩa thẳm sâu, thú vị nơi đoạn kinh văn này cũng chính là tiền đề, mầm mống nền tảng đưa đến sự thành tựu đạo quả Kiến Đạo, giai vị Tu Đà Hoàn (Bồ Tát Sơ Địa, Địa 1 trong 10 giai vị Bồ Tát Đăng Địa) của ngài A Nan trong quyển 3 của kinh Thủ Lăng Nghiêm này vậy.
Khánh Hoàng
Plano _ March 21, 2023
Thơ: Khánh Hoàng
Nhạc: Khánh Hải
Ca sĩ: Quang Minh
Hòa âm: Thái Bảo Lộc
pps: Thường Minh
https://quangduc.com/a69796/nhac-pham-nang-mua-khong-ngai
Nắng Mưa Không Ngại
Dẫn:
Có hai điều
cần được nhắc nhớ cho chính mình
về nổi muộn phiền
Điều thứ nhất:
Nếu ta nhìn thấy được nổi muộn phiền
ta có thể nhặt nó lên
rồi buông nó xuống
Điều thứ hai:
Nổi muộn phiền không thường hằng
nó luôn biến đổi và sinh diệt
Nó có thể chuyển hóa
từ một kén sâu xấu xí
để trở thành cánh bướm xinh đẹp
bay vút lên trời hồng
Tất cả những nổi niềm buồn vui khác
trong đời sống thế tục
cũng đều như vậy
Hãy ra sức buông đi
Không hối tiếc, không ngăn ngại
Để ngày nào đó,
Ta có thể sống nhẹ nhàng, thanh thoát
và an lạc trọn vẹn
với tấu khúc của mùa Xuân
Miên viễn!
Ta nhặt nổi muộn phiền
Bỏ vào túi hư không
Ngày kia bỗng hóa bướm
Bay lên cõi trời hồng
Ta thả nổi bâng khuâng
Trôi vào dòng sinh mệnh
Tuôn chảy niềm không tên
Hóa xum la vạn tượng
Ta nhặt nổi hân hoan
Tô môi son tịnh khẩu
Khẽ mỉm cười lặng yên
Niềm tịch nhiên miên viễn!
Ta thả niềm âu lo
Vào chung trà u nhã
Thong dong bơi như cá
Ðùa vui hương đậm đà
Nhặt lên rồi buông xuống
Nổi niềm đầy lại vơi
Như đêm rồi chợt sáng
Tấu khúc Xuân dâng đời
Buông rồi không nhặt lại
Bao nắng mưa không ngại
Núi sông muôn hình tướng
Chẳng thiếu-thừa, khứ-lai!
Khánh Hoàng
Plano _ March 13, 2007
Mời xem bài thơ, mp3, và pps "Bếp Nhà"
Nhạc và lời: Khánh Hoàng
Ca sĩ: Xuân Trường
Hòa âm: Thái Bảo Lộc
Trình bày pps: Thường Minh
https://thuvienphatviet.com/khanh-hoang-bep-nha/
Bếp Nhà
Ngăn tủ mở ra nồng thơm rau quả
Kết tụ tinh khôi vạn nẻo đất trời
Chén đũa thì thầm đôi lời thăm hỏi
Ngôn ngữ diệu vợi tâm ý thảnh thơi
Chùm nho im lìm không màu phẫn nộ
Táo chín ngoan hiền đỏ bóng chơn nguyên
Nheo mắt vườn ngoài nụ hồng tủm tỉm
Bất động thần kỳ sợi nắng soi nghiêng
Ngón tay thon gầy tợ những nhành mai
Thoăn thoắt vân du chẳng hề quái ngại
Xanh đỏ tím vàng dưới trên quán xuyến
Nhật nguyệt tịnh huyền thinh không lặng yên!
Dọc ngang qua lại như một cõi riêng
Nước lửa reo vang bốn mùa hóa hiện
Khói ấm vờn bay chưa hề lên tiếng
Hương vị diệu thường sung túc an nhiên!
Khánh Hoàng
Plano _ March 05, 2012
(Riêng tặng Hiền Nội HMH)
Mời xem bài thơ, mp3, và pps "Bếp Nhà"
Nhạc và lời: Khánh Hoàng
Ca sĩ: Xuân Trường
Hòa âm: Thái Bảo Lộc
Trình bày pps: Thường Minh
https://thuvienphatviet.com/khanh-hoang-bep-nha/
Bếp Nhà
Ngăn tủ mở ra nồng thơm rau quả
Kết tụ tinh khôi vạn nẻo đất trời
Chén đũa thì thầm đôi lời thăm hỏi
Ngôn ngữ diệu vợi tâm ý thảnh thơi
Chùm nho im lìm không màu phẫn nộ
Táo chín ngoan hiền đỏ bóng chơn nguyên
Nheo mắt vườn ngoài nụ hồng tủm tỉm
Bất động thần kỳ sợi nắng soi nghiêng
Ngón tay thon gầy tợ những nhành mai
Thoăn thoắt vân du chẳng hề quái ngại
Xanh đỏ tím vàng dưới trên quán xuyến
Nhật nguyệt tịnh huyền thinh không lặng yên!
Dọc ngang qua lại như một cõi riêng
Nước lửa reo vang bốn mùa hóa hiện
Khói ấm vờn bay chưa hề lên tiếng
Hương vị diệu thường sung túc an nhiên!
Khánh Hoàng
Plano _ March 05, 2012
(Riêng tặng Hiền Nội HMH)