top of page
hmpg.jpg
Titlej (1).jpg

Thơ văn

CAO VỊ KHANH

Montreal, Canada

CHS PTG-CGS Nguyễn Trung Trực, Rạch Giá

___________________

CVK_Tharong.jpg

Rồi đến lúc chẳng có chuyện gì để làm ngoài cái chuyện... ở không.

 

Nghĩ tới nghĩ lui rồi bật cười khan. Sao có lúc lại bận tíu tít, chuyện ở đâu mà đổ dồn tới như sóng mùa nước lũ. Chuyện này chưa xong chuyện khác đã dồn tới. Liền liền. Có khi cùng lúc hai ba thứ chuyện. Đầu tắt mặt tối. Chuyện nhà. Chuyện nước. Khi thì như kèn thúc bên tai. Lúc lại như gươm kề tận cổ. Cả một tuổi hườm hườm bỗng muốn chín háp vì ba cái sức nặng trì trì của cái kiểu trăm-dâu-đổ-đầu-tằm. Có lúc cứ tưởng chừng đâu như Hạng Võ bị vây ở Cai Hạ, tả xung hữu đột, càng cố phá vòng vây càng dính chùm với Ngu Cơ, chỉ chực há miệng kêu Ngu hề Ngu hề rồi... bỏ mạng. Nhưng vận đen chưa tới, chắc chỉ mới tái tái nên y như huyền thoại, không dưng rồi mọi chuyện tự gỡ rối hay sao mà thấy mình thoát vòng dây dẫu chẳng còn manh giáp.

 

Vậy đó. Đời lưu vong vậy đó. Có lãng mạn cách mấy rồi cũng hết còn rung động nổi với ba chữ gót-giang-hồ mà một thời đọc thơ mấy ông thi sĩ thời tiền chiến cho đã rồi hè nhau mơ mộng. Bỏ xứ đi vì chẳng đặng đừng, đến khi nhận đại chỗ nào đó làm quê hương rồi biết. Khi tay bưng, đầu đội, vai vác, lưng cõng bao nhiêu là hẹn thề, ước vọng... cộng thêm mớ tiền nhà tiền xe tiền điện nước tiền cơm gạo nhập cảng cộng thêm mớ tiền đổi ra đô-la gởi về bên bển tiếp thêm chút mắm muối cho cha mẹ già em dại còn đang được “vinh quang” chung với đảng và nhà nước... rồi biết thế nào là... lưu lạc. Hai chữ vốn xúi bẩy đám choi choi hình dung ra cả một thế giới lãng mạn với những từ ngữ đẹp như mơ và kêu như thơ: gió sương, bụi đường, gác trọ, lữ thứ, dặm trường, thiên lý... Toàn là mớ mỹ từ, đọc lên cứ nghe như có ai đó đang ngoắc gọi... lên đường. Mà hỏi lên đường để tới đâu thì thiệt tình là... bí. Vậy đó mà cả một thời mới lớn, giữa cao ngất thái-sơn-cha và mênh mông đại-dương-mẹ, hể tết đến là lại lải nhải mấy câu thơ của Thế Lữ thời tiền chiến. Rủ áo phong sương trên gác trọ. Lặng nhìn thiên hạ đón xuân sang. Đúng là cà-chớn.

 

Đến khi bỏ xứ ra đi rồi mới thấy người xưa hết sức tài tình khi hình tượng hóa cảnh giang hồ lưu lạc bằng mấy chữ nôm na mà như vẽ truyền thần : “lê gót, lê bước” hay đúng bộ nhất là “lê chân” ! Mà vậy cũng đã quá là lịch sự. Chớ lắm khi còn “lếch” nữa là khác. Lẽ ra là... lếch-bước-giang-hồ mới là phải phải. Chẳng qua vì cái chyện đi lộn rồi đi lại, đi tới rồi đi lui, đi xuôi rồi quay đầu đi ngược lại thường như là ăn cơm bữa. Tới lui riết rồi cũng có lúc lệch bệch vậy thôi. Thử nghĩ coi, xứ người thì mênh mông, sông mà hổng trường giang thì cũng lớp lớp sóng thiên cổ, núi không cao ngút mắt thì cũng trắng xóa lớp lớp phù vân, phố xá thì lớp lớp tầng tầng lớp nầy chồng lên lớp khác, hè phố thì lớp lớp người qua lại mà mặt mày hổng phởn phơ thì cũng tròn trịa như chưa từng biết sao là đói khổ, còn đường xá thì thôi khỏi nói, chia năm xẻ bảy như mạng nhện, đèn xanh đỏ lia chia chớp tắt, xe cộ lớn nhỏ chạy qua chạy lại như chạy giặc... Vậy đó, tình cảnh rồi y như bắt cóc bỏ vô dĩa mà hổng nhảy loi choi sao được, giữa một cõi sống mới trăm phần dị biệt với cái chỗ vừa phải bỏ đi. Thử nghĩ coi làm sao mà không có lúc lê thê lếch thếch, lệch bệch tới tới lui lui... Vậy chớ có biết con-đường-sự- nghiệp trước mặt dài ngắn bằng phẳng hay lồi lõm thế nào đâu mà hổng... lê gót. Trở bước tới tới lui lui hoài thì cũng có lúc dở chân không muốn nổi. Nay mới được hãng điện tử ở đầu đông kêu vô làm thợ hàn xì mấy cái mother card, mốt đã lái xe đi giao “pizza” tới khuya lơ khuya lắc, bữa kia rồi nằm nhà chờ đâu đó lên tiếng gọi đi sai vặt ở một cửa hàng nào đó...

 

Hổng lê, lết... chớ còn gì nữa ! Nhất là gặp ngay lúc kinh tế đang hồi khủng hoảng, mấy cái “job” cứ như con gái nhà giàu thi nhau mà đỏng đảnh...

 

Nhớ lại rồi mới thấy thương mình. Người xưa thương con gái mười hai bến nước có biết đâu rằng có lúc đàn ông-con trai còn đáng thương hơn vậy nữa. Đâu phải chỉ có hai cái bến đục-trong thôi đâu. Vừa mới đặt chân xuống phi trường sau một chuyến bay dài cả chục ngàn cây số, đầu óc còn lơ lơ lửng lửng chưa kịp phân biệt đâu là thực đâu là chiêm bao, chưa cảm được hết cái phiêu bồng của hai chữ tự do là thế nào thì ôi thôi đã phải... tự lo tới mệt nghỉ. Mà rồi cũng ngộ. Lo hết biết vậy mà sao làm như thấy đỡ lo hơn cái ngày còn ở chỗ có đám cầm-quyền-cầm-súng lo cho hết mọi thứ. Từ hột gạo mốc tới mấy viên thuốc xuyên-tâm-liên-trị-bá-bệnh, từ thước vải sô dành để quấn khăn tang đến mớ suy nghĩ vẩn vơ cũng được nhà nước lo luôn, nhất là bên trong mấy cổng trại cải tạo. Đi đứng - kể cả những nhu cầu sinh lý tối thiểu... cũng được chăm sóc tới sát nút. Phải nói là thiên-đàng-xã-hội-chủ-nghĩa cũng chẳng có gì sai. Nhờ vậy, mà cả nước cứ xô nhau tìm đường ra biển. Rồi thì kẻ tới bến kẻ bỏ mạng dọc đường. Phận cá kèo rồi cũng nhờ con nước lớn... đưa đẩy riết cũng tới được bến bờ tự... lo. Như đã nói, tới lúc được tự... lo rồi đâm ra lo hết biết. Chỉ khác ở chỗ, có lo nhưng rồi thấy cái lo này khác cái lo kia. Khác ở chỗ hồi đó thì bị được-lo. Còn bây giờ thì đượcbị-lo. Dẫu sao, được tự mình lo vẫn hơn để nhà nước... “no”. Phút chốc bỗng thấy chằng chịt trách nhiệm và bổn phận. Mới tháo được mớ lòi tói của chủ nghĩa cộng sản thì đã thắt vô mình thứ dây xích của chủ nghĩa tư bản. Dĩ nhiên lần này là do tự mình chọn lựa, chẳng có gì phải thở than. Tuy nhiên... Dẫu sao cũng thương cảm chút chút cho thân trượng phu cao chưa đầy thước bảy.

 

Nghĩ lại coi. Mớ chữ nghĩa đã bỏ công dùi mài từ mười mấy năm trường ốc cộng thêm mươi năm hành nghề bỗng chốc rồi trở nên... hết thời. Ba cái mớ thơ văn từ đời xưa đời xửa đến thời nay chắt chiu như vàng như ngọc trong đầu rồi chẳng khác gì đồ phế thải, cứ ấm a ấm ức, lúc tha lúc thúc trong lòng như những tình nhân bị phụ rẩy. Lại nữa cái xứ gì kỳ cục. Thói thường hể ở bên Tây thì xài tiếng Tây, tới Anh thì xài tiếng Anh, qua Ấn độ thì xài tiếng Hindi, Tàu thì xài tiếng Tàu dẫu có lơ lớ kiểu Tiều kiểu Hẹ gì đó chắc cũng không đến nỗi ú ớ... Đằng này, nơi đây chào bà trước mặt thì phải Bonjour mà chào ông sau lưng thì phài Good Morning. Cám ơn ông hàng xóm cạnh nhà bên phải thì Thank you mà cám ơn bà bên trái thì phải Merci... Thôi thì moi móc lục lọi trong cái kho chữ nghĩa cũ mèm tích tụ từ thời thực-dân-Pháp với lại đế-quốc-Mỹ ra hết mà cứ lộn-xà-ngầu. Thiệt ra phải chi biểu làm bài phân tích giống cái-giống đực, số ít-số nhiều thì chắc cũng không đến nỗi. Ngặt cái đi kiếm ăn chớ có phải đi học chữ đâu mà bày đặt văn phạm với lại ngữ vựng. Oái ăm ở chỗ lắm khi trong đầu thì chữ nghĩa lấp la lấp ló mà khi mở miệng nói năng thì cứ ấp a ấp úng như con trai mới lần đầu tỏ tình với con gái. Bởi vậy, moi móc cho lắm trong bộ óc vốn đã bị quân-giải-phóng tẩy não tận tình cũng không bằng quơ tay múa chân ra bộ kiểu như robot thời nay. Nhất là khi đi làm công với lương ba cọc ba đồng, tiền giờ tính chăn chẳn. Mà rồi nghĩ ra cũng ngộ. Sự đời coi vậy mà ảo diệu vô cùng. Chớ hổng thấy sao trong mấ́ ́́y gánh xiếc, nhiều khi mấy ông hề làm người ta cười nghiêng cười ngửa mà có mở miệng nói câu nào đâu. Chỉ cần một cái nháy mắt, một cái hỉnh mũi hay méo cái miệng, đôi khi nhúc nhích cái tay cái chân... là đủ tạo nên những tràng vỗ tay không dứt. Làm người lưu vong lắm lúc cũng vậy thôi. Ở cái xứ thì giờ là tiền bạc, sáng vô bấm thẻ, ra chơi bấm thẻ, chơi xong bấm thẻ, ra về bấm thẻ... mà cứ ú a ú ớ hoài có ai mà chịu. Thôi thì cứ múa tay múa chân nháy mắt méo miệng vậy mà rồi mọi chuyện cũng trót lọt, khỏi lo bị ngộ-nhận như có thời ông Albert Camus đã báo động trong vở kịch Le Malentendu.

 

Trắc trở, trúc trắc, trục trặc, trễ tràng... vậy đó mà cứ cắm đầu cắm cổ phóng tới như con bò rừng bị bịt mắt đụng đâu cụng đó. Việc nặng việc nhẹ, chuyện khó chuyện dễ kêu đâu làm đó. Bất kể. Miễn cuối tuần rồi cuối tháng có mớ tiền để thanh toán ba cái nợ đời. Tại vậy mà thuở ấy, dẫu có u đầu sứt trán hay mỏi gối chồn chân cách mấy rồi cũng phải ngóc dậy mà đi tiếp. Vì kiếp lưu vong chẳng qua như một kiếp tái sinh, hổng lo đắp đổi thêm thắt rồi chẳng lẻ để trần truồng mà lỗi với tổ tông. Hơn nữa, người ta đã động lòng cho ăn nhờ ở đậu mà còn chảnh chẹ thì lấy gì mà ngẩng-mặt-lên-với-đời. Bởi vậy mà cái đầu thì lúc nào cũng nặng trịch, hết niềm-đau-thân-phận tới nỗi-sầuvong-quốc mà cái chân thì cứ theo nhịp trường chinh mà lặn lội. Những sớm lạnh sương dầm áo mỏng. Nghĩ mình nợ trĩu nặng hai vai. Những tối về khuya đường lẻ bóng. Thấy đời xa tít khỏi tầm tay. Cũng xiêm cũng áo sao mà nhẹ. Nặng chỉ bờ mi khoé mắt cay...

 

Vậy rồi...

Vài ba năm... Rồi vài mươi năm... Thoáng cái một. Hổng chừng bằng cái rùng mình của thiên địa mang mang. Mọi sự rồi như đứng khựng. Đời riêng thành hay bại cũng chẳng biết nhưng chắc là đại bại khi so với chuyện để nước mất nhà tan. Quê hương bỏ xó mà đường về thì càng lúc càng mờ mịt. Ngó quanh quất rồi càng lúc càng thấy trống trải. Nay tin ông kia đã phủi chút danh hờ mà đi cái một. Mốt nghe tin bà nọ rũ cánh hoa tàn mà rụng cái rụp. Cõi thân sơ rồi mỗi lúc mỗi đìu hiu. Nhìn quanh quất trong cõi riêng mình thấy chẳng khác gì cảnh sân khấu về khuya, mỗi lúc mỗi vắng vẻ khi màn nhung đang từ từ khép lại. Đào kép từ vai chánh đến vai phụ một khi đã xếp cất mấy hộp son phấn thì sân khấu chỉ còn là khoảng trống với mấy tấm cánh gà, dẫu có màu mè cách mấy cũng đâm ra trơ trọi đến vô duyên.

 

Dẫu biết đó là sắp xếp của tuồng đời vốn không có bài bản nhưng nhìn đi ngoảnh lại rồi lòng cũng... nao nao.

 

Trong khi đó, ngoảnh nhìn xa ra chút, đâu đâu cũng như cái nồi hầm xào bần. Kẻ thì chểm chệ mở rộng nhà tù. Người thì lặng lẽ đường tu. Chỗ này mới bớt lửa riu riu thì chỗ kia lại sôi sùng sục. Làm như người ta không lu bu tù đày, đâm chém, bắn giết nhau thì ăn không ngon ngủ không yên và nhất là chết không được hay sao á. Hết biết. Vậy đó mà làm sao không thấy bứt rứt khi nhìn lại mình rồi thấy giữa cái cõi đời náo nhiệt không thôi đó bỗng dưng mình thành kẻ... vô tích sự. Trong khi cuộc đời quanh quẩn thì nhiễu sự tới không thôi. Khi không rồi giữa dòng đời bụi bặm bỗng dưng thấy mình như kẻ... thoát trần, phiêu diêu cả tấm thân vốn trần tục, ngay giữa cõi lụy trần ai. Thân xác và đầu óc cứ như cái bong bóng được bơm đầy hơi, bay vật vờ, vất vơ vất vưởng. Chẳng biết đậu vào đâu. Hay tắp chỗ nào cho phải. Mà nhất là lại không thấy đâu còn chỗ cho mình. Làm như rồi bị-được tách ra khỏi cái đám đông lúc nhúc quanh quanh mà chẳng có một thông báo gì cho rõ ràng như khi bị hãng cho “lay ốp”. Bỗng dưng rồi trở thành hạng ăn không ngồi rồi, sáng trưa chiều tối ra vô cùng một chỗ, tối chiều trưa sáng vô ra cùng một nơi. Xuân rồi hạ. Chớm thu rồi tàn đông. Mây trên trời vắt ngang qua cửa sổ hết đám này tới đám khác, loáng thoáng hay vần vũ rồi cũng bay đi mất. Chỉ còn mình, đứng khựng với mình. Nhìn quanh quẩn rồi đâm ra ngán ngẩm. Ngán ngẫm cho đã rồi đâm ra ngẫm nghĩ. Bỗng đâu như mấy ông thầy tu đáo-bỉ-ngạn. Hóa ra cũng tự mình mà sanh chuyện chớ có phải tại ai đâu. Sao hồi nhỏ đeo đuổi người khác phái, dẫu người ta có ngoảnh mặt làm ngơ sao cứ lì lợm anh-theo-Ngọ-về hoài vậy. Còn bây giờ đời có dạt xa ta sao ta không nấn níu theo đời. Sá chi chút phận cỏn con mà tự ái dởm. Dẫu sao, với một tấm lòng-cho-đi vẫn là điều thiết yếu của cõi nhân sinh. Thuở trẻ còn dám bắt chước kiểu yêu rất-nhiều-nhận-lại-chẳng-bao-nhiêu. Còn nay sao lại ngại ngùng không dấn thân lần nữa. Thử lì lợm thêm lần chót coi sao. Không nhiều thì ít. Miễn có góp phần mình ít nhiều gì chẳng được. Sao lại có thể thờ ơ tới vậy khi quanh quanh ngày vẫn lên rồi chiều xuống. Ngay cả một đóa hoa dại đôi khi cũng làm đẹp được một góc đường. Thệ giả như tư phù bất xả trú dạ. Ngoảnh mặt phủi tay coi được hông khi nợ đời còn nguyên đó. Nghĩ vậy rồi lòng riêng sao cứ băng hăng bó hó chẳng khác cái nồi đóng kín nắp mà nước trong nồi thì cứ sôi thì thụt. Không phải sôi ùng ục. Mà là thứ sôi rúc rích khi lửa đã riu riu. Cứ băng hăng bó hó làm như có gì lục đục trong lòng mà không thể nói ra. Tại vậy mà cứ ấm a ấm ức. Đúng là... vô duyên thứ thiệt.

 

Nghĩ vậy tưởng đã căn phần rồi ai dè rồi cũng chưa chịu yên phận. Ờ mà sao lại cứ chuốc phiền vào thân. Sao không làm như thiên hạ tự tại an nhiên. Sao không bắt chước người ta mà hưởng lạc thú kiểu... hết thời.

 

Coi nè, mấy ông già xưa vậy mà sướng quá mạng. Cỡ ông Nguyễn Công Trứ, công danh sự nghiệp ái tình hẳn là mọi thứ đều đâu vào đó hay sao á mà cuối cùng rồi ông kết luận ngon ơ.

 

Nợ tang bồng trang trắng vổ tay reo

Thảnh thơi thơ túi rượu bầu

 

Đôi khi còn hai ba đứa tiểu đồng cắp tráp theo hầu ...

 

Còn ta sao... chỉ thấy ngậm ngùi !!!

 

Ờ mà nếu cứ lấn cấn vậy sao không theo con đường tu đạo mà thiên hạ đang đuổi theo nườm nượp. Nhưng rồi nghĩ lại phận mình sao chỉ thấy đường-xưa-mây-trắng nó xa mịt mịt. Thiệt ra, con đường đó chưa bao giờ dám hó hé tới gần. Kể cả mé mé cũng không. Dẫu nghe gần xa nhắc nhở biểu phải... buông bỏ. Có điều buông cái gì và bỏ cái gì thì... mù tịt. Bởi vô duyên nên chưa bao giờ chịu ngồi nghe quí thầy giảng pháp nên cứ nhắm mắt mà phóng đại tới. Tới bây giờ nghe kêu bỏ lại thấy băn khoăn. Khổ nỗi, nghĩ tới nghĩ lui rồi lại thấy bỏ chi mà uổng vậy. Thiệt ra có cái gì là của mình đâu mà kêu... bỏ. Nghĩ coi. Cả một dãy đất trời trăng mây nước gọi là non-sông-gấm-vóc mà tổ tiên ông bà đã cắc củm từng giọt máu từng mảnh xương để gầy dựng rồi mất cái một. Cả một ngôn ngữ gấm hoa mà bao nhiêu thế hệ đã chắt chiu, lựa lọc, thăng hoa rồi bỗng nhiên biến dạng đến câu cú cũng như lời ăn tiếng nói đâm ra mài mại như thịt ba rọi, nửa nạc nửa mỡ. Cả một nền đạo đức kính trên nhường dưới thương-ngườinhư-thể-thương-thân rồi biến dạng thành lối sống đội trên đạp dưới miễn sao tiền bạc đầy túi, vinh thân phì da bất kể... Những thứ chưa bao giờ muốn bỏ mà rồi mất hết thì nghĩ coi có cái gì là còn đâu mà phải bỏ chi cho rối việc. Cái có là có. Cái còn là còn. Cái mất là mất. Tính chuyện bỏ buông chi cho thêm phần đại sự. Sao không thả trôi như chiếc lá giữa dòng. Tới đâu hay tới đó, chẳng phải là triết lý sống dễ chịu nhất sao ! Mà thôi, ba cái chuyện đại sự đó kể ra cũng quá xa xôi. Chuyện riêng tư nè, ngó lại cũng thấy chẳng sao ra sao. Nội cái tuổi trẻ, rõ là của riêng mình mà ngó đi ngó lại rồi cũng biệt mù, có muốn níu kéo cầm giữ cũng bằng không. Còn ba cái mớ trái ngang ngang trái rối beng như tơ nhện mà càng vùng vẫy lại càng siết riết tới hết cựa quậy. Vậy thì tính chuyện buông bỏ chi cho thêm... chuyện. Cái còn là có. Cái có là còn. Mà tính ra cái-có-cái-còn sót lại có bao nhiêu đâu mà đòi bỏ. Bỏ riết rồi còn cái gì nữa mà lảng vảng cõi này. Thôi vậy. Tới đâu hay đó. Y như ba cái mớ chữ nghĩa mà ông bà cha mẹ thầy cô đã cho không, hơn mấy mươi năm rồi được giấu kín giữ kỹ trong đầu vốn là cái nhà kho chẳng có gì bảo đảm. Hơn bốn mươi năm xa nguồn xa cội, hẵn nhiên có hao hớt thì cũng là chuyện... đã đành. Bao nhiêu tục ngữ ca dao, những áng kỳ văn thiên cổ, từ những bài thơ bảy chữ tám câu đến những trường thi Chinh Phụ, Cung Oán, Đoạn Trường... , những bài thơ thời tiền chiến gọi là Thơ Mới đến thơ mới hơn nữa của Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Nguyên Sa, Cung Trầm Tưởng, Tô Thùy Yên, Du Tử Lê, Thế Viên, Trần Tuấn Kiệt... ,những tập truyện ngắn truyện dài của cả mấy thế hệ nối dài từ thời ông Hồ Biểu Chánh trong Nam đến nhóm Tự Lực Văn Đoàn ngoài Bắc, đến những đột phá của nhóm Sáng Tạo, Hiện Đại, Thế Kỷ Hai Mươi, Văn Nghệ... ở Sài Gòn... đến Vũ Khắc Khoan, Võ Phiến, Bình Nguyên Lộc, Mai Thảo, Hoàng Hải Thủy, Duy Lam, Thanh Tâm Tuyền, Nguyễn Đình Toàn, Dương Nghiễm Mậu, Phạm Công Thiện, Hoàng Ngọc biên, Phạm Kiều Tùng, Phạm Thiên Thư, Huỳnh Phan Anh, Thế Uyên, Nguyễn Thụy Long, Duyên Anh, Nhã Ca, Nguyễn Thị Hoàng, Túy Hồng, Y Uyên, Thế Viên, Phạm Ngọc Lư... v.v... và v.v... mà mỗi câu mỗi chữ là hoa trái được mùa của bao thế hệ đã khổ công trồng trọt.

 

Ý là chưa kể đến, trước tháng 4 năm 1975, trải khắp 44 tỉnh thành ở phía Nam con sông Bến Hải, đã có không biết bao nhiêu người trẻ tuổi, ngay khi còn cặp sách đến trường cũng đã thả hồn mình lên tới cõi trăng sao để viết văn làm thơ. Dẫu chưa thành danh, vẫn chứng tỏ được một hồn nhân văn phát sinh từ một cõi đời nhân bản, dẫu ngày đêm còn bị nướng thiêu trong lửa đỏ.

 

Ôi kể sao cho hết. Mà kể hết rồi sẽ ra sao những công trình tâm huyết đó... vốn đã có lúc bị đem đốt bỏ hay cân ký bán giấy gói thịt heo ngoài chợ đời. Tàn tệ hơn nữa, sách vở còn bị giải thích theo lối ngụy tín cho hợp với thứ chủ nghĩa chính trị phi nhân. Chẳng thua gì lối phần-thư-khanh-nho của đám vua quan nhà Tần, ở bên Tàu từ mấy ngàn năm trước. Hết nói.

 

Ờ, vậy đó mà rồi có tuyệt chủng đâu, y như linh vật trong huyền sử, chặt đầu này mọc đầu khác. Chữ nghĩa bị đọa lạc. Người viết bị đọa đày. Nhưng ai thoát được rồi là chữ nghĩa sống lại, tinh khôi. Từ đó, những dấn thân tận tình dù đã xa lắm một cố hương. Mấy chục năm nay, gần như ở khắp mọi nơi trên mặt đất này, với mọi tình huống, có bè có bạn hay rất đơn thân độc chiếc... vẫn miệt mài viết văn làm thơ với mớ vốn liếng chữ nghĩa mang theo dù hẵn biết rằng sẽ có ngày trở thành tử ngữ, khi ngay từ chính ở quê mẹ, người ta đã cố tình bóp méo vo tròn thứ chữ nghĩa đáng thương đó. Cũng chẳng biết rồi ra sẽ sống sót ra sao, những vần thơ những câu văn đáng yêu đó vẫn tiếp tục bay lượn, bất kể được đón tiếp hay quên lãng trong sự thờ ơ của thiên hạ. Những Hải Phương, Phan Nhật Nam, Kiệt Tấn, Hồ Trường An, Trần Hoài Thư, Nguyễn Xuân Thiệp, Hoàng Xuân Sơn, Phạm Ngũ Yên, Trang Châu, Võ Kỳ Điền, Luân Hoán, Hồ Đình Nghiêm, Phạm Cao Hoàng, Vũ Hoàng Thư, Nguyễn thị Khánh Minh, Trần thị Nguyệt Mai, Duyên, Đặng Mai Lan, Trần Phù Thế, Trần Bang Thạch, Nguyễn Vĩnh Long, Nguyễn Nam An... Và... Và... Những Đinh... Những Lê... Những Lý... Những Trần... Những Nguyễn... v.v... và v.v... Kể sao cho hết. Những tên tuổi... và còn biết bao nhiêu những-chưa-tên-tuổi, từ khi sống cảnh chim-xa-bầy vẫn ngày đêm thương-nhớ- cội, bất kể trên bàn viết hay trong một góc xưởng thợ, dưới hầm nhà hay nơi bến đợi chuyến buýt qua đường... đã và vẫn sáng tác bằng mớ vốn liếng chữ nghĩa mang theo, từ một ngày bỏ xứ.

 

Ờ mà nhiều quá, làm sao mà kể xiết...

 

Nghĩ mà thương, mà phục, mà lòng thấy nao nao...

 

Rồi tự dưng thấy làm sao mà bỏ cho đành. Những vui buồn, hờn giận trong đời thực hóa thân thành cỏi ảo. Những mê say đắm đuối trong sáng tạo kéo mộng mơ ra cỏi đời thường. Những vần thơ mướt rượt như tóc mây. Những câu văn chữ nghĩa như tạc tượng. Hổng giữ lại được hết thì cũng cố kéo níu sao cho còn lại chút dấu vết. Bây giờ còn bắt chước được chữ nào xài chữ nấy, kiểu như dân chơi hào phóng thuở xưa, có đồng nào xài đồng nấy. Xả láng sáng về sớm, có phải đã đời hơn không. Nguyễn Bính đã có lần phán một câu ngon ơ. Vẫn dám tiêu hoang cho đến hết. Ngày mai ra sao rồi hẵn hay. Hết xẩy !

 

Lại nhớ thêm có lần ông tú Trần Tế Xương tự kiểm rằng thì là... một trà một rượu, một đàn bà. Ba cái lăng nhăng nó quấy ta. Chừa được cái nào hay cái nấy. Rồi ông nhứt quyết bỏ hai giữ lại một. Có điều nói thì nói vậy mà làm được hay không thì là chuyện khác. Vã lại thói thường gom vô thì dễ mà bỏ ra không dễ chút nào. Lại nữa, ngẫm lại ba cái món mà ông nêu tên rõ ràng mới chỉ là một phần chút xíu của lạc thú ở đời. Ngoài ra còn biết bao nhiêu tặng phẩm của trần gian như núi cao-sông dài-biển rộng hay gió mát-trăng thanh hay văn-thơ-nhạc-họa thì làm sao mà bỏ cho đành, một khi đã lặn lội đến mòn gót phong sương. Thôi kệ, trước sau gì cái triết lý muôn đời tới-đâuhay-tới-đó nghĩ ra mà coi bộ dễ chịu hơn. Khỏi phải tính toán so đo chi rồi mang tiếng bên trọng bên khinh. Có đáng gì phận đời của hàng tục tử mà phải so đo chắt lọc tới vậy. Còn nhớ ông Cao Bá Quát, người trải đời rất mực có lần đã nói chắc như đinh đóng cột Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy. Cảnh phù du trông thấy cũng nực cười. Y chang. Vậy còn chụp giựt hay buông bỏ chi cho thêm việc. Trước sau gì cũng tới cái nơi sẽ tới. Quyết chắc. Vậy thì thả mình như chiếc lá vất vơ theo gió cuốn, chớ cưỡng cầu rồi cũng vậy. Cũng sẽ tới cái chỗ phải tới ! Tính toán, chuẩn bị, sắp xếp, sửa soạn, lên kế hoạch hay hạ quyết tâm... cho đã rồi... cũng như không !

 

Thôi kệ đi. Mặc đời đưa đẩy. Tới đâu hay tới đó. Trời kêu sao dạ vậy. Giờ còn chút gì thì xài chút nấy. Kể cả mớ chữ nghĩa cứ lúc thúc trong đầu. Hẵn nhiên cũng chẳng phải cầu vinh rửa nhục gì hết. Chẳng qua muốn tung hê cho hết mớ vốn đời cặn cáo mà khổ nỗi khi xét lại tài sản thì trương mục trống trơn, sức khỏe thì cũng đã tới hồi xập xệ. Còn sót mớ chữ nghĩa của thời chưa bị được-giải-phóng là coi bộ còn chút hơi tàn, cứ nhấp nha nhấp nhỏm trong đầu với lại trong lòng mà không chịu yên phận. Thôi thì, muốn vậy cho vậy, mở ngỏ cho chữ nghĩa thả rong, long nhong như những bước thả rong đã có lúc trên vỉa hè Lê Lợi những chiều cuối tuần của Sài Gòn, một thuở. Không mục đích. Cũng chẳng có mảy may ước hẹn. Lỡ có vấp váp hay lạc lối thì cũng là... ngoài ý muốn.

 

Ít ra, coi như cũng đã có lúc lang bang trên mấy cái vỉa hè đã có thời đầy ấp dấu chân. Biết đâu cũng góp phần cho phố xá đỡ phần hoang vắng, khi nắng chiều hôm đã héo tới vàng hoe...

 

Thả rong là... thả rong.

 

Cao Vị khanh

 

* CÁO LỖI Những tên tuổi được liệt kê trong bài chỉ nhằm để tượng trưng, với trí nhớ lập lờ của người viết. Muốn kể hết mà cũng không làm sao kể hết ! Muôn vàn tạ lỗi. cvk

_________________

cvk_nguoixa.JPG

Ta gọi người xa mút biển xa

quạnh, im như tiếng lạnh tỳ bà.

Người xa biết mấy lần sông núi

lẵng lặng buồn riêng. Chung với ta.

Người xa, xa huốt mấy tầng mây

hẵn biết lòng ta giữa đọa đày.

Từng đêm thức trắng, vùi trong hận

nỗi nước non và vị tình cay.

Mấy thuở bôn ba, đời đá sạn

cằn như con nước lạc xa nguồn.

Chắt chiu chút mộng về quê cũ

rồi cũng tàn theo giọt nắng tan .

............

............

Ta gọi người vọng suốt biển sầu,

một đời tuyệt tận, tựa chiêm bao.

Còn dăm ba mớ rong rêu cũ

đắp đổi đời nhau. Chút biển dâu.

 

c a o v ị k h a n h

CVK_docthonguoiphebinh.JPG

Thơ người tôi cứ buồn lây !
Tình đâu lây lất mà xây xát tình.
Chữ người nuôi giữa điêu linh.
Lòng người miểng đạn trăm nghìn. Cứa đau.
Tháng tư đục máu, đỏ ngầu !
Vết thương trần thế khoét sâu tận nguồn.
Đung đưa, chân mất chân còn.
Biển xanh réo gọi vọng buồn. Lặng. Im.
Rạc rày kiếp nạn nhận chìm
thế thân trầm tích liệm, dìm âm hao.
Mười mươi năm, một nỗi đau.
Một đời cô quạnh. Một sầu riêng mang.
Mẹ kiếp ! Lịch sử sang đàng !
Bẽ bàng huyệt mộ. Ngỡ ngàng khăn tang.
Rốt cùng, tận nghĩa phũ phàng
với tan tác đó và tàn tạ đây.


Bốn mươi năm lẻ, lạc bầy !


c a o v ị k h a n h

cvk_SG.JPG

Tui rời Sài Gòn đi nhận nhiệm sở ở một tỉnh miền Tây khoảng cuối năm 1969. Xa xôi chưa quá một ngày đường. Vậy mà mươi năm sau đời trở chứng để đến nỗi rồi xa đâu mà xa hơn nửa vòng trái đất. Ngặt hơn nữa, chẳng những xa trên dặm dài thiên lý mà còn xa huốt trong từng nếp nghĩ. Khổ cho tui, thân bọt bèo, cứ mỗi lần nghe nhắc đến Sài Gòn với cái tên lạ hoắc, dù đã phải giả bộ ngớ ngẩn như không nghe tới mà lòng cứ thấy đau nhói còn hơn vừa bị tình phụ đi lấy chồng...

Ngày... đó, tháng... đó, năm... đó, tôi ra bến xe đò lục tỉnh mua vé chuyến tài nhứt rồi lên xe khi trời Sài Gòn mới vừa hửng sáng. Vậy mà bến-xe-lục-tỉnh ở đường Pétrus Ký đã đèn đuốc sáng trưng, người qua lại đã lăng xăng lít xít. Mấy tiệm-nước-mà-không-bán-nước-lại-bán-hủ-tiếu-với-giò-cháo-quẩy đã in ỏi tiếng Việt giọng Bắc giọng Trung giọng Nam, tíếng Quảng tiếng Tiều, tiếng xe xích-lô- máy nổ bình bịch, tiếng xe ngựa lăn lóc ca lóc cóc, tiếng xe taxi hai màu xanh trắng nổ rì rì, tiếng mấy bà già bán bánh-mì-chả-lụa trong mấy cái thúng tre kêu mời nghe thương-làm-sao, tiếng mấy đứa trẻ bán báo hay bán bánh-mì-mới-ralò lẫn lộn với tiếng mấy anh lơ xe gọi khách với giọng Nam kỳ rặt, nghe vừa cộc cằn kiểu dân-đứng-bến mà lại vừa thân thiện. Cái valise hiệu Samsonite gom hết đồ tuế nhuyển của mấy năm lang thang lề đường phố chợ cùng với cái sacmarin bạc phếch mua ở Khu Dân Sinh nhét đầy mớ sách vở của mấy năm lê lết ở hai trường đại học, đã được cất nhét đâu đó dưới mấy tấm vải bạt trên cái mui xe dài thòn. Thêm một lần... ra-đi-khi-trời-vừa-sáng vậy mà sao chỉ thoáng thoáng chút băn khoăn với mớ giây mơ còn gởi lại đâu đó. Y như lòng cứ tin chắc chuyện đâu còn đó, đi thì đi chứ quay lại mấy hồi. Đường-đi-không-khó-vì- ngăn sông-cách-núi... Từ những năm 30, ông Nguyễn Bá Học đã dạy vậy. Vậy mà rồi có lúc lại khó-vì-lòng-người-ngại-búa-e-lưỡi liềm. Bởi vậy mới ra nông nỗi.

 

Đêm hôm trước, vài ba tên bạn nửa thân nửa sơ gốc Sài Gòn, lục lọi ngoài chợ trời Hàm Nghi tìm mua cho được chai Martell-cổ-lùn, tính làm Cao Tiệm Ly chuốc rượu tiễn Kinh Kha qua sông Dịch, nên xe vừa chuyển bánh là người ra đi cũng bắt đầu lơ mơ qua cõi khác. Xe chạy loanh quanh Chợ Lớn đâu không biết mãi cho tới khi ghé lại Bình Điền rước khách, kẻ đăng trình mới chợt mở mắt để nhận ra mình đang xa... Sài-Gòn. Mà có sao đâu. Xe đò liên tỉnh chạy hà rầm, không xe nầy thì xe khác. Tệ lắm thì cũng chỉ vài ba cái mô-đất-tối-dân-hai-bênđường-bị-lùa-ra-đắp-mô-sáng-dân-hai-bên-đường-được-nhờ-ra-phá-mô .... Rồi đường thiên lý vẫn phom phom qua ngày tháng. Quốc lộ số 4 hai bên đồng ruộng xanh mướt, cây cỏ phởn phơ hai mùa mưa nắng. Cuộc di hành nửa mơ nửa tỉnh. Lòng nhẹ như chắc mẩm mọi chuyện rồi đâu vào đó. Rồi xe qua cầu Bến Lức, rồi cầu Tân An với những xâu mía ghim ngọt ngào, những miếng khóm ngọt lịm. Xe qua bắc Mỹ Thuận với những xâu chim trao trảo quay vàng lườm thơm phưng phức. Rồi xe qua bắc Vàm Cống mà có lần ông thi sĩ Tô Thùy Yên đã cảm thán đêm qua bắc Vàm Cống, mối sầu như nước sông, chảy hoài mà không cạn, cuốn phăng kiếp bềnh bồng. Rồi bắt chước ông tôi châm điếu thuốc nữa, đốt tàn thêm tháng năm, chiếc bắc xa dần bến, đời xa dần tuổi xanh... Ờ, qua bắc rồi lên xe tiếp tục quảng đường còn lại. Xe càng cuốn bụi đường khách càng xa cái tuổi xanh mướt rượt mà lòng sao vẫn Sài-Gòn như chưa từng xa Sài-Gòn một bước.

 

Tới nơi, phố biển vừa sụp tối. Xe đổ bến lưa thưa. Rồi vụt cái vắng hoe. Tỉnh nhỏ chắc người ta ngủ sớm. Ngó quanh quất lặng lờ, mất tiêu cái cảnh xe cộ dập dìu, đèn xanh đỏ nhấp nháy, kể cả mấy cái jupe dài jupe ngắn. Lưa thưa đôi ba bóng người qua lại, thủng thẳng như chẳng có gì gấp gáp. Chân trời ưng ửng tím đơm màu cho mấy con chim nhạn trắng cứ bay tới bay lui như chẳng có gì để làm ngoài chuyện bay lui bay tới. Cảnh im như tỉnh vật dưng không rồi làm chưn cẳng như chùn lại, hết cái điệu nhún nhảy quen thói bát-phố-sài-gòn. Tự dưng rồi đâm nghĩ ngợi, chốc thấy mình trở thành người lớn với nghề nghiệp và những ràng buộc của nó đang chực hờ khi sáng mai rồi đi nhận việc. Nghĩ quanh nghĩ quẩn cho đã rồi quay qua dỗ mình. Nói thì nói vậy, chớ đường xa dẫu có phải qua hai con sông lớn gặp mùa nước nổi sóng vổ muốn sạt bờ, hơi hướm Sài Gòn rồi sẽ vẫn đeo đẳng mãi bên tôi...

 

... Hơn năm năm làm cái nghề bị đời bắt làm-gương cho đám trẻ choi choi coi vậy mà rồi vẫn có những khe hở để trở ngược lại nơi chốn đã cho tui sống một thời... lung lăng rất mực. Kể ra cũng đáng công lặn lội...

Sự tình là vầy... Ở cái tỉnh nhỏ nơi tôi được sanh ra, làm như bị chặn kín bởi hai con sông lớn vây quanh, đời sống như bị trì kéo, giữ rịt lại với những ước lệ có đâu từ thuở ông tôi còn áo dài khăn đóng mỗi bận ra đình cúng vái, bà tôi còn làm nội tướng mà tối ngày chỉ lẩn quẩn nuôi con giữ cháu giữa bốn tấm vách nhà. Và ba má tui lúc nào cũng trịnh trọng khi ra đường vì cái mác... nhà giáo. Tới phiên tui thì không tiên-học-lễ-hậu-học-văn thì cũng là nam-nữ-thụ-thụ-bất-thân... Riết rồi tới nỗi mỗi lượt muốn nhảy rào chút đỉnh là cứ phải dòm trước ngó sau, canh chừng lỡ có ai quen biết bắt gặp. Mà thôi, tại vùng đất vốn là nơi đã được ông Phan Thanh Giản cho xây Văn Thánh Miếu thờ ông Khổng Tử rồi sau đó đã ung dung uống thuốc độc tự tử khi lỡ tay đánh mất một phần đất quê hương vào tay đám “bạch quỷ”.

Có điều, đất đai thì trăm năm tiết liệt vậy đó, mà từ khi độc lập rồi thì do nhu cầu phát triển đã phải mở cửa cho gió ngàn phương thi nhau lồng lộng. Đủ thứ chântrời-mới hiện ra cám dỗ. Nói chi đâu xa, hai tiếng Sài Gòn, thủ đô-nước-Nam-tự- do được quí vị ca sĩ tụng ca rân trời qua đài Phát Thanh Quốc Gia, trong bản GHÉ BẾN SÀI GÒN của ông Văn Phụng và Huyền Linh viết theo nhịp Pasodoble, trống kèn giựt giựt cứ làm cặp giò con nít cũng muốn giựt theo. Vậy rồi mơ Sài Gòn như hồn-bướm-mơ-tiên. Thiệt vậy, suốt những năm làm con nít, cứ mỗi lần được cha mẹ hay anh chị độ trì cho... du hí Sài Gòn là ôi thôi chẳng biết sao mà tôi đâm mê quá mạng. Ý là hồi đó, mười mấy tuổi đầu, lúc nào cũng có người lớn kè kè kế bên. Sài Gòn. Chợ Lớn. Đa-kao. Tân Định. Bàn Cờ. Cây Gõ. Cây Mai... bất kể miễn là được đi trên những đường phố có đèn xanh đèn đỏ, có ngã năm ngã bảy, có ông đi qua bà đi lại dập dìu... là cái đầu đang lớn như bỗng vọt tuốt lên cõi... thiên đàng. Hổng biết hồi đó New York náo nhiệt cỡ nào, hay Paris lộng lẫy tới đâu... chớ còn Sài Gòn thuở đó đúng là ngựa-xe-như-nước-áo-quầnnhư-nêm. Lại nữa còn được cho đi coi ciné máy lạnh, phim cao bồi-bắn súng từ Hollywood gởi sang. Rồi đại nhạc hội ở rạp Cathay v.v... Lại còn được cho đi ăn đồ Tây ở tiệm Tàu khu Chợ Cũ, đi ăn thịt heo quay với bánh bao ở tiệm Đồng Khánh, ăn hủ tiếu với pâté chaud tiệm Phan Thị Trước đường Lê Lợi... Ôi thôi, bao nhiêu là thú vui cùng món ngon vật lạ mà nếu cứ lẩn quẩn ở nơi chôn nhau cắt rúng thì phải nói là uổng cả một đời... con nít.

Cho đến khi chớp được cái bằng tú tài hai rồi thì là như chim sổ lồng, thoát khỏi sự kiểm soát đầy... thương yêu của cha mẹ để làm khách-giang-hồ-vặt ờ Sài Gòn thì thôi khỏi phải nói. Hồn trẻ thoáng chốc như Lưu Thần Nguyễn Triệu lạc đâu không lạc, lại lạc tới cõi... đào nguyên. Chàng tuổi trẻ, một sớm một chiều, chẳng cần học-tập-cải-tạo gì hết mà tự dưng đổi lốt cái một. Học gì thì khó mà học ăn với học chơi sao mà dễ ợt. Thoáng chốc, cao-bồi-hương-thôn biến thành tay-chơi-thành-phố. Quần blue jean với lại áo tetoron hở ngực rồi áo polo Montague láng lẩy nhập cảng từ Pháp, chân thì giày mocassin không vớ... St Germain des Prés hiện sinh tới đâu không biết chớ mấy cái Hầm Gió với lại La Pagode thì cứ đều chi. Tiền ba mẹ gởi cho cơm nước một tháng qua một tuần hết cái vèo. Rồi là húp phở, gặm bánh mì... thay cơm là thực đơn thường trực. Vậy đó mà lắm khi hè về, trường đóng cửa mà chân cứ lẩn quẩn vỉa hè Lê Lợi với lại quán xá Nancy, chẳng chịu quy hồi cố hương cho phải đạo. Hết biết. Thành-thật-khai-báo tới vậy kể ra cũng đã hết tình. Có điều, đó chỉ là một phần rất nhỏ của một kẻ học đòi. Mà thật ra, còn biết bao nhiều điều chưa nói hết vì chưa biết hết của Sài Gòn-như-chính-nó-là-nó, mà trước đó có lúc người ta phóng cho đại danh là Hòn Ngọc Viễn Đông. Thiệt tình chắc cũng có phần phóng đại. Có điều nếu không là ngọc thì cũng cỡ là ngà.

 

Bây giờ, hơn 50 năm sau muốn nhớ lại cũng không làm sao nhớ cho đủ. Từ cái thú rất mực phổ thông gọi là đi-bát-phố Lê Lợi chiều thứ bảy tới những khi lê lết phòng trà tiệm nhảy với chị em ca-ve chạy bàn như chạy giặc. Những ngày cuối tuần, Đại Nhạc Hội quy tụ toàn danh ca với lại danh hề. Phim ảnh quốc tế đủ kiểu đủ loại, rạp chiếu bóng thì đủ cỡ đủ hạng kể cả chiếu thường trực từ sớm tới khuya vừa coi vừa ngủ. Rạp Hưng Đạo với gánh cải lương Thanh Minh Thanh Nga mà người sành điệu vừa coi Tấm Lòng Của Biển vừa khóc. Rạp Olympic với gánh Kim Chung mà đào kép Bắc đổi giọng Nam để hát vọng cổ nghe ra cũng mùi rệu... Còn chuyện ăn nhậu thì thôi khỏi nói. Ai mà quên được ngã-tư-quốc-tế Bùi Viện với tiệm bán thịt rừng Thanh Hải đặc biệt với bia 33 ướp lạnh tới đặc sệt như nước đá bào. Rồi Đồng Khánh. Rồi Arc En Ciel. Rồi Sing Sing... Cà phê tây Givral với lại Brodard, cà phê Việt với nhạc Trịnh Công Sơn góc Pasteur với Hiền Vương, tiệm kem Mai Hương, nhà hàng Thanh Thế, nhà hàng Kim Sơn... tới không chỉ để ăn uống mà còn để ngồi lê đôi mách ngoài hàng ba với bạn bè cũng như để ngắm nghía những bước chân chiều-chủ-nhật. v.v.. và v.v...

 

Nhớ sao cho đủ nhớ, nhắc sao cho khỏi sót. Mà bỏ quên thì làm sao cho đành. Có điều rõ là trước tai-biến-ba-mươi-tháng-tư-bảy-mươi-lăm, Sài Gòn là cả một thế giới rộn ràng, nồng nàn hơi người và hừng hực sức sống. Dĩ nhiên có cái hay cũng có cái dở. Chắc không ai chối cải điều đó. Một thành phố với hơn hai triệu người, chen chúc đủ mọi thành phần, mọi tầng lớp, từ lớp Bình Dân Học Vụ tới hai ba Viện Đại Học, từ chùa Phật Ấn trong hẻm cùn tới chùa Xá Lợi tháp năm bảy tầng cao, từ nhà thờ Cha Tam nhỏ xíu tới Vương Cung Thánh Đường bề thế ở công trường Hòa Bình, từ phòng ngủ tối om trong Chợ Lớn tới khách sạn Caravelle sáng trưng... v.v... và v.v... Từ nho nhỏ tới lớn đại. Từ lụp xụp tới tráng lệ... Sài Gòn những năm 60-70 không thiếu gì hết. Từ ông triệu phú tới ông hành khất. Từ tay dao búa đứng bến tới ông tiến sĩ du học trở về phục vụ đất nước. Từ danh ca thượng hạng tới mầm non mới nhú. Từ ký-giả-đi-ăn-mày tới sinh-viên-tranh-đấu. Từ Phật Giáo xuống đường tới Công Giáo biểu tình... Từ nhà hàng sang trọng Continental chểm chệ góc Tự Do tới tiệm nước ngồi-ghế- đẩu-uống-xây-chừng trong ngõ hẻm. Từ xe đạp, xe solex tới vespa, từ xích-lô đạp tới xích-lô máy, từ xe Citroën-2-chevaux nhỏ xíu như xe ba gác tới Mercedes to đùng như bốn năm cái xe Citroën ghép lại tới xe bus xanh chen chúc như cá mòi đóng hộp. Từ mini jupe củn cởn tới hai vạt áo dài tha thướt mà ông Nguyên Sa đã tả là có hai-phần-gió-thổi-một-phần-mây. Từ tóc thề thả lửng ngang vai tới tóc ngắn củn cởn kiểu demi-garçon phơi ba ngấn cổ. Từ trường VIệt tới trường Tàu rồi trường Tây. Trường công rồi trường tư... Từ rượu thuốc ngâm cắc kè tới la-de 33 tới cognac Hennessy, từ cơm tấm Trần Quý Cáp tới bánh ướt chả lụa Ngã Sáu tới nghêu sò ốc hến Nguyễn Tri Phương, từ xe bò-bía tới mâm phá lấu góc đường Pasteur và nước mía Viễn Đông. v.v... tới v.v... Ăn uống đã khoái khẩu mà muốn ăn học cũng không thiếu gì. Mê chữ Tây thì có Pháp Văn Đồng Minh Hội. Thích chữ Anh thì có Hội Việt Mỹ. Khoái nói tiếng Đức thì đến Viện Goethe. Mê đờn ca hát xướng thì hổng Quốc Gia Âm Nhạc cũng Quốc Gia Kịch Nghệ. Mê vẽ vời thì Quốc Gia Cao Đẳng Mỹ Thuật. Trời, kể hoài chưa hết...

Lãi nhãi vậy chỉ để muốn nhắc lại rằng Sài Gòn-của-tui hồi đó đúng là chỗ để gọi là phồn hoa đô hội, đúng chữ văn minh thị tứ. Nói theo kiểu ông bà xưa khi sắp bí bèn phán rằng ở đó có... đủ thứ thập vật. Kể cả mớ lựu đạn được chuyển vô từ miền Bắc được giấu nhét đâu đó để rình mò giết người vô tội. Nghĩa là tốt xấu lành dữ hay dở, thiên thần và ác quỷ... cái gì cũng không thiếu.

 

Trở lại với Sài Gòn của-tui, còn biết bao điều để nhớ...

Chẳng hạn như cái chợ sách cũ trên vĩa hè Lê Lợi phía Bệnh Viện Đô Thành. Khách qua đường có thể tìm gặp bất cứ ai từ Socrate tới Heidegger, kể cả mấy ông Hegel với lại Karl Marx rồi J.P.Sartre hay Albert Camus hay J.D. Salinger với bản dịch Bắt Trẻ Đồng Xanh của Phùng Thăng Phùng Khánh... Erich Segal với Love Story hay Francoise Sagan với Bonjour Tristesse... từ ông tổ Đường Thi Lý Bạch tới Tây Du Ký với Tề Thiên Đại Thánh, từ Bà Huyện Thanh Quan tới Nguyễn Thị Hoàng hay từ ông Nguyễn Du tới Bùi Giáng... Xưa-trăm-năm đến hiện-đại nằm san sát bên nhau, bất phân màu da chủng tộc, triết lý hay nghệ thuật... Thử nghĩ đến một ông giáo quèn dạy học đâu miệt Sóc Trăng Bạc Liêu mà lại đam mê văn chương kim cổ, yêu sách báo như mỹ nhân, nhân kỳ nghĩ hè đi chơi Sài Gòn, có bữa nào đó lục tìm được sát bên lề đường một quyển truyện Truyền Kỳ Mạn Lục in hồi nào không biết mà giấy trổ vàng khè, với giá cỡ tô hủ tiếu Mỹ Tho của tiệm Thanh Xuân, chắc là ông ta vừa phủi bụi vừa... mừng hết lớn.

Có thể nói chính cái chợ-sách-bụi-đời này đã góp phần không nhỏ cho việc khích động, hình thành và hưng thịnh một nếp sinh hoạt tinh thần phong phú của miền Nam, thuở đó.

Rồi nghĩ tiếp tới tình cảnh một anh sinh viên con nhà nghèo mà lại hiếu học, sách thư viện trường sở chưa đủ, lục được trong mớ sách báo tây-ta-tàu-anhmỹ chen chút trên các kệ cao tới trần nhà của tiệm sách Khai Trí mà không có tiền mua. Anh ta có thể đứng ở đó, giữa chỗ mua bán của người ta mà đọc “cọp” để tra cứu một cách ung dung tự tại, hổng có ai đòi chút lệ phí nào. Mà phải vậy thôi đâu. Còn nữa, còn tiệm sách Tự Lực. Còn tiệm sách Xuân Thu... Còn nhiều lắm, những tiệm sách nho nhỏ trong xóm, những quán cóc bán sách báo mới trên bất cứ ngõ đường nào giữa Sài Gòn đang hồi trăm hoa đua nở. Còn nhớ thuở đó có một bức ảnh đen trắng của một phóng viên ngoại quốc, chụp hình một bác phu xe xích-lô, gá xe đục nắng dưới bóng mát một góc me già, ngồi gác chân chữ ngũ dựa ngửa vào lòng xe, dán mắt vào một tờ “nhật trình” mở rộng trên hai tay. Sự tương phản giữa hai hình thể đã biểu hiện ít nhiều về sự phát triển của xứ sở vừa thoát khỏi không lâu cơn mù tối. Ờ, Sài Gòn-của-tui đó. Mà muốn được vậy, ngoài mớ sách báo mới nhập cảng từ mọi miền thế giới, còn có những nhà xuất bản lớn nhỏ của tư nhân, bỏ tiền của in sách báo rồi bày bán, lời ăn lỗ chịu, ở khắp đô thành cùng với 49 tỉnh và 247 quận ở phía Nam sông Bến Hải, dù vẫn đang dang mình chịu đựng sự tàn phá của súng đạn điên khùng. Rõ ràng một bên lo xây dựng, một bên thẳng tay phá hoại. Đằng đẵng suốt 21 năm. Hết biết. -Theo một thống kê, thời đó cả miền Nam có 900 nhà in và 180 nhà xuất bản mà đa số có trụ sở ở Sài Gòn. Sau cái ngày tang thương năm ấy, đám người tự hào đứng chót vót trên đỉnh-cao-trí-tuệ đã hảnh diện tuyên bố thành tích đốt-cháy-700-tấn-sách-vở !!!- Hết nói nổi ! Tuy vậy trong góc tối của trí nhớ, những ai còn nặng lòng với chữ nghĩa sẽ không thể nào quên được khối sách vở thơm phức mùi giấy mới và mực in, được bày bán khắp mọi miền đất phía Nam sông Bến Hải... những tuần báo, bán nguyệt san, nguyệt san... như Bách Khoa, Sáng Tạo, Hiện Đại, Văn, Nghệ Thuật, Vấn Đề, Thế Kỷ Hai Mươi, Văn Nghệ Tiền Phong, Thời Nay, Phổ Thông, Phụ Nữ Diễn Đàn... cũng như những tờ nhật báo Chính Luận, Sóng Thần, Sài Gòn Mới, Tiếng Chuông, Trắng Đen, Lẽ Sống... được in ấn từ Sài Gòn, đã từng một thời là kho tri thức bách khoa và là nguồn tin tức cập nhật giúp cho con người bắt kịp nhịp sống đang từng ngày đổi mới.

 

Chắc cũng nên nhắc thêm, từ sau tháng 7 năm 1954, do chuyện chia cắt đất nước đã khiến hơn triệu người miền Bắc phải bỏ xứ di cư vào Nam. Trong số đó không ít người đã chọn Sài Gòn làm nơi “tái sinh”. Chính ở đó mà những Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Vũ Khắc Khoan, Mặc Đỗ, Hoàng Hải Thủy, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Nguyễn Đình Toàn... vừa-mới-Sài Gòn đã cùng với Bình Nguyên Lộc, Võ Phiến, Tô Thùy Yên, An Khê, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Lê Xuyên... vốn-đã-Sài Gòn, hè nhau sáng tác, đồng thời làm dậy lên luồng sinh khí mới, khích động những tài năng trẻ còn hàm tiếu, ở khắp mọi nơi của miền Nam nước Việt, rồi nhất thiết cũng qua ngõ Sài Gòn mà nở nụ mãn khai. Có thể hình dung Sài Gòn như một ngã ba sông, sẵn sàng đón nhận bất cứ nguồn nước nào đổ tới để rồi hợp lưu thành trường giang bát ngát. Người tứ xứ đổ về để hợp nhất làm vinh vang một Sài Gòn không chỉ hoa lệ phố phường mà còn hoa lệ trong sinh hoạt văn học nghệ thuật. Từ Sài Gòn đã phát sinh một nền văn học mới, thay thế nền văn học đã cỗi, bằng một thứ ngôn ngữ văn chương hoặc tân kỳ, hoa mỹ hoặc bình dị, hiện thực. Từ đó, chợ-văn của Sài Gòn rộn rịp quanh năm suốt tháng không kém gì cảnh náo nhiệt của chợ Bến Thành, những ngày cận tết.

Bên cạnh đó, những phòng tranh và Hội Họa Sĩ Trẻ cũng như không ít người viết nhạc cũng đã từ Sài Gòn mà làm nên sự nghiệp. Nghĩ cho cùng, chính cái nếp sống rộn rã mà đầy cảm tính của một thành phố đang trên đà đổi mới, cũng như một nếp tinh thần cởi mở, đầy nhân tính để thỏa hiệp tuyệt vời với mọi lý tưởng nghệ thuật, đã tạo ra nguồn sinh lực mới cùng với những cảm hứng mới, thúc đẩy người nghệ sĩ sáng tạo. Và sáng tạo. Và từ đó, những tuyệt phẩm.

 

Cái điều tui muốn khoe Sài Gòn-của-tui thật ra chính là chỗ đó. Sài Gòn-của-tui ăn chơi hết biết, ăn ngon hết nói, ăn diện hết sẩy thiệt ra mới chỉ là phơn phớt ngoài da của một thực thể muôn mặt, mà tuyệt vời nhất là tiềm ẩn bên trong bát ngát một nguồn sáng tạo với hồn tính dân tộc, rất mực nhân bản và thật sự khai phóng. Điều tui muốn nhận bừa, nhận đại Sài Gòn-của-tui chính là chuyện này. Vì cũng chính những thứ độc đáo hết mức này đã tạo cho Sài-Gòn một sức quyến rũ lạ lùng.

Những năm tháng đó, qua lại Sài-Gòn với ngã tư, ngã năm, ngã sáu, ngã bảy, xe bốn bánh, xe hai bánh, khách bộ hành hai chân... tới lui nườm nượp giữa nắng sáng mưa chiều mà sao vẫn có chỗ cho người ta sống và mơ mộng. Cả một nếp sinh hoạt hừng hực với những ước vọng đổi mới của lớp người trẻ đang háo hức cởi bỏ những lề thói thủ cựu nhằm vươn lên và vói kịp tới những trào lưu tư tưởng, học thuật mới đang phát triển trên thế giới. Chính mớ sách vở được tự do lưu hành đó đã như những cánh chim bằng chở hồn người ra muôn dặm, tới những chân trời mới lạ để học hỏi và ứng dụng. Dẫu vậy, vẫn thủy chung như nhứt với những truyền thống tốt đẹp của cha ông. Sự dung hòa đó tạo ra một lối sống đi giây giữa hai đối cực, thú vị một cách lạ thường. Bên cạnh cái quyến rũ của đổi mới tây phương vẫn lấp lửng cái e ấp rụt rè của đông phương. Chính ở Sài Gòn chớ không một chỗ nào khác đã phát sinh một lối sống Âu Á đề huề, Tây Đông rất mực sòng phẳng. Và thú vị. Thử nghĩ đến hình ảnh của một cặp tình nhân trẻ tuổi, cô nàng dạn dĩ trong lớp y phục tây phương mà vẫn rụt rè trong mắt nhìn hay tay nắm của tình nhân. Thú vị và thi vị đó chớ. Sài-Gòn-của-tui đó.

 

Trong khi đó, ra khỏi Sài-Gòn xuôi về Lục tỉnh hay đổ ngược ra Trung, ở những tỉnh nhỏ, tuốt xuống những làng quê, do điều kiện địa lý, gần như có một sự cách biệt rõ ràng từ lề lối suy nghĩ tới phong cách ăn ở. Người dân tỉnh nhỏ với hình thể sông núi cách trở, ít tiếp xúc với thế giới bên ngoài, thường có nếp sống khép kín, giữ rịt lấy phong tục xưa. Lề thói ông bà biểu sao làm vậy. Ba cái châm ngôn có đâu từ thời ông Khổng Tử vẫn được nhắc tới nhắc lui. Có điều riết rồi như thiu ngủ đâm ra cũng ngại ngùng thay đổi. Sống ở tỉnh nhỏ như sống trong một cái lồng kín, chật chội. Trai gái lớn lên, chỉ còn nước bỏ quê mà lên... tỉnh rồi dông tuốt lên... Sài Gòn.

Rốt lại chỉ còn cái đất Sài Gòn, hằng ngày máy bay, tàu bè... mang theo sách vở, phim ảnh... cùng với những phương tiện truyền thông tân tiến từ khắp mọi nơi đổ xô tới với mọi nguồn văn minh khác biệt. Thêm nữa, sự hiện diện của những người ngoại quốc đến đi hằng ngày với phong cách và lối sống đặc thù. Sự cọ xát văn hóa thường xuyên đó- phong tục, tập quán cũng như những phát minh, sáng tạo- là dịp may để Sài Gòn, vốn đã trễ bước hơn thiên hạ, có dịp so đo, học hỏi cũng như phán đoán, nhận thức ra chỗ hay chỗ dở, thứ nên giữ thứ cũng nên bớt đi. Và từ đó, những đổi mới... Mà rồi dù có mới tới đâu đi nữa cũng không bỏ gốc rễ vốn bàng bạc tình người, vẫn là chất liệu nuôi dưỡng dân tộc tự đã ngàn năm, dẫu có là truyền thuyết.

Tại vậy chăng, mà chừng như sau hơn mươi năm qua lại Sài Gòn đã tạo cho kẻ vốn ăn nhờ ở đậu một nhân sinh quan cởi mở và bao dung, một thẩm mỹ quan vừa cổ điển vừa tân thời, khả dĩ nhận ra được cái đẹp ẩn tàng trong từng đối tượng dị biệt, cũng như tìm ra được lối ngõ cho sự hòa hợp kỳ diệu của những dị biệt đó trong nghệ thuật. Và cả trong đời sống.

Nói nghe như quảng cáo. Hay lậm kiểu tuyên truyền. Mà thật sự Sài Gòn của tui có cần đâu. Cái ĐẸP đã có đó. Lồ lộ.

 

Vậy đó mà rồi có ai ngờ, đùng cái mất hết. Mất từ tiếng xe thổ mộ buổi sáng tinh sương mất đi. Mất từ tiếng rao hàng khuya khoắt mất lại. Mất luôn những sớm nắng chiều mưa giữa phố đông người mà chưa hề lạc lõng vì Sài Gòn đã dang tay ôm hết vào lòng mọi kẻ lỡ tha phương.

Vậy mà rồi đến lúc lại lạ lẫm như người dưng nước lã.

Cả một thành phố hoa lệ rồi chìm trong sự hổn độn của những làn sóng xe cộ len lách bất kể phải trái, trong những cơn mưa lũ ngập phố ngập nhà dưới bóng mấy tòa nhà chọc trời cao nghểu nghến, những bảng tên đường lạ hoắc chỉ có trong trí tưởng cuồng tín, những công trình xây dựng bỏ dở nửa chừng ngổn ngang gạch đá, những phố-đêm ngập ngụa phấn son trơ trẻn da thịt... , mất theo những hàng cây cổ thụ trăm năm bị đốn ngang xương để giải-phóng-mặt-bằng̣ , những phố-xưa-cổ-tích bị đập phá thẳng tay... , mất theo thân xác những ngườicon-gái-việt-nam-da-vàng, mượn chữ của ông Trịnh Công Sơn, cởi quần cởi áo nhảy cởn ngoài đường để mừng mấy trái banh đá lọt lưới, mất trong dáng người xiêu vẹo của bà cụ già lưng còng tới hết chỗ cong đến đứa bé tuổi còn non xèo như nụ mầm mới nhú đã phải dang thân đi rao bán từng tấm vé số... mất trong những cuộc trao đổi chia chác đất đai tiền bạc của đám cầm quyền, trong những tấm biểu ngữ huyênh hoang đến độ ngây ngô, trong màu cờ nhuộm đỏ phố phường tưởng như rực máu... Mất và mất mà chẳng biết làm sao kể hết !!! Nhất là thứ mất mát mà hết biết làm sao kể ra cho rõ. Hình như thế giới văn minh kêu là gia tài văn hóa. Nghe ra thì có vẻ cũng quá đáng. Tuy nhiên Sài Gòn-của-tui vẫn để lại một cái-gì-đó. Cái thứ không hình thù, chẳng có trọng lượng... nhưng có đó. Và làm nên đặc thù của một đô thị có nếp sống văn hóa riêng.

 

Quả vậy, từ thành phố mất tên đã mất luôn cả hồn tính của nó. Thứ hồn tính ẩn hiện trong từng viên đá, gốc cây, từng nẻo đi đường về... và những nấm mộ nằm im lìm đâu đó, suốt cả trăm năm lịch sử đã hun đúc nên một phong cách sống lịch sự, kiểu văn-minh-đô-thị, đã chắt chiu qua bao thế hệ học hỏi, lựa lọc sau hơn thế kỷ tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Kiểu đổi mới mà vẫn tôn trọng nề nếp cũ, pha trộn khéo léo từ lối ăn ở, cách phục sức đến câu hỏi tiếng chào, với chữ nghĩa nghe ra vừa lịch thiệp vừa thân mật. Và tử tế. Vâng, và tử tế. Ý là chưa kể đến mớ kiến thức mới tinh về mọi địa hạt, học hỏi từ Tây phương vốn đã được chắt lọc suốt hai mươi thế kỷ. Đến nỗi khi mọi chuyện đã tan hoang, có người sau khi lội dọc Trường Sơn từ Bắc vào Nam rồi mới bật ngửa ra khóc ngất khi thấy rõ ràng là đã nghe lời dối trá mà đi... giải phóng ngược !!! Hết biết ! Cả một nếp sống đẹp và nhân bản vậy mà rồi bị thẳng tay “cải tạo” để đến bây giờ, bây giờ thì ngay cả tiếng mẹ đẻ thôi cũng bị đổi chữ sửa lời vừa dấm dẳn vừa thô thiển nghe ra cứ tưởng chừng người... nước lạ đang chế giễu tiếng nước mình ! Cũng như trong lối cư xử hằng ngày không lấy gì làm thân thiện, trong cách ăn diện màu quần sắc áo không lấy gì làm trang nhã, trong lối học đòi thiên hạ hơi quá bung thùa... mà thiếu phần bảo trọng nề nếp truyền thống của ông cha. Sau non nửa thế kỷ đổi tên, đất còn đó mà hồn đất đã xiêu dạt đâu đâu đến nỗi còn người ở đó mà hẵn là Sài Gòn không có đó. Ôi Sài Gòn-của-tui !

 

Giờ này, ở một nơi xa tít mù xa, khi ngày đã mỏi, đêm chờn vờn mộng lớn không thành, lấy gì để dổ những cơn buồn bất chợt. Thành phố đó bị đổi tên, sau khi đã phí phạm không biết bao nhiêu là máu xương và nước mắt một cách vô nhân, vô đạo, vô hậu kể cả vô duyên và vô hiệu đến vô cùng ! Bởi vì chắc mẻm như một với một là hai, cái chuyện thay đổi địa danh cũng đã xảy ra hà rầm trong lịch sử. Mốt mai rồi đổi lại mấy hồi. Kiểu như Leningrad với lại Stalingrad...

 

Chỉ tiếc là ở cuối đường sinh tử biết có còn vui kịp hay không. Thì thôi, xin sửa lại một câu viết của nhà văn nữ Túy Hồng khi nhớ về xứ Huế quê mình. Đại khái Huế là nơi đi để mà nhớ chớ không phải là chỗ ở để mà thương.

Còn Sài Gòn-của-tui ?

-Sài Gòn-của-tui là nơi ở để mà thương !

Và đi để mà nhớ !!!

 

Cao Vị Khanh

SÁNG TINH MƠ, IN SÁCH

-gởi theo TRẦN HOÀI THƯ, mất ngày 27 tháng 5 năm 2024-

Lưng còng, mắt mõi, tay run,

anh ngồi in sách, lệ chùng xưa sau.

Một con chữ, mấy niềm đau.

Một dấu chấm, mấy lần khâu miệng tình.

Những khuya, khuya tới làm thinh !

Những mai sớm, sớm đến tận tình cô đơn !

Anh ngồi in sách vào hồn

mà nghe tàn rữa phấn son đời mình.

c a o v ị k h a n h

LỆ-Saigon

Cho tôi khóc, Lệ-sàigòn

vài mươi năm lẻ đủ mòn nhớ thương !

Dáng mây thả lỏng. Môi hường.

Áo tà sút sổ. Tình rươn rướn. Chìu.

Sóng đôi, đúng độ vừa yêu.

Gác khuya. Phòng vắng. Lòng xiêu lạc lòng.

Đam mê. Đời cũng bằng không.

Chiến tranh. Thân phận. Núi sông. Mặc dù.

Môi kề hồn đã thiên thu,

trăm năm đã tưởng đền bù trúc mai !

.......

Tháng tư ngắn. Đoạn trường dài.

Máu xương chưa đủ. Đọa đày chưa thôi.

........

........

Sinh ly. Vụt cái bên trời,

người đi chẳng kịp nửa lời thở than.

Mười mươi năm mộng tan hoang,

người ở lại lệ hàng hàng.

Vậy thôi !

Quê hương. Đất khổ và Người.

Cvk

cvk_chuyenchieccau.jpg

Đã lâu lắm tôi không về lại Việt Nam. Nói vậy không có nghĩa là tôi không nhớ quê hay nhớ ít hơn những người đi đi về về từ mấy năm nay. Không, tôi nhớ quê tôi lắm chớ. Tôi nhớ đâu ngay từ khi mới vừa đặt chân xuống ghe trong đêm vượt biên. Nỗi nhớ như những lọn máu nhỏ từ đời kiếp nào vẫn chảy rì rầm trong trái tim héo mỏi. Tôi có quên đâu. Thấp thoáng giữa đám lau lách của trí nhớ bội bạc, quê hương vẫn còn đó, lẻ loi như một bông cúc vàng nở muộn, đẹp đến xót xa. Tôi nhớ quê như một người tình bị phụ rẫy nhớ lời đay nghiến. Dù là một lời đay nghiến. Vậy mà tôi không về. Hay chưa về lại đó một lần. Nghe thì rắc rối như bày đặt. Nhưng mà cuộc đời cũng có suôn sẻ gì đâu.

Những năm mười tám, đôi mươi từ tỉnh nhỏ lên Sài Gòn trọ học, cách quê đâu chừng trên trăm cây số là tôi đã bắt đầu thấy nhớ. Lạ vậy đó. Vẫn có những chiều đang lang thang giữa phố, lòng bỗng nhiên chùng xuống khi chợt thấy chân mình lỡ đạp trùng lên mấy lọn nắng cũ vàng hoe. Hay những sớm thức dậy bỗng thấy buồn ngang vì một tiếng xe thổ mộ lăn lóc cóc đều đều như gõ nhịp vào thiên cổ. Có một cái gì trùng lẫn ở đâu đây. Như đã gặp rồi đâu đó, quen quen. Như đã nghe rồi đâu đó, mài mại. Ly hương, người đi xa tưởng là bỏ hình lại ở chốn cũ mà quên rằng bóng cứ lúc thúc theo sau. Nó cặp kè, léo lách, lẩn lút loanh quanh. Cứ như vậy mà dằng co níu kéo. Hết nhớ rồi quên. Hết quên rồi lại nhớ. Riết rồi tôi cứ thả mặc cho dòng đời xốc nổi, bởi gốc vốn từ đất ruộng bốc bụi bay đi thì làm sao chẳng có lúc tấp lại bên đường mà không nhớ xó đất quê!

Vậy đó, suốt mấy năm lang bạt ở Sài Gòn, dẫu người ở phố thị mà lòng vẫn đặc sệt nhà quê. Hở ra là nhớ. Nhớ từ cọng cỏ ướt sương nhớ đi. Nhớ từ bụi lúa trổ đòng đòng nhớ lại. Người tình đầu đời sao tôi quên cái một. Mà khoảnh đất quê nhà sao tôi nhớ hoài. Có lúc tôi thấy thèm về ngồi lại trên bực đá lở bên bờ sông Cái, một buổi trưa hè, lượm đá thảy lia thia trên mặt sóng mà đầu thì thả lông bông như một người vô tích sự. Có lúc tôi muốn được quay lại bãi cỏ xanh cạnh ngôi đền văn miếu cũ, chắp hai tay sau gáy nằm dài ra đó ngó lơ mơ ngủ dật dờ mặc cho cuộc đời xoay trở chung quanh. Cả cái tỉnh nhỏ mà gần như ai nấy đều biết mặt nhau, ở thì rầu muốn chết mà đi xa thì nhớ đến đứt ruột. Nhớ đủ thứ. Kể cả những thứ không đáng nhớ. Nói gì đến thứ không thể nào quên. 

Như cái bến phà Mỹ Thuận vậy đó, tôi đã đi qua lần đầu đâu thuở chín mười tuổi rồi cứ nhớ hoài mặc dầu sau này, lớn lên đã qua không biết bao nhiêu là bến đợi khác. Có một cái gì lạ lắm như nối kết tôi, thằng con trai sinh ra và lớn lên ở bên này sông cứ nhìn ngó bên kia sông như chót đỉnh của một giấc mơ phiêu lãng. Có phải con sông lớn mênh mông đó như một ranh giới vô tình đã chằng giữ những cơn mơ tuổi nhỏ. Hay chính những lượn sóng cuồn cuộn đó đã một thời đẩy đưa hồn tôi phiêu lưu đến những chân trời xa tít. Bằng lý do nào, thì đó vẫn là nơi ưa thích nhất và cũng là nơi tôi nhớ nhiều nhất. Nhất là từ lúc biết mình khó có dịp qua lại nữa.

Những năm mới bỏ xứ ra đi, năm ba hôm là lại chiêm bao thấy về quê cũ. Mà lần nào cũng vậy, cũng thấy mình trễ nãi, về tới bến rồi mà cứ hụt hoài chuyến phà chót qua sông… Thẫn thờ đứng lại đó, nhìn ngó bâng quơ rồi thấy lại y nguyên cái cõi thân quen, y nguyên như khi đời còn thơm thảo. Từng mặt người, lối tắt, đường quanh… 

Nghĩ lại cũng lạ. Lội sông lội suối đã đời rồi mà rốt lại chỉ nhớ có khúc sông trắc trở đó thôi. Dĩ nhiên điều đó chắc không ăn nhằm gì với cái vị trí quan trọng của nó trong việc thông thương ở miền tây. Quốc lộ số 4 từ Sài Gòn xuôi nam đến đó là phải khựng lại. Sông rộng mênh mông, tách nguồn từ Tiền Giang ở phía bắc chảy nghiêng nghiêng theo hướng tây nam đến đó phát đổ ròng ròng đến sạt bờ lở bãi. Thuở ấy, tiền bạc và kỹ thuật chắc còn non yếu quá, người ta chưa đủ sức bắc cầu. Xe đò, xe hàng tới đó là phải đậu lại, sắp hàng dài thậm thượt đợi lượt xuống phà qua sông. Gặp lúc có công-voa nhà binh chiếm ưu tiên là thôi chờ đợi dài người ra. Xe cộ phì phò hục hặc, khách khứa nhốn nháo, mấy chú lơ xe hấp ta hấp tấp xách thùng xuống sông múc nước đổ cho nguội máy, mấy bà mấy cô cũng vội vội vàng vàng chạy tìm mấy chỗ giải thủy cho nhẹ mình, khi thì bờ ruộng lúc lại mấy lùm cây khuất khuất hở hở. Cái hoạt cảnh ồn ào náo nhiệt không có chỗ nào giống được. Lạ lắm. Làm như đó là một nơi người ta rất mong cho mau tới, mà tới rồi lại cứ mong cho mau đi. 

Nói vậy mà lỡ có kẹt lại lâu lâu thì cũng chẳng lấy gì làm phiền hà cho lắm. Xe tắt máy, khách bước xuống bãi đậu, vung vai vặn mình vài cái cho giãn gân cốt rồi là miệng chắt lưỡi, hoặc lầm thầm rủa xả vài tiếng trong khi chân thì xắn xả nhắm hướng mấy cái quán nước hai bên đường. Mấy chốc, đời vui trở lại. Giữa đồng không rồi bỗng thành ra một buổi chợ đông. Hai bên lộ, người ta che bạt, dựng chòi lợp lá, khá hơn chút gá vài ba tấm tôn, khá hơn chút nữa tụ lại thành một dãy tiệm có cửa nẻo hẳn hòi. Mà điều lều trại hay phố xá cũng đều xập xệ như chỉ để che mưa đụt nắng qua ngày. Ờ mà đúng vậy, có ai mà nghĩ được ghé qua đây rồi ở lại luôn đây. Cái chỗ giữa đường giữa xá!

Hàng hóa thì chưng dọn luông tuồng đến luộm thuộm, đồ khô trộn lộn với đồ tươi, bánh mứt xen kẽ với túi xách giỏ đệm, đồ ăn thức uống tràn ra tới lề đường vậy mà len qua lách lại sao thấy ngồ ngộ y như những cái ngoắc tay khều vai bá cổ. Bởi vậy người qua lại rồi thấy vui tai lạ mắt. Rồi ai nấy cũng thành ra dễ tánh. Vậy đó đời vui biết mấy. Cái chỗ không phân biệt giàu nghèo sang hèn, ai đến rồi cũng phải lội bộ ngang qua. Đã không tránh được thì sao không hả lòng ra mà hưởng. Mà hơn nữa, thực phẩm trần gian thì bày ra ê hề mời đón. Người đi xa lỡ độ đường chưa đói vẫn nghe ruột dạ cồn cào. Cơm nước trái cây bốn mùa, mùa nào thức nấy. Cứ nhìn mấy giỏ mận hồng đào chín mọng là bắt khát nước, mấy giỏ ổi xá-lỵ căng da xanh mướt mà phát thèm. Những xâu mía ghim tươm nước ngọt như đọng sương mai, những trái khóm Bến Lức xẻ năm xẻ bảy rịn mật vàng lườm, những chùm nem Nha Mân treo xum xoe ngả ngớn… Điệu đời hơn nữa, những xâu chim trao trảo quay vàng ngậy, chảy mỡ bóng lưỡng chấp chới trong lồng kiếng, quyến rũ còn hơn cao lâu Chợ Lớn. Kế bên, mấy miếng thịt sườn nướng than tại chỗ bốc mùi thơm thấu tới thiên đình. Kề đó, mấy chai bia con cọp sắp hàng dọc ngang như nghinh nghinh thách đố ai mà chịu nổi. Bởi vậy mà  khách giang hồ  qua đó thế nào rồi cũng phải có lần ngả bàn nhậu dọc đường. Mà bởi vậy khách đa tình qua đó cũng không thiếu người vướng lại những cuộc tình tứ chiếng. Bà lớn bà nhỏ em gái em nuôi gì không biết chớ chuyện ghen bóng ghen gió vẫn xảy ra hà rằm làm cho cái bến đỗ vốn đã ồn ào lại được thêm phần…ầm ĩ.

 

Nhưng mà tại sao là Mỹ Thuận mà không là một cái bến khác. Dọc theo miền tây còn bao nhiêu là bến phà. Vàm Cống, Cần Thơ, Rạch Miễu, Chợ Gạo, Cổ Chiên … sao không nhớ. Mà chỉ nhớ rặt có Mỹ Thuận? Hay tại tôi cũng nòi tình như ông cò quận chín trong tuồng cải lương Tuyệt tình ca có bà vợ nhỏ ở Vĩnh Long đã chèo xuồng đưa chồng qua sông Mỹ Thuận, về Mỹ Tho thăm vợ lớn rồi biệt tăm biệt tích luôn mấy chục năm trời. Không, tôi biết cái bến phà đó từ lúc còn rất nhỏ, chưa tới tuổi có một vợ chớ đừng nói tới vợ hai. Kỷ niệm của tôi với cái bến phà đó không dính líu gì hết tới mấy cái chuyện tình duyên tấm mẳn. Nó chỉ dính líu tới cái tuổi nhỏ mà mộng lớn của tôi thôi.

 

Vốn là quê tôi cách bến phà Mỹ Thuận đâu chừng chín mười cây số gì đó. Con đường nối liền bến nước với tỉnh lỵ chạy qua những thửa ruộng nho nhỏ cắt chia bằng mấy bờ đê lúp xúp, ngang qua vài xóm nhà lá lụp xụp và một hai chiếc cầu xi-măng làm điệu bắt cong cong. Con đường hiền lành thơ mộng một cách quê mùa, cũng chẳng có gì là đặc sắc. Chỉ có điều con đường đó là cái ngõ thoát êm đềm nhất để chạy trốn nhịp sống trì trì nhàm chán của tỉnh nhỏ buồn hiu. Con đường là cái gạch nối ngắn nhất đưa đứa con trai mới lớn từ thực tế vây khốn đến mộng mị phiêu lãng qua trung gian là cái bến phà rộn rịp đầy khách lữ hành xuôi ngược. Lần đầu tiên qua đó một lần năm chín tuổi là bắt mê ngay cái không khí chộn rộn, tất tả, lăng xăng của kẻ đến người đi, của người qua kẻ lại làm như ai nấy đều vội vã lắm. Người ta sốt ruột trông cho mau đến, đến rồi sốt ruột trông cho mau đi, đi hấp ta hấp tấp như chỉ sợ trễ một chuyến qua sông là sẽ trễ luôn cả một cuộc đời. Làm như cuộc sống không chịu ngừng lại một chút, cứ phải là những chuyến lên đường.

 

Ờ, những chuyến lên đường! Hình ảnh những khách bộ hành lật đật xuống xe, tay xách nách mang kéo nhau đi như chạy qua phà là cái biểu lộ tuyệt diệu nhất cho sức hút của dặm trường thiên lý, của kiểu đời gạo chợ nước sông đã làm tôi mê mẩn suốt một thời mới lớn.

 

Hình dung trở lại đứa trẻ sinh ra ở một tỉnh nhỏ lần đầu tiên được cha mẹ dẫn cho đi Sài Gòn. Chuyến xe tài nhứt khởi hành đâu khoảng bốn giờ sáng. Trời gần tết đẫm sương. Lòng xe tối mò. Hơi khói xăng xông lên mũi kích thích. Đứa bé cố nhướng mắt thật to để nhìn cho hết con đường mơ trước mặt. Mà có được đâu. Cái ngủ đậu chực hờ trên mí mắt. Tiếng xe chạy ù ù càng ru thêm đến chín muồi. Nó chịu thua. Nhưng mà mới ngủ gà ngủ gật đâu được một chút đã giựt mình nghe tiếng anh lơ la oang oang. Bà con cô bác xuống xe qua đò. Có ăn gì thì xả rác trong xe bà con ơi…Đứa bé giựt mình mở choàng mắt dậy. Ôi thôi đâu mà đèn đuốc sáng trưng. Người qua lại rộn rịp, kêu réo thúc hối kèn cựa tự nhiên như giữa chỗ không người. Đứa bé ngơ ngác tưởng trong chiêm bao. Bỡ ngỡ, chớp chớp con mắt mấy cái là tỉnh như sáo sậu. Nó khoái chí dòm cái hoạt cảnh mới thấy lần đầu. À thì ra người ta có ngủ như nó đâu. Người ta đi đi lại lại, chạy tới chạy lui, cười giỡn nạnh hẹ nhau suốt đêm suốt ngày. Cái cõi người lớn này lạ thiệt. Đêm hào hứng như vậy cách chỗ nó ở có bao xa, bằng đâu một chớp mắt thôi. Vậy mà ở nhà mới chạng vạng ba má đã bắt nó phải lên giường ngủ một mạch cho tới sáng trưng. Như vậy ở ngoài căn nhà nó ở, ngoài con đường tráng nhựa nó đi tới trường hàng ngày, ngoài ngôi chợ lớn cạnh bờ sông thỉnh thoảng có mấy gánh sơn đông về múa võ bán cao-đơn-hườn-tán, ngoài cái rạp xi-nê chiếu phim cao bồi bắn lộn với mọi da đỏ… còn có cả một thế giới lạ lùng, vui tươi, rộn rịp, chờn vờn một sức sống mãnh liệt, bừng bừng ngay kề bên cái phố nhỏ buồn hiu của nó. Đúng là cả một khám phá kỳ diệu. Xe chạy chậm lại rồi rà rà tìm chỗ đậu. Mọi người lục tục xuống xe. Thằng bé nắm chặt tay mẹ đi những bước như nhảy. Nó cố làm ra vẻ người lớn như để được hòa hết mình vào cái thế giới sôi sùng sục quanh nó. Nó nở mũi hít thật dài một hơi không khí mát lạnh từ ngoài sông thổi tới, thấy như hít luôn cả cái chộn rộn của đoàn người đang vội vã đi bên cạnh, luôn cả cái mùi kỳ lạ pha trộn đủ thứ thập vật trần gian: hơi người, hơi gà vịt treo buộc tòn teng dưới cặp đòn gánh của mấy bà bạn hàng, hơi trái cây vừa mới hái đổ đống trên sạp, hơi nước lèo của mấy xe hủ tiếu thơm phức, hơi xăng nhớt nồng nồng, cả hơi tinh sương của một ngày đang trỗi dậy. Trong khi đó đoàn xe chạy chậm chậm cẩn thận từng chiếc một xuống phà theo sự chỉ dẫn của ông “xếp bắc”, miệng ngậm tu-huýt mặt câng câng như tự thấy mình quá sức quan trọng. Mỗi chiếc xe bò lên cầu từ tốn, vừa chạy vừa run run chắc vì lòng cầu nhỏ quá chỉ vừa lọt chí mí. Kề bên một anh lơ chạy lúp xúp tay cầm cục gỗ chặn như để sẵn sàng can thiệp khi xe lỡ trớn. Chiếc cầu sắt lót ván kêu rần rần dưới vòng bánh xe nặng trịch. Xe chạy tới đầu “bông-tông” thì ngừng lại, khục khà khục khặc như vừa thấy nguy hiểm chờn vờn trước mặt. Mà nguy hiểm thật. Ở giữa “bông-tông” là một cái cầu quay hình chữ thập, bề ngang đâu cũng chỉ vừa lọt hai bánh xe, cái nhánh thẳng nối với đường cầu đâu chỉ dài hơn chiều dài chiếc xe đò một chút mà lại đâm thẳng ra dòng sông đang chảy cuồn cuộn. Ngó mà thấy rùng mình. Hèn chi ngay đầu cầu lúc nãy thấy có một tấm bảng đỏ ghi mấy hàng chữ trắng: ”Coi chừng thử thắng xe qua phà”. Điệu này không khéo xe chạy tuốt xuống sông như chơi. À thì ra tại vậy người ta bắt bộ hành xuống xe đi bộ, bỏ mặc chiếc xe với ông tài xế thử thời vận. Mà chắc cũng quen rồi vì ông tài xế coi bộ bình tĩnh lắm, miệng ngậm trệch điếu thuốc lá, từ từ rà thắng cho xe rề rề chạy xuống tới mút bửng cầu thì ngừng lại đúng lúc ông kiểm soát khoác hai tay ra dấu ngừng. Tất cả ăn khớp đúng phốc như dứt hết sáu câu mà rơi ngay đúng nhịp song lang. Tức tốc, anh lơ xe chêm ngay hai khúc cây chặn cứng hai bánh xe hết đường nhúc nhích. Rồi đợi đâu sẵn, bốn người phu đứng ngay bốn đầu cầu quay, người kéo người đẩy vận sức xoay bàn cầu quay một phần tư vòng tròn cho đầu mũi xe hướng ngay mũi phà đã hạ bửng đợi sẵn. Chiếc xe rú một hơi dài rồi chồm lên chạy xuống phà. Vậy là xong một chiếc xe. Phà nhỏ chở được có bốn năm xe là đầy một chuyến. Ông tài công ngồi tuốt trên phòng lái ra lệnh dở bửng. Ai đó đánh một tiếng kẻng. Vậy là coi như nội ngoại bất xuất, trên dưới không được lên xuống nữa, hành khách và xe cộ không được chộn rộn chàng ràng nữa. Phà dỡ đõi rồi từ từ lùi ra bến. Trời hưng hửng sáng. Gió bốc theo khói sóng thổi phần phật mấy tấm bạt che hàng trên mui xe. Nước bắn tung toé hai bên thành phà làm ướt nhem mấy dãy băng dành cho hành khách. Mặt trời hà tiện chút ánh sáng vàng cam không soi nổi con sông lớn quẫy sóng đen ngòm. Phà chạy chậm như thong thả lắm hay là tại không có sức nhanh hơn. Máy nổ rì rì đến sốt ruột. Ngồi trên mấy cái băng gỗ có lúc người ta tưởng chừng như đang đứng yên một chỗ nếu không có mấy dề lục bình trôi phăng phăng ngược chiều. Gặp mùa lũ chướng xem chừng phà còn nhàn nhã hơn nữa. Phà qua ngang không nổi, phải thả trôi theo con nước xuống tuốt đuôi cồn rồi mới ì ạch vòng lên phía bờ bên kia. Như vậy mà chắc ăn nếu không phà tròng trành có thể lật ngang như chơi. Vậy mà thằng bé vẫn khoái như thường. Dễ chừng nó còn mong cho lâu tới nữa. Đâu phải lúc nào cũng được đi trên sông một cách nghênh ngang như vậy, ngó mấy chiếc tam bản chèo chống lê thê bị sóng tàu nhồi đờ đẫn mà tội nghiệp. Nó ngửa mặt hứng mấy giọt nước bay trong gió, tóc dựng đứng như bờm ngựa, lòng mơn man một nỗi vui kỳ lạ. Cùng lúc trời lộ hết bình minh. Con sông hiện rõ dần, lớn lao, chói lọi, bất trắc và mê hoặc như một huyền nhiệm. Đứa bé thấy con sông và bến nước lần đầu tiên mà sao có cảm tưởng như sẽ thấy đến hết đời. Tấm lòng nhỏ xíu của nó như đã dành một chỗ rất lớn cho khoảnh sông nước đó. Nó chăm bẵm cái hình ảnh của thiên nhiên cựa mình sống dậy như một khám phá bất ngờ. Và lớn lên một cách đột ngột, từ đó.

Như vậy mà tôi qua phà Mỹ Thuận lần thứ nhất. Tôi trở ngược lại qua phà lần thứ hai ít ngày sau gì đó. Cũng y như lần đầu. Chỉ khác là vào buổi chiều, trời sắp tắt nắng. Bóng đêm chực chờ càng làm con sông, chiếc phà và người ta thêm gấp gáp. Cũng cái vội vã thêm một chút lo lắng. Cũng cái ồn ào nhưng bớt đi một chút náo nhiệt. Nhưng không có vẻ gì là sắp ngừng nghỉ. Sông nước có thôi chảy đâu. Và người ta cũng đâu có hết lên đường. Ở đó là hình ảnh một dòng sống không có khởi đầu và cũng không có kết thúc.

 

Có phải tại vậy mà tôi mê cái bến Mỹ Thuận hay không? Tôi đã giữ trong tôi cái hình ảnh qua lại bất tận trên dòng sông bất tuyệt này rất lâu. Mãi đến khi lên trung học, tôi vẫn thường trốn nhà những ngày nghỉ học đạp cái xe đạp cà tàng chín cây số lên đó, đứng ngó ngu ngơ một đỗi rồi đạp xe trở về. Mệt đừ mà lòng lại thấy vui sướng như vừa làm một chuyến đi xa, hồn mê mải với cuộc mộng du giữa ban ngày ban mặt. Không biết có phải tại tôi chịu ảnh hưởng của đứa bé mê nhà ga và xe lửa trong thơ Tế Hanh hay không mà tôi cứ hay làm như nó. “Tôi đứng bơ vơ xem tiễn biệt. Lòng buồn đau xót nỗi chia xa”. Cái hình ảnh đẹp và buồn đến dại người nên tôi mê cái bến phà Mỹ Thuận đến dại dột. Bạn bè trai gái, thân sơ bất kể, ai tôi cũng mời cũng rủ rê cho được. Ở đó tôi huyên thuyên dẫn giải hoặc trầm ngâm tâm sự làm như chỗ đó là giang sơn riêng của tôi vậy. Có người cũng kiên nhẫn ngồi nghe nhưng đa số thì dẫy nẫy đòi về. Nhưng mặc. Rốt lại chỉ còn tôi với cái bến nước của riêng tôi. Nơi vừa có gió sông lồng lộng, có phà trôi rập rình, có đủ thứ quà cáp trần gian và nhất là có những vóc dáng giang hồ qua qua lại lại. 

Bến nước là nơi tao ngộ của những tay tứ chiếng, là ngã tư gặp gỡ của trăm họ miền Tây. Cà mau, Rạch Giá, Long Xuyên, Châu Đốc, Vĩnh Long, Sa Đéc, Trà Vinh… Họ băng ngang thì thôi chớ còn xổ dọc là gặp nhau ở đó. Không hẹn mà gặp. Gặp không chào không hỏi. Gặp một lần trong một đời. Rồi thôi. Rồi mất biệt như chưa từng đã gặp. Dĩ nhiên chắc họ cũng có trở đi trở lại nhưng rồi có ai gặp lại ai đâu. Tôi đã thấy ở đó bao nhiêu là mặt người, bao nhiêu là nhân dáng mà rồi có gặp lại ai bao giờ. Phải vậy không, ở đó giống y như cái cõi đời này mà một ông Tàu xưa đã cảm thán đến rơi nước mắt: “tiền bất kiến cổ nhân, hậu bất kiến lai giã, niệm thiên địa chi du du, độc thương nhiên nhi lệ hạ”. Đó là một quán trạm bên đường mà mọi người phải ghé qua trong cuộc hành thiên lý dù có muốn hay không. Ghé qua một chút, vui vẻ hay buồn rầu, nhẹ nhàng hay gồng gánh thì cũng phải ghé qua, đi tới đi lui, dòm ngó loanh quanh rồi quay lưng đi mất biệt. Đó chẳng giống cái đường trần thăm thẳm này sao mà khách lữ chính là chúng ta đó. Chúng ta đến rồi đi có ai biết, dòng đời vẫn chảy đến biệt mù cũng chẳng làm sao hay. Thuở ấy tôi đã triết lý vụn như vậy với bạn bè mà không ai chịu nghe. Thì thôi ai có phần nấy.

Vậy mà hay, bởi vì ở đó tôi đã học được bao nhiêu điều của trường đời mà trường học thì không thấy đâu có dạy. Bãi trường năm 67, tôi từ Sài-gòn về quê nghỉ hè, cô bạn con nhà giàu được cha mẹ lo cho đi du học ở Pháp, ngày đi quá bất ngờ cô ta đáp xe đò về tìm tôi từ giã. Không biết lúc ấy lòng buồn đến đâu mà sau khi đưa cô ta qua sông trở lại Sài-gòn, một mình đón phà ngược trở lại, bỗng nhiên tôi khải ngộ được một điều thắc mắc từ thuở mới mê thơ. Đưa người ta không đưa qua sông. Sao có tiếng sóng ở trong lòng. Trời ơi lần ấy tôi mới thấy hết cái tài hoa của người thi sĩ mệnh bạc. Đưa người, ông không đưa qua sông mà nghe sóng vỗ ở trong lòng. Còn tôi đưa người, tôi lại đưa ngang sông thì sóng vỗ biết cơ man nào mà kể. Con tim dù lớn cách mấy cũng chỉ bằng nắm tay thì chỉ có nước chết đuối thôi. Lần đó tôi tôn ông Thâm Tâm làm sư phụ. Mấy thằng bạn cùng tuổi, tối ngày chúi mũi vào sách vở làm sao hiểu thấu được cái lớn lao u trầm của người thơ. Đời mộng và thực như vậy đó bàng bạc trên từng ngọn sóng, từng khúc quành, từng vết xe lăn, từng chuyến phà ngang trắc trở. Sao không tới đó mà coi, không tới đó mà nghe tiếng đời kêu réo. 

Phải rồi còn cái tiếng đời huyễn hoặc này nữa, tiếng độc huyền của ông ăn mày mù ngồi trước hàng ba một tiệm nước. Ông ta ngồi đó tự lúc nào tôi không biết. Chỉ biết khi tôi bắt đầu qua lại thường xuyên thì ông ta đã có ở đó rồi. Ông ta ngồi đó lặng lẽ, nhỏ nhoi, có mà như không có, giống như cây cột đèn bữa cháy bữa không. Sự có mặt của ông có làm bận tâm ai đâu họa chăng là mấy thầy phú-lít. Nhưng mà ông ta mờ nhạt quá nên riết rồi người ta cũng lờ đi coi như một tấm phông cảnh cũ mèm bỏ quên trong một góc hậu trường sau khi gánh hát dọn đi. Ông ta ngồi yên như một khúc gỗ đẽo sần sùi, lưng cong vòng, mặt nghiêng nghiêng, đôi mắt sâu hoắm, hai chân xếp lại, gần như không nhúc nhích. Chỉ có tiếng đàn của ông là bay lượn thảm sầu. Cái giọng ỉ ôi như kêu rêu, như trách cứ mà cam phận, nghe nghèn nghẹn đến tức tưởi. Nó gần như gom hết tất cả cái gì oan nghiệt nhất, cái gì đoạn trường nhất, cái gì tang thương nhất của cuộc đời này lại rồi phát ra một lượt làm chết điếng lòng người. Đàn chỉ có một dây thôi mà đủ hết mùi trường hận. Tôi khám phá ra ông một bữa về ngang trời đổ mưa bất chợt. Mọi người chạy túa vào mấy cái mái hiên tìm chỗ đụt. Vừa tấp vào một quán nước tôi để ý tới người đàn ông mù tức khắc. Có một vẻ gì lạ lắm toát ra trên gương mặt vô tri như trét sáp. Ông ta ngồi đó, lặng lờ như một vệt khói, mặc cơn mưa rào rơi lộp độp, mặc đám phàm nhân lao xao. Ông làm như không hay biết gì hết, ông chỉ biết tiếng đàn của ông thôi. Mấy ngón tay xương xẩu, đen đúa thoăn thoắt bắt nắm sợi dây đàn độc nhất, còn bàn tay trái vặn vẹo cái cần gỗ đã lên nước bóng ngời. Tôi không biết ông đàn bản gì chỉ nghe được cái não nuột của âm thanh như từng mũi kim chích thẳng vào da thịt mình đến nhức buốt. Tiếng đàn thoát đi bay lượn lẹo trong không khí ẩm đục nghe như tiếng khóc từ cõi âm vọng lại, kêu réo, van nài làm tôi rùng mình muốn phát lạnh. Nó bay ra xa, uốn éo rồi vòng lại, oằn oại. Nó vút lên cao, lanh lảnh rồi chùi xuống thấp, rụng rời. Người ăn mày mù vẫn say mê đàn như không biết cái tiếng đàn ma quái đang truyền nhiễm về đời bóng tối của u minh, dẫn đường cho những hồn oan kéo nhau về lướt thướt. Một lúc mưa bỗng tạnh. Mọi người lục tục bỏ đi. Có bà nhón vài đồng bạc cắc bỏ nhẹ vào cái hộp thiếc đặt trên góc chiếu. Còn đa số thì chắc quá vội đi mà không kể gì đến tiếng đàn bỏ lại. Còn tôi sao tôi bỗng nhiên thấy đi không nỡ. Sao tôi có cảm giác như thiên hạ quá vô lễ với nghệ nhân. Người ăn xin mù đó đúng là một nghệ nhân. Con người đó, tiếng đàn đó sao tôi thấy tài hoa đến tột vời. Mù đã là một thiệt thòi. Mù mà tài hoa thì đúng là tội nghiệt. Có phải ông mù đã gởi tâm sự mình trong tiếng đàn tận tuyệt đó không? Tôi quay vào quán, gọi một ly cà-phê bảo người hầu bàn đem ra cho người ăn xin rồi đến ngồi trong một góc nhìn ra. Suốt buổi chiều, tôi ngồi nghe lóm hết khúc này đến khúc khác, lòng cứ thắc thỏm từng hồi theo mấy cung bạc mệnh. Mà thật ra tôi có biết bài bản nào đâu. Thuở đó đối với tôi, những kim tiền bản, khốc hoàng thiên hay gì gì nữa cũng là quê mùa hết. Tôi chỉ khoái rum-ba với lại xì-lô. Đã nói tôi còn dại dột lắm mà. Vậy mà buổi chiều đó tôi ngồi im như chết trong góc quán, hồn mỏi mê như bị ma ám, lần đầu tiên khám phá ra cây độc huyền quái đản. Tại sao có loại đàn kỳ dị như vậy. Và tuyệt diệu như vậy. Còn người mù đó nữa, có phải chính cặp mắt đục lờ đó mới nhìn thấu được tới vô thanh để biến ngũ cung thành trăm bài kinh khổ? Đã có lúc tôi tưởng chừng ông ta biến đi đâu mất tiêu mà chỉ còn tiếng đàn ở đó thay ông kêu khóc. Hay có thể nói ông ta và đàn như nhập làm một. Làm sao có sự hóa thân kỳ diệu đó nếu không là một bậc dị nhân. Có lúc thần trí tôi mê hoang tưởng như Sư Khoáng đội mồ trở về vác đàn đi tìm bạn tri âm… Rồi tiếng đàn dứt. Tôi giựt mình thấy mình ngồi ủ rũ. Trời ngoài kia đã chạng vạng, bến phà cũng thưa bớt người qua.

Bữa đó khi ra về tôi đã dốc hết tiền còn lại trong túi cho ông ta rồi nhảy lên đeo xe hàng quá giang về chợ.

Đấy cái bến Mỹ Thuận nó hỗn mang như vậy đó, nó tập trung tất cả mọi hạng người từ cùng căn mạt kiếp tới những tay đâm thuê chém mướn, coi trời bằng vung, trước ngực thì xâm “hận kẻ bạc tình” sau lưng thì xâm “thù người hại bạn”, đến người cuồng sĩ tối ngày cứ đón phà từ bờ này qua bờ kia như để đón đợi một người nào đó chưa bao giờ gặp mặt mà hễ mở miệng ra là cứ “liên hoành” với “hợp tung”. Tôi đã thấy có ông tự chặt ngón tay thề thôi cờ bạc, có ông cầm dao đòi rạch bụng khi người yêu đòi “tách bến sang ngang”, có ông dẫn cô nhân tình bụng mang dạ chửa đâu từ dưới quê lên tới đó rồi… quất ngựa truy phong bỏ cô ngồi khóc bù lu bù loa bên bờ sông định mạng. Tôi đã thấy những anh lơ xe mở miệng ra là chửi thề thí mạng mà giữ chữ tín còn hơn cả đám anh hùng Lương Sơn Bạc, những em bé bán hàng rong nhỏ như ngón tay út tối ngày chạy theo mấy chuyến xe đò ép nài từng xâu mía ghim để nuôi bà mẹ tật nguyền. Mấy ông già ngồi bán báo mà thông hiểu trời đất không sót một mảy may, bình chuyện đời xưa không thua gì Mao Tôn Cương hay Kim Thánh Thán. Thôi thì đủ thứ cảnh đời mà có học đến già người trong trường lớp cũng không làm sao biết được. Bởi vậy tôi yêu mến Mỹ Thuận như một người tình chung thủy, như một người thầy lão luyện đã dạy tôi bao nhiêu ngón khôn khéo mà cũng không biết bao nhiêu món đoạn trường. Có lúc tôi tự thấy mình giàu có như một tay hào trưởng.

Bởi vậy bỏ đi xa rồi mới thấy mất mát biết bao nhiêu.

Ở đây xa quá lắm lúc nhớ quê, tôi hay làm thơ kể lể. Có khi nhắc tô canh chua tôm nấu với bông sua đũa, nhắc tộ cá lòng tong kho khô rắc chút tiêu thơm, có khi nhớ dĩa cơm sườn ram mặn, nhắc tô hủ tiếu của chú Thoòng có cái bụng to bằng thùng nước lèo, có khi thèm nghe lại một điệu vọng cổ mà hồi trước cứ chê lên chê xuống. Trời ơi bây giờ mà cho tôi chui vào rạp Miếu Quốc Công đeo tòn teng mấy chiếc cột chỗ hạng cá kèo mà coi tuồng cải lương Nửa Đời Hương Phấn chắc là tôi sướng lắm. Nhưng mà sướng hơn nữa nếu được về đứng lại dòm ngó ngu ngơ hai bên bờ sông Mỹ Thuận như ở tuổi mới vào đời.

Vậy đó tôi vẫn nhớ quê như mọi người nhớ quê của họ. Tôi còn nhớ thêm cái bến nước ơn nghĩa của tôi nữa. Nơi mà không ai chịu nhớ tới chỉ bởi cái tội nằm ở giữa một chặng đường. Người ta chỉ nhớ nơi đi và nơi đến. Đâu ai bỏ công đi thương nhớ một trạm dừng. Rồi bây giờ nghe đâu người ta đã bỏ luôn cái bến phà đó nữa. Người ta đã cất cầu treo ở trên dòng sông lớn. Những chuyến phà chắc đã kéo vào ụ hay rã ra đem bán sắt vụn. Hàng quán hai bên bờ chắc cũng phải đóng cửa. Mấy người chủ quán chắc đã đổi nghề khác làm ăn. Con đường đá chạy xuống phà chắc bây giờ bỏ hoang cho cỏ dại mọc lan. Tôi không về nên chỉ tưởng tượng được thôi. Sông kia rày đã nên đồng. Chỗ làm nhà cửa chỗ trồng ngô khoai. Đêm nghe tiếng ếch bên tai. Giựt mình còn tưởng tiếng ai gọi đò. Đấy ông Tú Xương ngày xưa cảm khái như vậy đó sau khi con sông ở Nam Định quê ông bị Tây tới lấp đi. Nghe mà thấy tội tình. Tôi nghĩ ông chưa nói hết những điều muốn nói. Ông không chỉ nhớ tiếng gọi đò thôi đâu. Chắc chắn ông còn rất nhiều kỷ niệm khác mà ông giữ kín cho riêng mình. Bởi vì nói ra cũng không hết được. Mà lắm khi còn bị bĩu môi là hoài cổ, là không thức thời. Cũng như tôi bây giờ vậy, tôi cứ bị người quen kẻ lạ rầy rà, lắm khi mắng nhiếc khi thấy tôi cứng đầu cứ khư khư giữ riết lấy cho mình những hình ảnh cũ, những thương tiếc này, những ngậm ngùi nọ. Chi mà mệt vậy. Quên phức cái cho được việc. Cuộc đời còn hàng trăm chuyện phải lo, hàng ngàn chuyện phải làm, nhắc làm chi cái chuyện đất nước cũ xì, mốc thếch. Chuyện đời thay ngôi đổi chúa là thường tình, trăm họ có khốn khó thì cũng là vận số thôi. Thì vâng.. Nhưng vận số gì mà quái đản. Kẻ quyền thế dư ăn dư mặc thì cứ ngày một phủ phê. Còn đại đa số dân đen không bè không đảng, vốn dĩ nghèo đói thì cứ tiếp tục trần ai khổ lụy. Ra rả những tiếng kêu than uất nghẹn không thành tiếng. Mà giả sử có thành tiếng cũng chẳng ai nghe. Mà có nghe hổng chừng cũng chỉ có cai ngục trả lời. Nghĩ cũng đáng đời cho mấy chữ viết tắt “xhcn” mà người ta hay đọc trại ra là xuống-hố-cả-nút ! 

Đã không còn ngụy quân với ngụy quyền để đổ thừa, cũng không ai chen vào phá đám. Vậy thì tại sao? Chắc chắn không phải tại đám con đỏ đang chạy gạo từng bữa toát mồ hôi, càng không phải tại đám con ghẻ lang bạt kỳ hồ tứ tán ngoài cõi tạm. Vậy thì tại ai? Hỏi thì cứ hỏi chớ câu trả lời đã sờ sờ ra đó.

Gần đây bè bạn ân cần gởi cho mấy tấm hình chụp chiếc cầu trên sông Mỹ Thuận. Cầu mới tinh, cất theo kiến trúc và kỹ thuật tân kỳ, thoạt nhìn ngất ngưỡng chẳng thua gì Kim môn kiều ở Cựu Kim Sơn, chỉ thiếu có một chút sương muối lửng tha lửng thửng là lẫn lộn như chơi. Cũng mấy cột tháp cao treo mấy sợi giây cáp cong cong.

Nhìn trong hình chắc không đẹp bằng cảnh thực. Ngoài đó có con sông lớn, có gió lồng lộng, có mặt trời dát vàng buổi sáng, có mặt trăng dát bạc đêm rằm chắc còn đẹp hơn nữa. Ở xa tôi hình dung xe cộ qua lại suông sẻ, khách đi đường khỏi phải lên xe xuống phà lôi thôi. Nghĩ tới nghĩ lui thấy cũng mừng. Mặc dầu trong bụng vẫn có chút nao nao khi biết đã mất rồi nơi chốn cũ. Bến phà xưa không còn nữa thì những vóc dáng xưa chắc cũng đã biệt mù. Chén cơm nóng lỡ đường, giỏ ổi làm quà đường xa, ly nước mía mới ép ngọt lịm, người chủ quán hay kể chuyện Tam quốc mấy buổi trưa ế khách, những cuộc tình xốc nổi, những gặp gỡ bất chợt, người hành khất mù và ngón đàn tận tuyệt… tất cả rồi sẽ được xếp vào loại chuyện cổ tích mà người kể nào cũng bắt đầu bằng hai tiếng “hồi xưa…”. Có thể mấy chi tiết mà tôi vừa nhắc đã mất đâu từ nhiều năm trước. Có thể trong thời buổi gạo châu củi quế người ta phải vội vã hơn trước, ăn uống nhín nhút, nói cười dè sẻn chớ không còn bung thùa như thuở tôi còn đi lại. Có thể cái bến nước đó đã mất phong độ từ lúc mới đổi đời. Nếp tinh thần đã khác thì nếp sống cũng khác theo. Người đi lại ơ thờ thì sông nước cũng chỉ là một cõi bơ vơ có lấy gì làm thân thiết. Nếu bây giờ đường đi phải rẽ qua hướng khác để đắp cao dốc cầu, bỏ lại xóm cũ hắt hiu thì cũng chỉ là nối tiếp một cách hợp lý cái cuộc sống đã bị bỏ quên từ lâu lắm. Bởi vậy mà càng nhìn tấm hình chiếc cầu mới, tôi càng thấy buồn hơn vui. Chiếc cầu được xây cất bằng vốn liếng tiền bạc và kiến thức của người nước ngoài để nối hai bờ con sông trắc trở. Mừng thì có mừng cho việc đi lại đỡ phần vất vả nhưng sao vẫn tiếc cho một nếp đời đã ăn sâu trong lòng của một số không ít người.

Và nhất là cứ tự hỏi, sao còn hàng chục triệu chiếc cầu lỗi nhịp trong lòng người mà không chịu lo bắt lại để mọi tấm lòng người Việt không còn những bờ bến phân chia?

Chính vì những chiếc cầu lỗi nhịp đó mà tới giờ này tôi chưa trở lại được quê nhà.

Cao Vị Khanh

CVK_ThangTu.jpg
cvk_thangtu_2.JPG
cvk_thangtuvanhungheluy.png
CVK_ThangTu.jpg
cvk_chungngo.JPG
cvk_tanthanvan2.JPG

Rồi tết qua đi...

Như mọi năm... Như hơn bốn mươi mấy lần đã chắc lưỡi, nói thầm trong đầu... “rồi tết qua đi... ”

Như mọi năm.

... như mọi năm vậy mà hổng chừng... dễ chịu hơn chăng. Đằng này, ai xui đâu mà dưng không cái đầu đã cũ mèm bỗng như lọt vô mê hồn trận. Dấn vô rồi là hết biết đường ra. Ngoái nhìn đầu trên xóm dưới, từ Vĩnh Long qua Cần Thơ lên Sài Gòn về Rạch Giá, giờ chót còn lội biển qua tuốt bên Montreal chỉ còn cách Bắc cực có 45 lằn vĩ tuyến... Bốn phương tám hướng ôi mênh mông kể cả chúi mắt nhìn sâu vô hun hút cõi lòng rồi cũng gần như... vô vọng. Khi không rồi lọt vô một biển nhớ-ôi biển nhớ thì mênh mông mà bộ nhớ như chiếc xuồng con đang hồi mục rã thì chẳng khác thằng con nít mới tập lội, cứ bì bõm mà bãi bờ thì càng lúc càng lộn lạo, bờ tây cứ tưởng bờ đông... Bởi vậy nghe thiên hạ kêu rêu biển xanh là... bãi dâu thì cũng là phải phải !

 

Sự tình là vầy...

Hôm đó, y như đến-hẹn-lại-lên, khi mùa đông tới độ chín muồi là coi như lạnh và tuyết cũng vừa quá tuổi dậy thì, mặc tình mà lớn đại. Tuyết thì mịt mù và lạnh thì tới độ rút xương. Khổ nỗi, thân thì xa quê mà tết quê thì cứ đợi đúng lúc quê xa tới mất dấu mà tới. Những ngày tết ở đây chẳng có chút gì giông giống ở đó để lấy làm... tết. Bởi vậy, lịch tây lịch ta thì cứ khăng khăng là tết mà dòm quanh quất chỉ thấy ta với tuyết. Mùng một, đứng trong nhà ngó lung ra trời, mai vàng cúc đỏ mồng gà vạn thọ.... chẳng thấy đâu mà chỉ thấy... tuyết với ta. Ngó tới ngó lui cho đã rồi mới thấy quả là không có gì để ngó. Buồn xo. Hai con mắt đã vậy, còn hai tay hai chân cũng làm như buồn lây nên cũng hết nhúc nhích như đồ phế thải. Bỗng nhớ lời của mấy tay tâm lý gia hăm he chuyện... trầm cảm. Hoảng. Bèn nghĩ cách để vui... tết. Vậy thì tết nhứt dẫu giả mạo cũng không có gì bằng đi dọn dẹp nhà cửa y như lúc còn ăn tết ở bển. Vậy đó... mà đúng lúc vô sự thành ra sinh sự.

 

Lục lọi ngăn tủ bàn viết bỏ quên đâu cả vài ba chục năm nay trong một góc tối dưới hầm nhà, bỗng dưng lọt ra một khoanh giấy nhỏ ố vàng với hàng chữ viết tay. Nét chữ dối trá đến độ như gấp gáp gì lắm hay vừa viết vừa muốn giấu diếm gì đó. Chỉ trừ có em người khách nợ đến sau cùng là anh chưa trả. Ồ chữ nghĩa gì mà đọc lên nghe “trầm thống” đến vậy, không thua gì mấy câu cách ngôn học thời tiểu học. Nét chữ thì chắc chắn của mình mà ý nghĩa thì sao chép của ai đó hay của chính mình nghĩ ra. Mà của ai cũng vậy. Sao lại ghi chép rồi bỏ xó trong góc tối của lãng quên. Vấn nạn làm lu bu cái đầu vốn đã tuyên bố về vườn. Ờ, mà sao lại là thứ chuyện nợ nần tưởng đâu đã sạch trơn sau cái lần... xưng tội hôm trước. Tưởng là đã phủi tay sạch... nợ. Dè đâu mà nợ làm như con nít chơi trò cút bắt, cừ thập thò thậm thụt đâu đó rồi a thần phù nhảy xổ ra làm kẻ đã tới hồi lãng quên cũng phải giựt mình. Rồi đâm ra... bắt nhớ. Mà nhớ gì đây ? Hàng chữ viết rõ nghĩa là một xác nhận. Xác nhận rồi ... phủ nhận liền đó. Có nợ mà chưa trả nghĩa là coi như còn nợ. Nợ gì mà giấy tờ vừa khai nợ vừa khất nợ ố vàng đến mức không còn độ vàng nào để ố... Chỉ trừ có em người khách nợ đến sau cùng là anh chưa trả.

 

Nói vậy chớ lâu nay có nghe thấy ai đòi hỏi gì đâu. Bởi vì nếu thật sự mà nợ thuộc loại xanh xít đít đui của mấy chú chà-và hay mấy bà chủ nợ ác ôn kể cả mấy cái nhà băng lớn nhỏ của đám tư-bản-đang-giẫy-chết thì làm gì có thể vừa khai nợ vừa chối nợ mà nghe như thủ thỉ không bằng. Chỉ trừ có em người khách nợ đến sau cùng là anh chưa trả.

Nghĩ tới nghĩ lui rồi càng thấy rối nùi, kẻ cả đã có lúc ngồi yên, tay bợ cằm y như kiểu ngồi của bức tượng Le Penseur nổi tiếng của Rodin vẫn không tìm ra câu giải đáp. Phải chi thời gian ngược lại được vài chục năm trước, bắt chước mấy ông thầy dạy Việt văn ra đề cho học sinh bình giải, kiểu như... Trò (anh hay chị hay em) nghĩ gì về câu nói sau đây... “chỉ trừ có em....” để coi những bộ óc còn vô tư, không phe phái sẽ phê phán ra sao. Mà điều cũng khó, giao cho mớ người trẻ tuổi, tay chân mình mẫy chưa lấm bụi đời mà suy nghĩ và bàn tán về một đề tài chắc chắn là không có trong sách dạy làm văn Luận Văn Thị Phạm của ông Nghiêm Toản thì lấy đâu ra ý tứ câu cú mẫu mực mà... tập làm văn.

Loay hoay trong đầu vậy rồi càng lúc càng như chìm vào một cõi tịch lặng. Có điều cái cõi tịch lặng của Thiền tông ra sao thì không biết chớ cõi tịch lặng này làm như là cái phản ứng chết điếng hay ú ớ trước một sự cám dỗ nào đó dù thiệt tình rõ ràng là đã bị... cám dỗ. Càng làm lãng thì lại càng lạng quạng, né bên nầy lại đụng bên kia. Rồi đến lúc... cũng đành. Thiệt ra từ lúc đầu đã có manh nha một vài tia chớp mà chẳng qua tại cái tánh hay cãi chày cãi cối nên không chịu nhận. Đã có cái gì làm chột dạ khiến người ngồi đó như ngơ ngẩn... sầu. Mà không muốn sầu. Nên cứ loay hoay. Ngoài trời thì càng lúc càng trắng xóa. Cơn bão tuyết quậy từ đêm giao-thừa-ta qua sáng ngày mười-tháng hai-tây coi bộ chưa hết hơi, cứ thổi gió phun tuyết vù vù. Ngoài trời đã vậy mà lòng riêng rồi mỗi lúc một lao đao. Cuốn tròn khoanh giấy tới hết độ tròn rồi nhét sâu tới hết độ sâu vào túi trong tới hết chỗ trong của chiếc áo len, kiểu như mấy ông làm gíán điệp trong mấy bộ phim James Bond rồi leo trở lên tầng nhà trên, rót 250 ml theo lời bác sĩ dặn rượu chát đỏ, nhắp miếng môi nghe chua chua chát chát ngọt ngọt, bật ngửa trên cái ghế sofa rồi mơ mơ tỉnh tỉnh...

Thật ra, vòng vo là cốt để kéo dài thời gian theo kiểu trây trua chớ thật tình nội mấy cái danh xưng thôi là đã rõ trắng đen. Ai đời khất nợ mà xưng hô nghe ngọt sớt. Rồi thêm lối viết nghịch đảo như một cách chơi chữ, dậm thêm chất bi kịch cho nghịch cảnh. Rõ là không phải chuyện nợ tiền nợ bạc. Lại còn làm liên tưởng đến cái “điển tích văn chương” đã từng đem rêu rao thuở còn lưu lạc hành nghề. Trong truyện Đoạn Tuyệt nổi tiếng một thời của ông Nhất Linh, có một câu nói của nhân vật nữ với người tình bỏ đi kháng chiến chống Tây, đại khái như là “nợ của ai anh cũng trả, chỉ có nợ của em là anh không trả”. Trời câu nói khi chia tay giữa một cặp tình nhân hư cấu nghe ra vừa khoái tai vừa cay đắng đến nao lòng. Đem so với mớ chữ mới tìm ra, hẵn nhiên ít nhiều có liên hệ chi đây. Dĩ nhiên có thể người đời sau bắt chước người đời trước. Nhưng hệ quả hổng chừng cũng như nhau. Vã lại chuyện sao y hay tự ý cũng không phải là vấn nạn trong lúc này. Vấn đề là tại sao và lúc nào lại ghi ghi chép chép như vậy ?

 

Hồi nào ? Mấy năm rồi ? Mấy là mấy ? Năm ? Mười ? Mười lăm ? Hai mươi ? Hai mươi lăm ? Ba mươi năm ?... Làm sao định lại thời gian đây. Mẫu giấy viết ngày nào đã đổi màu tới độ hết màu để đổi. Chữ viết tháo như cua bò đến đọc muốn không ra. Mà sao dại vậy. Gọi người ta là khách nợ rồi làm sao cải chầy cải chối đây. Lại còn xác định dõng dạc là... chưa trả. Hết biết. Hẵn là có uẩn khúc chi đây. Vậy rồi, nương theo men rượu nhè nhẹ, lâng lâng theo vị rượu ngọt ngọt mà chua chua, hồn lãng tử hết thời như lướt thướt theo điệu valse mà chờn vờn ẩn hiện những quảng đời đã qua, từng khúc đoạn lộn xộn, không đầu không đuôi như mớ chỉ rối mắc mớ vào nhau, thứ rối ren mà không có bàn tay nhân thế nào có thể cột thắt vậy được. Hẵn nhiên chỉ có thể là kết quả của một sự ngẫu nhiên. Mà đã nói là ngẫu nhiên thì chỉ có thể là kết quả của bàn tay... tạo hóa. Nói vậy không có ẩn ý là để tránh trách nhiêm. Mà thật sự chỉ để minh bạch một thứ chuyện đời không ai sắp đặt được ngoài một ông mà người ta gọi là ông Trời- nếu quả thật có một ai đó có đủ tài năng tạo ra những ngược ngạo, những gút mắc, những rắc rối, những sự tình... mà ngay cả những tiểu thuyết gia diễm tình trứ danh chắc cũng phải lắc đầu chịu thua. Lắt léo. Tréo nghoe. Lộn lạo. Lu bu. Kiểu tình chị duyên em- hoặc ngược lai. Hay có duyên không nợ-hoặc ngược lại. Hay có duyên có nợ mà rốt lại duyên thì ngắn ngủn mà nợ thì dài ngoằn. v.v... và v.v...

 

Rượu càng thấm, bộ nhớ như ngựa quen đường cũ được thả lỏng dây cương, mặc tình mà lộn lại... lối xưa. Chỗ thì hình như. Chỗ thì chắc mẻm. Càng lúc mớ hình xưa bóng cũ càng ló ra, khi mờ khi tỏ . Mà mờ hay tỏ gì sao cũng giống giống nhau ở chỗ có vương vướng vài ba sợi tóc ngắn dài, có khi mướt rượt phưởng phất mùi chanh giấy, có khi rinh rích mùi mồ hôi những đêm nhiệt đới, có khi hoe hoe vàng thoang thoáng mùi Givenchy... Thiệt là hết chối cải. Ông bà đã dạy rạch ròi mà. Tóc mai sợi vắn sợi dài thương nhau chẳng đặng tiếc hoài ngàn năm. Rõ là tiên tri còn hơn phát ngôn của quí vị nổi cơn đồng bóng. Điệu này coi như hết chỗ để tránh né. Thì thôi vậy, nói gần nói xa không qua nói thiệt. Vậy là cái nợ nầy không dính líu tới chuyện tiền bạc nên không thể nào định gíá. Mà đã không thể định giá thì phải coi là vô giá. Chỗ thắt ngặt đây. Nếu đã gọi là vô giá thì làm sao tính chuyện sòng phẳng. Đã không sòng phẳng thì có nghĩa là dằng dai. Đã dằng dai thì có nghĩa là tưởng hết mà còn. Ôi thôi, rõ là oan nghiệt thứ nợ không giao kèo mà trì kéo không thua mấy sợi xích thằng, dẫu có đứt ngang... trong hay ngoài ý muốn ! Còn thứ nợ nào nhủn nhằn nhùn nhằn hơn thứ nợ tình, phải không !

Thử tưởng lại...

..........

Những năm 60, mới khoảng đâu nửa chừng trung học là đã lọt vô mắt-xanh ( nâu? đen? đen đen ? nâu nâu ) của người bạn gái cùng lớp lớn hơn một tuổi, khi thiệt tình cũng chẳng biết cái người ta gọi là tình yêu là cái chi chi. Nghe rủ lén đi coi chớp bóng xuất trưa thì buổi trưa đi coi chớp bóng. Nghe rủ đi ngồi quán vắng bờ sông thì đi ngồi bờ sông chỗ quán vắng. Tan trường về, đường trống, biểu đi chung thì đi chung. Ngày gió lớn, áo tà trắng có quấn quíu quần xanh đồng phục thì cũng có nghe ra chút chút gì đó... ngồ ngộ.

Cuối tuần, kêu tới nhà ngồi giữa vườn sau nói chuyện trên-trời-có-đám-mây-xanh mà trong nhà thì có bà má đi tới đi lui ngó qua ngó lại. Chuyện tình kéo dài đâu qua bốn kỳ thi lục cá nguyệt, rồi cuối năm thứ hai nàng rớt chàng thi đậu tú-một phải bỏ trường-cũ- tình-xưa đi học xa. Nàng ở lại. Bữa từ giã ngoài bến xe lục tỉnh nghe có gì đó rươm rướm hình-như-là-tình yêu ? Mà chẳng biết có phải không ! Cuối năm, ở xa nghe tin bị ba má bắt làm đám hỏi với con trai nhà thầu khoán. Sao tưởng như đọc tin hằng ngày trên báo Sài Gòn Mới của bà Bút Trà.

Vậy rồi quay sang tiếp tục thư từ qua lại thăm hỏi của cô em gái một chị bạn học cũng cùng lớp năm trước. Những lá thư tả trời-trăng-mây-nước giấu ép giữa mấy trang sách cho mượn... Rồi cũng chẳng tới đâu. Lòng riêng cứ vẫn lung lăng. Chân cẳng cứ vẫn tung tăng lề đường. Ù ù cạc cạc những chuyện-tìnhkhông-suy-tư.

Ờ mà thôi, mấy chuyện tình kiểu Paul et Virginie có nói cũng không cùng ! Có điều thứ tình không vết tích chắc chẳng có gì làm chứng cớ để ghi vào sổ nợ.

Cho tới khi vọt tuốt lên Sài Gòn. Con trai tỉnh lẻ mà mắt thì từ lâu cứ dòi dõi chỗ có chiều-bát-phố, có đêm-phòng-trà, có khuya-vũ-trường, có bạn-tứ-phương... Tại vậy mà vừa tới được thiên đường trần tục của mình là đã sống hết mình khi mới tập tễnh chân trong chân ngoài khu đại học mới mở đường Cường Để. Nửa học chữ nửa học chơi. Mới thoát mấy vòng tay hàm tiếu đã ngấp nghé mấy vòng tay mãn khai. Kỳ này do tuổi đời vừa chín tới, ăn khớp với mớ phim ảnh theo trào lưu Đợt Sóng Mới yêu-cuồng-sống-vội của Tây phương với lại Hippy makelove-not-war của xứ Mỹ vừa đánh giặc vừa biểu tình phản chiến, cộng thêm thứ triết lý hiện sinh học đòi nên tình yêu coi bộ có mùi có vị hơn. Một vài cuộc tình giữa biển người đô thị như những chuyến rong chơi vô vườn địa đàng của Thượng đế. Và dổ nhau nếm thử trái cấm mà Adam và Eve đã có lần cắn phạm. Có điều kết quả hoàn toàn ngược lại. Thay vì bị đày xuống trần gian như tiên tổ thì con cháu lại như bay bổng lên thiên đàng. Khởi đi từ đây, mới gọi là thực chứng tình yêu, thứ tình yêu trăm phần trăm, có nửa nầy nửa kia, trọn bộ. Và từ đó thể nghiệm thêm ca dao xứ Huế. Kim đâm vô thịt thì đau... Từ đó, người ta gọi là nợ nần với nhau chăng ? Những cuộc tình vừa lãng mạn vừa hiện thực ở cái xứ được mô tả bằng hai câu thơ thịnh hành của Nguyên Sa đã bị hiệu đính lại. Nắng Sài Gòn anh đi mà mất thở, bởi vì em mặc áo hở vòng eo. Cứ vậy mà nóng sốt đều đều.

Cho đến khi phải rời thủ đô để về tỉnh lẻ, bỏ lại đó mớ dây trầu lăng xăng mà không dây nào bắt rễ dính cây cau. Qua phà Vàm Cống là coi như qua sông Dịch thủy.

 

Mấy năm làm cái nghề gỏ-đầu-trẻ vậy mà làm như bị đưa đi chỉnh huấn. Sự bó buộc của nghề nghiệp cộng với sự tiếp xúc thực sự với lớp tuổi mộng mơ ngây thơ vô tội vạ làm như cũng chấn chỉnh lại đôi chút lối sống bung thùa. Hẵn là ít nhiều cũng thừa hưởng được phần nào phong cách của cả cha lẫn mẹ vốn đã coi giáo dục như thiên chức. Dẫu chưa bao giờ chịu cổi lốt giang hồ nhưng tự dưng rồi đâm ra yêu nghề nên cũng cam lòng làm người tử tế. Với thứ khuôn khổ mẫu mực mà đời đã giao phó. Vậy mà rồi qua năm năm hành nghề lại phát hiện ra vài dấu hiệu bất thường của phe đối diện dẫu chưa bao giờ sơ hở. Lẫn lẫn đâu trong không khí ra bộ trang nghiêm của lớp học rồi bỗng đôi lúc chấp chới vài ba cái nhìn... phạm-trường-quy. Làm thầy làm sao không biết. Khổ nỗi trong kỷ luật học đường thời đó đâu có điều lệ nào để ngăn ngừa ba cái vụ conmắt-có-đuôi. Chỉ còn lại cái kỷ luật tự thân để tự gò mình... làm ngơ. Vậy rồi đùng cái đại họa ập tới. Thầy trò bỏ chạy tứ tán. Người vô tù kẻ xuống ghe theo gia đình tìm đất sống. Chuyện tưởng vậy rồi thôi. Ai dè, hai mươi mấy năm sau, nơi cõi lạ, cái gì cũng lạ. Cả đến chuyện tưởng như chỉ có trong tiểu thuyết ba xu. Khi đời coi như đã đẩy dạt ra bên lề, nơi góc biển chân trời xui chi cho tái ngộ trong cảnh tình ngang trái. Ba bên bốn bề đều đã sừng sững mấy bức tường rêu của luân lý cổ phong. Thân trai lỡ lứa mà bổn phận và trách nhiệm thì cao lút đầu người, dấn thân vô rồi là y như trói hai tay chặt cứng rồi thúc lên võ đài mà thi đấu. Còn có cặp giò cứ phải bắt chước Đoàn Dự mà lăng-ba-vi-bộ len qua lách lại tới chóng mặt. Hết biết. Vậy mà y như ngọn đèn sáp sắp lụn, dưng không rồi phựt lên, như có ai chúm môi phà chút hơi... ấm hỉm. Chút dấu dạng quê hương của thời hoa mộng cũ, chút mỹ cảm đồng dạng cùng với trọn niềm tin yêu của thuở mới vào đời... như thổi ngược lại chút hơi hướm lãng mạn tưởng đâu đã bỏ quên bên kia biển lớn. Nhất là như làm bừng lại luồng sinh khí đã rụi tàn từ sau cơn thất tán. Thơ văn ở đâu rồi lãng đãng quay về. Em xa đâu bỗng gọi. Đâu như tuổi hai mươi. Ôi tiếng đời diệu vợi. Xa khuất mấy tầng đời.

Trong cơn mê đắm giữa nghịch cảnh trùng trùng vẫn bù cho nhau nguyên si một tấm chân tình và một lòng phụng vụ.

Làm sao kể hết...

 

Xứ người rộng đến mênh mông tới nỗi mỗi người như mỗi thế giới riêng. Vậy mà coi vậy nhưng không phải vậy. Đến nỗi lắm lúc muốn diện bích để trải nỗi niềm tâm sự. Nhưng rồi sực nhớ ông bà xưa còn dặn tai vách mạch rừng nên cứ phải tịnh khẩu mà lắm lúc nghe sóng xô sóng đẩy trong lòng. Còn ai như Chu Mạnh Trinh để phán một câu chia xẻ... ta cũng nòi tình thương người đồng điệu. Có ai đâu, ngoài ta với... ta.

Vậy rồi khi không lọt ra mảnh giấy. Hàng chữ viết tháo rồi bỗng như ngón tay ngắt véo...

Nghĩ gần nghĩ xa rồi nghĩ lại mình...

Cây muốn yên mà gió chẳng chịu ngừng. Thì thôi, còn lời nào...

Trong gần suốt cuộc trần ai lặn lội đường tình còn có lời nào để trần tình cho ra lẻ. Nghĩ đi nghĩ lại, nghĩ rộng thêm ra để thấy cuộc đời tự nó như mạng nhện. Mỗi sợi tơ mắc míu nhau rất tình cờ. Sợi nầy níu sợi nọ, sợi nọ níu sợi kia, sợi kia... lằng nhằng sợi nầy... cả một vòng lẩn quẩn loanh quanh không có chỗ dứt ra. Rõ ràng sợi nầy sợi nọ sợi kia đều có một phần dính líu với sợi kia sợi nọ sợi nầy. Cái vòng lẩn quẩn đó gợi ra chuyện quan hệ của từng sợi một. Sợi nầy vừa là nguyên nhân vừa là hậu quả tạo ra sự liên kết của sợi nọ. Và ngược lại. Như vậy sợi nào trách móc sợi nào khi lỡ có cơn gió vô tình thổi qua ! Nghĩ cho cùng có trách móc gì được đâu miễn là trong sự nấn níu đó, luôn có sự thành tâm. Hết lòng. Hết sức. Hết hơi.

Sự liên hệ đủ chiều của cá thể này với cá thể nọ quả nhiên như một kiểu nối kết rất mực lăng nhăng của thiên nhiên. Hay nên gọi là một thứ định mệnh chăng ? Ông bà xưa còn dạy rằng không có lửa làm sao có khói. Mặt lạ có thành mặt quen cũng chỉ vốn dĩ là hai mặt của một đồng tiền. Bên gỏ cửa. Bên mở cửa. Trách nhiệm, nếu có, chắc chỉ xê xích chút đỉnh. Ờ mà tại sao nhắc lại chuyện trách nhiệm ở đây ! Cái tánh lý lắc của Cupidon hồi nào tới giờ đã thành huyền thoại. Hổng nghe hai ông Lê Dinh Minh Kỳ hè nhau hợp soạn bài hát “Không Phải Tại Chúng Mình” sao. Điệu Boléro nghe như gỏ nhịp vào tai. Lời thì rạch ròi như hai với hai là bốn vậy. Không phải tại anh cũng không phải tại em. Tại trời xui khiến nên chúng mình thương nhau... Bài hát có 19 câu kể lể cả một chuyện tình trắc trở mà đã có tới 4 câu để xác định không-phải-tại-anh-không-phải-tạiem. Vậy thì làm sao mà nở đổ thừa nhau cho được.

Thêm nữa, còn nhớ khoảng những năm sáu mươi, bảy mươi ở Sài Gòn có một bản nhạc của ông Y Vân, tựa là “Ngăn Cách” theo điệu Boston trở thành bài nhạc trên đầu môi của không ít người đang trong lứa tuổi yêu đương, nhất là phía đang xấc bất xang bang vì ba cái vụ tình lỡ, tình phụ...

Mây sao quên hạn kỳ? Cho trăng buồn vì nhớ mãi câu thề. Mây đem mưa trở lại, mưa hay nhiều lời, khiến trăng mỉm cười… Không ! Trăm không ngàn lần, không ai giận hờn nếu đã hay rằng: “Lòng người như chiếc lá, nằm trong cơn gió vô tình”

Thấy hông người nhạc sĩ tài hoa nhất hạng đã phán rõ ràng “Lòng người như chiếc lá, nằm trong cơn gió vô tình”. Và chắc mẻm như đinh đóng cột. Không! Trăm không ngàn lần, không ai giận hờn Quả là minh triết. Có thua gì những bậc hiền giả đi chân không tay chống gậy lặn lội khắp bốn phương trời để tìm chân lý. Lòng người yêu ghét, thật giả... cũng chỉ là chiếc lá bữa im gió bữa lộng gió, cái chuyện lá rụng lả tả hay bay cái vèo không làm sao mà lý giải cho được.

Rồi tới ông Vũ Thành An nữa. Ông ta viết tình ca mười bài chung một cái tựa nhưng đánh số khác nhau chắc là để khỏi lộn khi phải làm tổng kết- cũng đã có lần thấy mài mại như vậy. Lòng người như lá úa trong cơn mưa chiều nhiều cơn gió cuốn xoay xoay trong hồn. Chẳng những gió cuốn mà còn xoay xoay tới chóng mặt thì làm sao mà đâu ra đó cho được. Yêu thiệt yêu, yêu muốn chết hay yêu lơ mơ, gần mà không yêu, xa vời vợi mà yêu rồi yêu độc chiếc hay yêu lũy thừa... là thứ chuyện hiểu biết vượt ngoài khả năng trí tuệ của con người.

Vậy đó thì làm sao mà giận mà trách mà kêu rêu... cho đành. Kể cả đến cái thời mà người ta tính toán chi li giỏi đến nỗi đã bay tuốt tới mặt trăng rồi còn tính bay luôn lên sao Hỏa chắc cũng phải đành chịu thua trước những những biến thái kỳ cục của cái gọi là tình yêu. Hay nói cho có vẻ trầm trọng chút như người xưa đã nói, kể cả có con-mắt-nhìn-thấu-ra-sáu-cõi-tấm-lòng-nghĩ-suốt-đến-nghìn-đời chắc cũng không hiểu ra nỗi.

Ôi lòng người như chiếc lá nằm trong cơn gió vô tình !

 

Nói gần nói xa cho đã rồi trở lại chuyện-chúng-mình. Thứ chuyện chúng mình đã không còn là... chúng mình ! Mảnh giấy vụn còn nằm sâu trong đáy túi. Nhưng rồi nói gì đây khi không xác định được chắc chắn ai-là-ai ! Không lẻ bắt chước đám chính trị gia ra thông cáo chung như lúc hội đàm Paris năm 1973 thì đâm ra láo khoét quá ể. Còn nín lặng luôn thì lại vô hậu quá mức. Nhưng rồi nếu nói mà rủi ro lầm lộn khi mớ nơ-rôn đã tới hồi rệu rã thì quả là vô tình quá mạng. Thêm chút lời có vui hơn hay bớt chút lời có buồn hơn. Gì thì gì mọi chuyện đã qua, tay đã vuột... mọi mắc míu đã bay tứ tung trong cơn gió vô tình !

Vài chục năm trước có một tựa phim rất “hình tượng”, “Người tình không chân dung”, kể lể chuyện đời của những người lính chiến, chẳng ăn nhập gì hết với chuyện muốn nói ở đây. Nhưng mấy chữ không-chân-dung nếu đem xài với kẻ có tánh ôm đồm trong chuyện yêu đương hổng chừng nghe ra cũng có lý. Lung tung quá thì làm sao mà nhận diện cho rạch ròi phân minh được. Vậy thôi khỏi biện biệt chi cho rắc rối thêm. Người tình nào không là người tình, phải không ?

 

Đã cạn thêm ly thứ hai. Ngoài trời tuyết đã thôi rơi. Bầu trời hắt lên chút sáng cuối ngày. Trời sẽ tối lại. Như đã tối tự bao giờ.

Thì thôi cứ kể như đường trần lỡ bước. Có những bước lỡ thì bước lại. Có những bước lạc rồi lạc luôn. Luôn luôn. Mà dẫu sao đi nữa, những cuộc tình gọi là... lỡ, buồn thì có buồn nhưng công bằng mà nói chắc cũng không nên hận làm gì. Dẫu sao, cũng đã cho nhau chút vui trần thế giữa cái cõi người chẳng có mấy gì vui, nên chăng ?

 

Nguyễn Đình Toàn-Vũ Thành An. Tình khúc thứ nhất. Tình vui trong phút giây thôi, ý sầu nuôi suốt đời. Thì xin giữ lấy niềm tin dẫu mộng không đền. Dù trời đem cay đắng gieo thêm cũng xin đón chờ bình yên. Vì còn đây câu nói yêu em âm thầm soi lối vui tìm đến

 

Rốt lại, viết lách dông dài, này nọ cho ra vẻ lý luận... cùn, chớ gì thì gì sau hết vẫn là một lời tạ tình, gởi tận tới... vô phương.

 

Và thêm lời... tạ lỗi. Vô vàn. (*)

 

Cao Vị Khanh

 

(*) -dẫu tình yêu thì tính làm chi lỗi phải

cvk_tettaxutay.jpg

Đã qua mấy ngày tết!

Ởđây buồn muốn chết!
Quanh quanh tuyết trắng phau!
Lấy gì đắ p đổi màu
xanh xanh hàng liễu rũ.
Gió đẩy đưa, quyến dụ
trên ngõ về thân quen.
Dáng ai đứng nghiêng nghiêng
dưới hàng hiên, bóng nhỏ.
Má già ngong ngóng ngó
trông bầy con, quan san.


Lấy gì ngỡ hoàng lan
màu hoa vàng nở vội.
Mùa xuân chưa kịp tới
chim chóc đã đầy đàn.
Má nhìn quanh, lặng lẽ
chẳng một tiếng than van.
Thân mỗi lúc một nhẹ
lòng nặng trĩu mất, còn.
đêm nằm nghe tiếng đạn
đau đáu nhớ bầy con.
Có thằng sờn áo trận
chưa hết nợ giang sơn.

Lấy gì tưởng sắc xám
tô lại nhịp Cầu Ngang
đêm về qua, trăng lặn.
Nhà má sáng thay trăng.
Lấy gì quến khói bếp
tàn lửa đỏ riu riu,
má nấu cá kho tô .
Thơm nức cả vườn chiều!

Đã qua mấy nga y tết
không một vết chân chim,
chẳng điểm một chấm màu.
Chỉ một trời bông tuyết
với gió quậy lao xao.
Lao xao? Không!
- Lao đao!


Cao Vị Khanh

cvk_thanggieng.jpg

                                                      Rồi tết qua đi, sầu ở lại

                                                      Quê nhà xa huốt một đường bay

                                                      Rượu xuân ai ướp mùi quan ải

                                                      Mà thấm xa thêm những dặm dài !

 

Bốn câu hai mươi tám chữ, cụt ngủn. Lỡ có muốn thêm cũng chẳng biết thêm gì. Mà có thiếu gì không, mấy câu gọi là thơ, buổi chiều mùng-ba năm đầu tiên ăntết ở xứ người.

Một năm trước đó, ngay bửa ba-mươi-tết, tôi bồng đứa con gái đầu lòng lên năm, đeo xe đò từ một tỉnh ở phía cực tây, về thăm cha mẹ ở một làng quê giữa hai nhánh sông Tiền và sông Hậu. Luôn thể để báo tin một chuyến đi xa. Xa lắm, không biết có tới nơi tới chốn. Mà cũng chẳng biết ... rồi sẽ có một ngày về.

 

Gia đình đông con, bốn trai năm gái. Nhưng lần ấy, ba anh em trai còn đâu đó trong các trại tù heo hút mấy miệt rừng núi Lào Kai, Yên Bái ... Mấy chị em gái cũng bận đi nuôi chồng trong các trại lán lẩn lút giữa một miền Nam thân quen bỗng sớm chiều trở thành lạ lẫm.

 

Chỉ còn tôi và đứa cháu gái ngu ngơ hớn hở vì được về thăm nội dù từ khi lọt lòng chưa một lần được nội ẳm bồng.

 

Đêm ba mươi. Ba tôi thắp ngọn đèn dầu leo lét trên bàn thờ tổ tiên cho tôi lạy từ biệt đất nước ông bà. Ngôi nhà gạch xinh xắn có giàn bông giấy tím ở tỉnh bị cướp trên tay, đổi thành căn nhà lá vách tre đứng chênh vênh trên doi đất vói ra vàm kinh Bình Phụng. Đêm cuối năm, trăng sao trốn biệt. Đêm trừ tịch, gió rền rĩ lẫy hờn. Đêm sinh ly, sóng vổ bờ như vổ vào chính lòng tôi, từng điệu oán. Lễ xong, tôi xoay qua, mếu máo quỳ lạy sống ba má tôi, lần đầu mà nghĩ là lần cuối. Con gái thấy lạ cười ngặt nghẽo trên tay bà nội. Sáng hôm sau, bồng con quày trở lại nơi mai mốt sẽ khởi đầu cho chuyến đi vô định.

 

Mùng chín tết năm đó, tôi rời Việt Nam.

 

Một năm sau, tôi ăn tết ở một nơi không có bàn thờ ông bà, không cha không mẹ, không anh chị em, không hoa mai cũng chẳng mứt gừng mứt bí... Chung quanh tôi, tuyết trắng, trắng đến mênh mông như một cõi lòng đã lạnh. Trái đất quay, quay theo chiều quay nghiệt ngã. Xuân ở quê nhà, quê người đã quá nửa chừng đông.

 

Giữa đêm, trời đổ tuyết. Từng nhúm tuyết mịn bân mà nhẹ hửng như bông gòn thổi bay xối xả, nhuộm trắng cả đêm đen. Gió réo, tuyết loay hoay xoay chiều, lắm khi luống cuống như lạc nẻo, quẩy đập vào nhau vật vã như tiếng kêu khổ của mùa. Đêm gượng sáng mà có ngó ra thử tìm hướng cố hương cũng chỉ thấy mù thêm hai con mắt vốn đã thất lạc, từ khi. Nhìn tuyết trắng trời mà cảm thán tới muốn sửa thơ Nguyễn Bính tiếc Huyền Trân. Giờ đây chín vạn bông trời nở / Riêng có lòng ta khép lại thôi. Ông ta tả hoa lá mùa xuân rực rỡ ở đâu không biết. Chớ ở đây, cõi tôi gá thân chỉ có trắng một trời bông tuyết nở ! Lòng người xa xứ, có khép lại, cũng đành.

................................ ............................

 

Vậy mà rồi hơn bốn mươi năm. Bốn mươi năm biệt xứ, không về lại một lần. Tang cha, tang mẹ, trắng xé lòng, mỗi lượt. Ở xa, tôi không đi chùa đi miểu. Mỗi lượt, tôi, mình tôi, chẳng đạo chúa, trốn vô ngôi nhà thờ nhỏ ở góc phố vắng. Trưa im im, lặng ngắt, đèn thờ không sáng nổi mặt tượng. Không gian nhốt kín, cả đến gió thu cũng bị chận lại bên ngoài. Mình tôi, riêng lẻ mình tôi, thu mình trong một góc khuất, nhìn cái trống không giữa những v

òm cong thánh đường.

 

Tôi ngồi ở đó, bất động. Rồi thấy lại tôi chín mười tuổi chạy nhảy thênh thang giữa tấm lòng trải rộng đến mênh mông của cha mẹ. Thấy lại tôi trưởng thành vẫn y nguyên một nỗi cưu mang như khi còn đòi bồng ẵm. Thấy lại tôi với lời tự hứa báo hiếu ngày mới ra trường. Thấy lại tôi bỏ cha bỏ mẹ ngay đúng lúc tuổi già xế bóng ... Thấy lại tôi với tội nghiệt tôi ...

 

Tôi ngồi ở đó, khóc, lặng lẽ mãi đến khi chiều xuống.

 

Rồi ra về với huyệt mộ chôn kín trong lòng.

 

Hôm sau, đã ba chân bốn cẳng chạy theo miếng ăn, giữa xứ người rộn rã mà quạnh quẽ tiếng hỏi câu chào.

Mươi năm sau, nghe người về, rủ rê. Sao lòng tôi lạnh tanh. Tôi không yêu quê tôi sao. Không ! Tôi yêu quê tôi lắm chớ. Ở đó còn mồ mã ông bà dù đã lạn. Còn bao nhiêu mồ mã vô danh khác dù đã tan thành cát bụi để tựu hình mảnh đất hình chữ S nằm nghênh ngang một cõi bờ Đông Hải, gần suốt hai mươi thế kỷ. Còn riêng trong một góc nhỏ, hai nấm mộ lạnh tanh. Nơi đó, tôi đã lớn lên, ngoài sự chăm lo đùm bọc của mẹ cha, còn nguyên cả một chiếc nôi đồ sộ mà tổ tiên tôi ... đã chụm tay kết thành bằng mồ hôi, máu, nước mắt và cả một tinh thần nhân bản tuyệt vời. Quê hương tôi đã nuôi tôi lớn lên bằng cơm gạo, cá mắm, thịt thà ... kết tụ từ đất đai sông nước mà người trước tôi đã gầy dựng, giữ gìn. Quê hương tôi đã dạy tôi sự nhẫn nại cùng cực của một dân tộc đã bị đày đọa gần suốt hai ngàn năm dưới sự thống trị của đám giặc phương bắc mà vẫn còn nguyên lành bản chất như nhánh tre già, qua bao nhiêu bão dữ vẫn dẻo dai vươn mình. Quê hương tôi đã cho tôi cả một kho ca dao mà từng câu lục bát ngọt ngào đến độ mẹ ru con thành tiếng ầu ơ. Quê hương tôi đã cho tôi nghìn trùng lời hay ý đẹp trong mỗi câu mỗi chữ mà ngôn từ cấu tứ đẹp như gấm như hoa, của ba ngàn hai trăm năm mươi bốn câu lục bát kể chuyện đoạn trường Thúy Kiều, ba trăm năm mươi sáu câu song thất lục bát than thở nỗi buồn Cung Oán, bốn trăm lẻ tám câu kể lể nỗi chờ mong Chinh Phụ ... Những bài hát nói mà âm tiết nghe reo vui như tiếng cười khúc khích khi đời chưa dâu bể. Những câu thơ 7 chữ 8 chữ ... của những người làm Thơ Mới mà chữ nghĩa được nhã luyện đến thành văn vẻ, được chuốc lọc để trở nên óng ánh như trăng sao ... Quê hương tôi đã dạy tôi ăn ở lễ nghĩa trong gia đình, ân cần ngoài xả hội như chính tấm lòng của kẻ sĩ Nguyễn Trải, ngay khi ở phương tây người ta còn thiêu sống nhau vì ba cái trò ngụy tín. Còn bao nhiêu nữa làm sao kể hết. Làm sao tôi quên. Làm sao tôi không nhớ.

 

Vậy rồi tới khi bỏ xứ mà đi, coi như phủi sạch nợ nần. Làm sao lòng không lấn cấn.

 

Xứ người, lạ từng cọng cỏ ngọn cây. Lạ tới tiếng hỏi câu chào. Lắm khi buồn ngẩn buồn ngơ. Dẫu có an thân sao vẫn cứ thấy mình tạm bợ. Mà biểu về, chẳng lẻ lại cúi gập mặt mà về để khỏi nhìn thấy những thay đổi não lòng. Ở đó, những thằng trọc phú quyền thế ! Ở đó những người nghèo mạt hạng không chút đỡ đần ! Và cả một tinh thần nhân nghĩa từ ngàn đời bị dày đạp chẳng làm xao xuyến được một cái nhíu mày !

.......................... ..............................

 

Rồi tết qua đi, sầu ở lại !

 

... Lại thêm một cái tết quê người. Mươi năm đầu, còn nguyên một hy vọng, kềm lòng giữ chí như ngày ra đi. Vẫn mơ một ngày về lại cố hương, thắp nén nhang, quỳ xin tội với vong linh người khuất mặt. Rồi dấn mình vào cuộc trùng hưng. Nhưng rồi, từng năm qua, từng cơn mơ bị giựt dậy phũ phàng ... Tôi đã làm gì đời tôi. Ngoài miếng ăn, từng bữa ... Và quê hương vẫn rền rĩ giọng hờn !

 

Vậy rồi bốn mươi năm đã qua. Qua ngọt xớt như mới hôm qua hôm kia.

 

Thời gian lẳng lặng thoát đi như sao xẹt.

 

Tôi còn ở đây, bên này biển lớn, giữa bãi bờ trắng toát ...

 

Mấy ngày qua, chiếc độc bình cũ được cắm thêm nhánh mai giả, phủi hoài mà bụi vẫn thâm đen. Săm soi rồi thấy mũi lòng. Hoa giả vô tình mà cũng tàn tạ. Nói gì tới người ...

 

Năm này sang năm khác, thói thường rồi phải quen. Quen với sự dư thừa cũng như sự thiếu thốn. Bốn mươi năm rồi. Đủ để quen bao nhiêu thứ lạ mà sao vẫn không quen với cái thói lãng quên. Quen với ngọn thông xanh sừng sững sao không quen với cái trống trải vì vắng bóng bụi tre già. Đã nhẳn mặt với đường lộ phẳng phiu sao còn thắt thỏm hoài lối về làng trầy trật, ngang qua bến nước với chiếc cầu tre lắt lẻo

....................... .........................

 

Bốn mươi năm rồi, sao còn lấn cấn với ba cái chuyện phải quên. Làm như quá khứ giành giựt hoài với hiện tại, bốn mươi năm rồi vẫn không chịu buông tay ! Cái thói quen hay tục lệ mà mỗi năm tết đến là ai nấy dù bôn ba đâu đó cũng lo thu xếp về quê, mừng tuổi mẹ cha, vung đắp mồ mã, cúng vái ông bà ... làm như nhiểm trong máu huyết hay sao. Vậy mà rồi, bỗng dưng, bít hết mọi đường về ! Bốn mươi cái tết xa quê. Lẽ ra đâu còn lạ cái lạnh cóng người của mùa xuân vọng tưởng. Lẽ ra mọi ấm ức phải dìm sâu, chôn kín dưới mấy tầng huyệt thời gian.

 

Vậy mà cứ mỗi lần nghe nhắc tết, lòng sao lại băng hăng bó hó như lỡ thiếu sót một điều gì. Chút lễ vật, trái cây, nhang đèn ... đã có đó, tàm tạm. Làm sao đòi hỏi hơn nữa, chỗ đất trời lạ lẫm.

 

Mà dẫu có thiếu rồi cũng có làm sao. Kiểu ăn nhờ ở đậu. Được chừng một hai bữa. Rồi tết nhứt cũng qua. Ai nấy trở lại với nhịp sống mới đã thành nếp. Sao riêng mình, cứ mãi chút băn khoăn ...

 

Tết tha hương rồi thoáng qua như bóng mây váng vất ...

 

Còn lại không là chút khói hương lẫn lẫn trong gian nhà kín cửa. Chút khói hương quến lại như chút quà tết ai đó bỏ quên. Khổ nỗi, của bỏ quên mà sao gợi đầy mùi nhớ. Những thề nguyền !

 

Có phải vẫn mãi là nỗi ân hận của một kẻ trốn chạy, bỏ cuộc ... giữa chừng ! Có phải vẫn mãi là nỗi chua cay của một kẻ bị giựt dậy giữa cơn trường mộng ! Có phải vẫn mãi là sự hổ thẹn của một kẻ đã thất hứa dẫu thệ nguyền chưa bao giờ được khắc đá đề tên !

 

Trong giờ khắc linh thiêng của một năm, sao lại nhớ, nhớ như mới hôm qua hôm kia, nhớ như từng chữ từng lời đã đục đẽo vào tim ...

 

Tết qua rồi, nhang đèn đã lạnh. Sao lời thư năm nào, tháng nào, ngày nào đó ... vẫn lắt lay trong trí nảo đã gần như mòn nhẵn

 

“ Ở xa, con ăn tết ra sao ? Tết nhứt ba không chờ quà cáp. Ba chờ tụi con gởi về tin vui chung cho hết thảy mọi người ’’

 

Mấy dòng chữ mực xanh, nét sắc như dao khắc ... vẫn còn như từng mũi nhọn.

 

Vậy đó tưởng quên mà vẫn nhớ. Mười năm một giấc mộng không thành. Người chờ cho hết đời cô quạnh. Ta đứng bên trời, lệ chảy nhanh.

 

Rồi tết qua đi, sầu ở lại !

 

Cao Vị khanh

______________

CVK_NGuyBien.JPG
CVK_Thehaiminhson.JPG
cvk_ruoukhoncam1.JPG
cvk_trantinh.jpg
cvk_haumonnhapthat.jpg
cvk_vc1.JPG
CVK_Thang11.png

Khi viên đạn được bắn ra từ một góc khuất trên căn lầu bỏ trống của cái kho sách phế thải ở một góc đường Dallas năm đó, nó đã mang theo trong đường bay của nó định mạng của một người và một dân tộc. ( giả sử có một hơi thở gấp làm ngón tay bấm cò khẻ run, một tia nắng chợt loáng qua làm nheo con mắt đang căng cứng, chiếc công xa chạy nhanh hơn một chút, chậm hơn một chút… và viên đạn trệch đi một kẻ tóc… ờ có bao nhiêu giả sử trong đời như những phải-chi vẫn mãi là những lời xin lỗi )

 

Lúc đó, trong một góc vườn nằm xa hơn một chút về phía tây bắc, lá phong cũng đã đổi màu đỏ rực.

 

Khi đó, xa hơn nữa, tận đáy cùng một lục địa da vàng tối tăm và buồn bã, người thiếu niên mới lớn là tôi như chợt thấy chính mình vừa tử thương. Trong trái tim nồng nàn của nó, thời đó, không chỉ có hoa và bướm, có thơ và mộng mà còn có thêm nữa những áp bức bất công, những chết chóc điêu tàn, những nghèo nàn ngu dốt… hậu quả của một chủ nghĩa thực dân khốc hại và đang trở thành một vùng môi sinh mầu mỡ cho chủ nghĩa cộng sản. Bộ mặt điêu tàn của một xả hội nhược tiểu càng trở nên thảm hại hơn nữa trong sự tranh chấp giữa những bạo quyền. Và cùng lúc càng lộ rõ vẻ trơ trẻn của những “thần tượng” trong cơn chạng vạng của niềm tin. Ngay lúc đó, sự xuất hiện của một người Mỹ trẻ tuổi con-nhà-giàu-học-giỏi-đẹp-trai đặc biệt với những ý tưởng cấp tiến đến độ gần như thách thức lại cả một lực lượng bảo thủ đã ăn rễ trăm năm trong xả hội (tư bản) Mỹ tự nhiên trở thành một niềm hy vọng cho hơn một người tuổi trẻ. Ðã có lúc thanh niên ở những nước kém mở mang, nô lệ nghèo đói và giặc gĩa, bỗng vui náo nức như vừa tìm được một người đồng minh thông cảm và tin cậy. Lứa tuổi của cách-mạng-lãng-mạn tìm được trong đôi mắt sáng, nụ cười ấm, và nhất là ý thức công bằng xả hội như một liều thuốc hồi sinh cho căn bệnh trầm kha của đất nước họ.

 

Buổi sáng hôm đó cái chuyện không ai ngờ được đã xảy ra, viên đạn được nhắm bắn từ một độ cao năm tầng lầu đã đi đúng hướng và nổ tung làm văng mất một phần não bộ của vị Tổng Thống trẻ tuổi thứ 35 của Hoa Kỳ, niềm hy vọng của tuổi trẻ những năm 60, bỗng như nổ tung một lần nữa, giữa tim tôi.

 

Mới vài năm trước, trong kỳ thi tú tài, tôi đã cắm cúi và hào hứng viết không kịp thở bài luận văn có đề tài rất thời thượng. “Anh hay chị nghĩ gì về câu nói của Tổng Thống J.F.Kennedy : đừng hỏi tổ quốc đã làm gì cho bạn mà hãy hỏi bạn đã làm gì cho tổ quốc” Bài thi văn có hệ số 3 và đã vớt tôi qua trót lọt kỳ thi dù rằng điểm toán nếu chẳng là zéro thì chắc cũng không khá hơn một.

 

Câu nói được khéo léo đặt theo lối nghịch đảo và mệnh lệnh cách đủ gây ấn tượng mạnh và đột ngột đặt lại mối tương quan giữa con người và đất nước. Câu nói có thể là lời nhắn gởi riêng với thanh niên của xứ sở ông ta nhưng cũng đã gây tác động không ít đến thanh niên xứ khác. Dường như đã từ lâu lắm người ta mới thấy xuất hiện một lãnh tụ thông minh và khả ái như vậy.

 

Giai nhân tự cỗ như danh tướng

Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu

 

Tháng mười một năm nay tôi lại có dịp ghé qua Dallas. Ðúng dịp kỹ niệm 40 năm ngày thảm sát. Thành phố đã có chút dáng vẻ vào thu. Trời không còn nóng cháy và quanh tượng đài đã có lác đác lá vàng rơi. Bốn bức tường trắng vẫn đứng im ỉm như còn giữ nguyên niềm bí ẩn chưa được giải thích thỏa đáng.

 

Xa hơn một chút, trong góc vườn cũ, những lá phong cũng đã bắt đầu ửng đỏ.

 

40 năm. Lịch sử đã xóa đi và viết lại nhiều lần. Cuộc chiến ý thức hệ ở Việt Nam mới dây dưa vào thời kỳ ấy đã bộc phát dữ dội suốt mười năm sau và rồi cũng đã chấm dứt từ hơn hai mươi lăm năm nay. Người chết đã chết. Người còn sống, cay đắng, tật nguyền hoặc vui cười thỏa mãn. Và sự thật thì vẫn còn là nạn nhân đầu tiên và cuối cùng của bất kỳ một cuộc chiến tranh nào.

 

Tháng mười một thơm như một tàu lá mới. Thành phố sạch bóng như vừa được lau chùi. Và lòng người thì cũng trơn lùi kỷ niệm. Người ta có nhớ lại thì cũng chỉ một chút ngậm ngùi. (để làm gì những ngậm ngùi !) Giữa mặt đường láng lẩy ngay chỗ viên đạn nổ tung một giấc mộng có đánh dấu chữ X. Người ta đánh dấu một tội ác hay đánh dấu một tiếc nuối. (và những tiếc nuối có phải là lời tạ lỗi vô thưởng vô phạt ?)

 

Ðứng ở đó, dưới một bầu trời rất mới mà cũng rất cũ như đã y vậy tự bao giờ, lòng bỗng nhiên cảm khái như chuyện chỉ mới vừa xảy ra. Có một cái gì không phải cứ tiếp tục được lặp đi lặp lại. Con người có tự nhận là thượng đế của chính mình thì cũng chỉ là một cuộc đảo chánh vô vọng. Và, lịch sử rốt lại chỉ là một cuộc đánh tráo gian lận của định mạng. Vậy thôi. Trời đất bày vẻ đủ điều chỉ cốt để mà mắt con người và ... bi kịch, chính là ai nấy đều tưởng thật. Người ta sống với cái ảo tưởng về một quyền năng phù phiếm. Người ta ôm ấp những hoài bảo, nuôi nấng lý tưởng, năng nổ hành động như trăm năm là một khắc mà quên rằng sát na đã lố tận thiên thu. Cái phút-chốc có giá trị tiên tri của một lời sấm rủa. Và con người mãi mãi chỉ là một thứ đồ chơi rẻ tiền của tạo hóa.

 

Tháng mười một rực rỡ như một vết thương mới kéo da non.

Và… trong góc vườn thu cũ, lá phong cứ hực đỏ như một nỗi tiếc nuối bị ngậm nín lâu ngày.

Cao Vị Khanh

                        

                    THỐN TÂM

 

                                    -1-

 

      Rượu chiều chưa ngấm đủ say

hồn lưu lạc đã thấm cay vị tình.

   Ly đầu sóng sánh điêu linh

Ngày chưa ngất lịm đã hình như đêm.

   Ngật ngừ tựa bóng. Im lìm.

Trăng sao trốn biệt. Buồn chìm hiện thân

  Nâng ly cụng bước phong trần

mươi năm. Ngẫm lại tội ngần ấy mơ !

   Sá gì chút mộng làm thơ

mà đem tâm sự vổ bờ hư không.

   Đeo chi cái thói đèo bồng.

                       -2-

   Bấy lâu lòng lặng như tờ.

Lơ mơ giấy trắng. Ơ hờ mực đen.

   Cõi thơ lạc nẻo đào nguyên.

Cõi người lắt lẻo giữa triền tử sinh.

   Lòng đau thế sự gập ghình.

Bút đau thắc thỏm chuyện mình với ta .

   Mực tung tóe cõi ta bà !

Ba sinh gom lại một tà huy phai.

   Phất phơ đời ngắn tưởng dài

quơ tay vói níu, rõ hoài ! Rổng không.

   Thôi thì bỏ thói đèo bồng.

 

           c a o v ị k h a n h

CVK_ThoiTam.JPG
cvk_am tuu.JPG
cvk_BTH1.JPG
cvk_hoangphi.JPG

                                                                             tranh OSWALDO GUASAYAMIN

Ta theo ta, những dặm dài

từ đêm điếm cỏ nối ngày cầu sương.

Ai xui mộng mị dị thường

chân tù ngục, hồn dặm trường thiên nhai.

Dưng không, du tử đường dài

bốn bên bề bộn bạn bầy bỏ bê.

Kiếp chung cá chậu ê chề

thớt dao đã sẵn, tư bề. Bó thân.

 

Đường tình sắp lớp cố nhân

khít khao lắm cũng xa gần chiêm bao.

Sẩy tay, nguyệt rụng phương nào ?

Ô hay sương khói bào hao nỗi mình !

Thôi thì, huyệt mộ làm thinh,

kết hoa, tẩm liệm, cung nghinh điệu sầu.

 

Đường đời bước thấp bước cao.

Bấp bênh. Lạ lẫm. Lao nhao. Lằng nhằng.

Bốn phương tám hướng lăng xăng.

Bước lang bang. Bước hoang mang. Bước càng.

Tới. Lui. Lèn lách. Chàng ràng.

Nhơn. Chia. Trừ. Cộng. Phí thân phận người

. ........

........

 

Mỏi chân. Ngó lại. Bật cười.

Đầu đời tay trắng. Cuối đời tay trơn.

 

Cvk

cvk_gioma_2.JPG

GIỖ MÁ

Con về máy động tuổi thơ

ngủ quên đáy mắt mẹ chờ cuối năm.

Con về lau giọt lệ thầm

sót trên khóe mỏi khóc câm. Những ngày.

Con về cầm lại đôi tay

trơ xương từ buổi trời bày cuộc chia.

Con về nối lại đoạn lìa.

Má đâu đó sáng, con khuya biệt mù .

 

Cao vị khanh

CVK_Tietphungam.jpg
cvk_thang7.jpg

Tháng bảy. Tháng của bất chợt mưa đêm và lao chao cánh phượng. Tháng của trường đóng cửa và bàn ghế bỏ trống.

 

Tháng bảy. Tháng của râm ran tiếng ve đến sốt ruột và của những trang lưu bút viết vội khi đầu óc còn bàng hoàng vì dư âm của khúc nhạc tạm biệt, bây giờ nghe ra ngu ngơ mà hồi đó sao xao xuyến chi lạ. Hôm nay đây còn vui trông thấy nhau. Bên tiếng ca tiếng đàn vượt trời cao...

 

* Không đâu mà bỗng dưng nhớ lại. Những mùa bãi trường tháng bảy... của một thời đã xa và ở một chỗ không còn gần nữa.

 

Mới cuối tháng sáu, sách vở đã bị bỏ quên sau kỳ thi đệ nhị lục cá nguyệt mới vừa xong. Thầy cô còn lo chấm bài thì học trò không hẹn mà đã bắt đầu lơ là với chuyện học hành. Mà làm sao không lơ là cho được. Học trò còn bận bịu trăm ngàn chuyện khác, còn quan trọng và thiết thực hơn biết mấy cái mớ định lý với luận đề cùng những niên biểu với triều đại xa xôi như mấy cái cố sự mịt mù. Phải rồi ai mà dửng dưng cho được, khi trên trời xanh thì mây trắng cứ đong đưa, nắng thì cứ vàng hoe, ve sầu cứ kêu ra rả và lòng người ta thì chộn rộn như cái nắp vung đậy nồi xào bần ba ngày tết bị chụm lửa quá độ. Người ta đã bị o ép chín tháng trời mệt lả. Toán, lý hoá, văn chương, sử ký, địa lý... toàn là thứ cũ mèm khô hóc trong khi mấy cái món tươi roi rói kia thì cứ bị cấm đoán rầy la. Này mắt em-chưa-quen-đã-nhớ ngoài cửa lớp, này bóng anh-nhẳn-mặt-cònlạ lấp ló cuối hành lang, này tờ thư làm bộ bỏ quên trong quyển sách mới-mượnchiều-qua-đã-trả-lại-sáng-nay... - học trò còn mắc mớ với bao nhiêu là bận-bịuchẳng-ai-xúi-biểu của cái thuở vậy-đó-bỗng-nhiên-mà-họ-lớn...

 

Tháng bảy là những ngày dài rong chơi, phố gần, chợ xa, vườn rẫy, núi non, sông nước... những góc vắng tụ năm tụ ba chia lén điếu thuốc đầu đời, những tối long nhong đạp xe qua nhà ai mắt cứ liếc ngang liếc dọc, có thấy gì được đâu họa may một cái bóng vô tình mà cũng về hí ha hí hửng chép thơ-nguyên-sagặp-một-bữa-anh-mừng-một-bữa...

 

Tháng bảy. Sung sướng quá giờ cuối cùng đã hết. Ðàn chim non hớn hở rủ nhau về. Chín mươi ngày nhảy nhót ở đồng quê. Ôi tất cả mùa xuân trong mùa hạ.(**)

 

Cái mùa bãi trường tháng bảy... cái mùa xuân lộn chỗ đã làm hơn một kẻ luyến lưu... Có người còn coi đó là những kỷ niệm đẹp nhất của một đời người.

 

Vậy mà rồi mất hết khi người ta phải bỏ đi, một ngày nào đó. Ở chỗ xa, không có phượng đỏ làm sao còn thấy rơi xuống lòng ta những giọt châu. Không có bạn bè làm sao mà yêu dấu. Không có tiếng trống thùng thình làm sao mà bồi hồi. Và nhất là không có ngôi trường cũ nóc dột đã mấy đời, những gốc me gốc còng cỗi đến không còn đếm được tuổi, những xe bánh lọt đậu đỏ ngọt ngây, những rổ cốc rổ ổi chua lét, và những mái tóc và những đôi mắt... thôi đã mờ như trầm tích, lấy gì mưa xuống cho những linh hồn đã khô...

 

Vậy mà rồi mất hết... Người ta buồn bã bỏ đi. Mười năm. Mười lăm hai mươi năm. Buồn bã sống như loài ốc không hồn, bò lết trên những nhánh đời thất lạc...

 

Từ vài năm nay, tháng bảy ở Mỹ châu, ở Âu châu, ở một thành phố xa lắc tuốt bên Úc, ở một thị trấn lưng chừng đâu đây, bỗng nghe một ngày họp mặt, một buổi gặp gỡ của những người tưởng đâu đã biệt tích, ngờ đâu đã trầm luân... Rồi bỗng trở về, bàng hoàng như từ cõi trăm năm... Họ gặp lại nhau, đuôi mắt đã đầy dấu chân chim, đầu tóc đã bào hao sương tuyết... Họ níu tay, vỗ vai, cười ha hả hay khóc sụt sùi. Họ ôm chầm lấy nhau, ngỡ ngàng ngó lại quá khứ mình, rưng rưng thấy lại tuổi trẻ mình... cái quá khứ cái tuổi trẻ đã chìm khuất theo quê hương biết bao nhiêu thương nhớ mà cũng biết bao nhiêu ruồng rẫy. Họ cười nói, chuyện trò, uống chung nhau ly rượu, ăn ké nửa miếng bánh như thuở còn sẻ nhau góc tư góc tám những sợi-tóc-cứ-vương-vướng-chân-người.

 

Em kể cùng ta những dặm đường. Những hồi ly biệt, nỗi tang thương. Những sông suối cạn, cồn quạnh quẽ. Những núi tang thương, biển đoạn trường.

 

Chép lại một đoạn đã viết về một lần họp mặt đó. “

 

...Vậy đó, mỗi người đều có một ngôi trường cũ tưởng khi vội vã ra đi đã bỏ sót lại. Tưởng đâu người ta đã cướp mất luôn cái nơi chốn thân yêu sau khi đã đuổi mình đi tan tác. Nhưng không, ngôi trường cũ của em đã không bị cướp mất mà còn được nhân lên mấy lần nhiều hơn nữa. Bởi vì cái xác trường thì còn kẹt lại đó, chớ cái hồn trường thì đã theo em và bạn bè đi lưu lạc tứ phương. Bằng chứng là lâu lâu lại nghe tin buổi hợp mặt học trò trường Nguyễn Trung Trực ở chổ này, mai mốt lại nghe hợp mặt ở chổ khác. Hóa ra cái trường Nguyễn Trung Trực đâu còn ở tận cái thị xả xa xôi đó nữa. Nó ở ngay đây, kề bên em đó. Nó ở giữa phố phường đông đúc vùng vịnh biển phía tây nước Mỹ, nó cũng ở tại vùng đồi núi cheo leo phía đông. Nó nằm trên vùng cực bắc lạnh lẽo mà nó cũng có giữa đồng cỏ miền trung tây mênh mông. Nó có ở châu Âu mà cũng có tuốt bên châu Úc. Nó đã hóa thân thành muôn vạn tấm lòng rải ra khắp cùng mặt đất. Ðến đổi chừng như nơi nào có đôi ba học trò cũ là có trường mới dựng lên, hồn nhiên và thành khẩn. Những người học trò cũ đã chắt chiu mang theo từng mảng vụn để rồi dựng lại thành những ngôi trường mới, những nơi chốn mới để cùng trở lại hành hương. Ở đó em gặp lại đủ hết, thầy cô cũ, bạn bè cũ. Có thể còn thiếu sót một số người. Nhưng có sao đâu em, họ đến trễ đó thôi, vẫn còn chổ để dành riêng cho họ. Ở đó em sẽ thở lại chút hương thời tuổi dại. Em sẽ thấy lại từng mặt người quen, dù sơ hay thân vẫn là cái tình người nồng ấm, cái tình người mà tôi chắc nếu em có bỏ công lặn lội ngàn ngàn cây số để trở về, đứng lại giữa khung lớp cũ em cũng không còn tìm thấy được nữa. Người ta đã thiêu hũy nó lâu rồi. Cái tinh thần tôn sư trọng đạo, cái ý chí của bậc đại nghĩa mà trường mang tên đâu còn chỗ ở đó nữa. Tên tuổi đó bây giờ chỉ là sự ngụy trá chớ còn hồn thiêng cũng đã phưởng phất theo bầy con cháu tha phương. Chính những ngôi trường mới mà đám học trò cũ bằng tinh thần xưa gầy dựng lên ở đâu đây, một hôm nào đó mới là cái nối tiếp liền lạc của nếp văn hóa đã thành truyền thống, mà chúng ta còn hảnh diện mang tên. Tôi vẫn tin rằng, ở nơi chốn cũ, bạn bè và thầy cô, những người đã mang chung cùng em kỷ niệm, dù có lao đao lận đận vẫn gởi lòng sang trong những buổi hợp mặt này. Tôi tin em cũng không quên họ. Em đến để gặp lại những người có mặt. Mà em cũng đến để gặp lại những người vắng mặt nữa. Phải không? Giữa bàn tay siết chặt, trong vòng ôm thân ái ở đây làm gì không có thấp thoáng một dấu vết xa xôi, một lời thăm hỏi ở đây làm gì không có ngậm ngùi một câu nhắn gởi thầm cho người còn ở lại đó. Tôi tin vậy lắm bởi vì chung thủy vẫn là đức tính của người-nguyễntrung-trực và nghĩa nhân vẫn là bài học thuộc lòng mà chúng ta vì muốn nhớ nên đến nỗi phải bỏ đi. Ở ngôi trường mới đó còn bao nhiêu người em chưa hề thấy mặt nhưng tôi tin rồi em sẽ quen biết dễ dàng. Ở đó mọi cấp lớp đã bị xóa đi, mọi giờ khắc sẽ sắp trùng lại. Mọi người chỉ còn một thời dụng biểu duy nhất. Thực tập cái bài học tình thương bị bỏ dở nửa chừng. Những anh, những chị, những em sẽ không còn là những chủng tử lạc loài. Chúng ta đã có cơ may để nhập lại làm một. Một tấm lòng duy nhất. Chúng ta may mắn có ngôi trường cũ rộng mênh mông như biển đủ sức hút về hết mọi nhánh sông con. Giữa lượng biển hãi hà có giọt nước nào khác với giọt nước nào đâu, phải không em? Dường như có lần nhà thơ họ Vũ sau khi thấy hết cảnh núi lở sông bồi đã ngậm ngùi than rằng:" Chúng ta mất hết, chỉ còn nhau". Vâng, đúng rồi em, chúng ta đã mất hết, nước non, tuổi trẻ, danh vọng, tiền tài... Cái chúng ta còn lại chỉ là một tấm lòng son sắt như chút "của tin" mà Thúy Kiều đã giữ suốt mười lăm năm đòi đoạn để trân trọng giao lại cho người tình. Ðoạn trường của chúng ta đã hơn hai mươi lăm năm, chúng ta còn gì để lại cho trường cũ nếu không là chút tình nghĩa tặng cho nhau trong cơn thất tán này.

 

Và cũng chút xíu tình nghĩa đó thôi để mai kia mốt nọ có lỡ bước trên dặm đường lưu lạc vẫn còn biết có một nơi mà gởi gắm lòng về... ”

 

Ðã đủ chưa để nói về một sinh hoạt mới của đám dân lưu lạc. Hai mươi lăm năm đã quá thừa cho một câm nín. Ðã đến lúc để nhắc nhở nhau về một nơi chốn đã bỏ đi, hâm nóng lại chén đời đã lạnh, mời nhau húp lại chút cặn thừa rất tình-xưa-nghĩa-cũ. Nhưng mà có gì nồng nàn và chân thành hơn mớ dây mơ rễ má bắt đầu từ ngôi trường cũ đó, lúc mà tuổi đời không quá non để còn khờ khệch mà cũng không quá cằn để đến nỗi chai lì. Bởi vì phải không, chính ở đó mà chúng ta đã lớn lên, học hỏi trong yêu thương và tin tưởng sáng lán nhất. Chính ở đó chúng ta đã có những thầy cô gần gũi và ân cần đã hé mở cho chúng ta dấu dạng của tương lai. Và cũng chính ở đó, chúng ta đã có những người bạn mà chân tình không dễ gì tìm lại được nữa.

 

Tháng bảy năm nay tôi sẽ đi dự buổi họp mặt thầy cô và học trò cũ của ngôi trường tôi đã dạy. Chắc tôi sẽ gặp lại một số người quen biết cũ. Dù thân hay sơ, có thể họ đã già đi nhiều sau những năm lận đận, có thể họ sẽ tươi tắn hơn nhờ những thành đạt ở đây, tôi không biết tôi sẽ gặp ai, nhưng điều tôi biết chắc là tôi sẽ gặp lại những tấm lòng. Những tấm lòng dù nông sâu khác nhau đều đã được un đúc, nuôi dưỡng bằng chính tinh thần nhân ái vẫn là nền móng của những ngôi trường trung học cũ ở miền Nam trước năm 75. Cái tinh thần nhân ái đã chắp cho họ đôi cánh mỏng, giúp họ bay qua những vòm trời gió bão, và còn giúp họ bay tìm nhau sau cơn hoạn nạn chung.

 

Chúng ta vẫn còn đó, những niềm tin, phải không ?

 

Cao vị Khanh

 

* Ngày tạm biệt-Lê Dinh

** Thơ Xuân Tâm

cvk_dodo_3.jpg

“DÔ” ! “DÔ” !

 -tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu

                             Âu Dương Tu

 

c a o v ị k h a n h

RƯỢU CHIỀU

Rượu chiều chưa ngấm đã say

đã hai con mắt phương đoài đăm đăm .

Người đi chẳng một vọng âm

chỉ nghe quạnh một tiếng thầm trong tôi

 

t r ầ n b a n g t hạ c h

RƯỢU CHIỀU

-CỤNG LY 1-

Ở đây dư một chỗ ngồi

thừa con mắt nhớ, thiếu lời tri âm

nhớ người tôi chuốc rượu thầm

nghe men rượu đắng từ trăm năm nào.

 

n g u y ễ n v ĩ n h l o n g

RƯỢU CHIỀU

-CỤNG LY 2-

Chiều nghiêng theo chút rượu này

Hơi men đã thấm những ngày tháng xưa

Người đi lá chợt thay mùa

Sao nghe trong tiếng tình xa ngậm ngùi

Người đi mang cả hồn tôi...

 

n g u y ễ n t h ị k h á n h m I n h

RƯỢU CHIỀU

-CỤNG LY 3-

Ở đây... lạnh một chỗ ngồi

Bước cô độc bước. Nhớ người. Tới. Lui.

Có con dế gáy sụt sùi

Cụng ly ta với đất trời mang mang.

 

b c d

RƯỢU CHIỀU

-CỤNG LY 4-

Rượu người. Tôi uống. Môi cay.

Rượu tôi. Dưới đáy. Chạm ai môi buồn.

Những chiều, những tối tuôn tuôn

Chỗ ngồi đã mõi mòn đường quan san.

______________

 

cvk_camkich.jpg
cvk_TTT1.JPG
CVK_bavacon.jpg
cvk_huongnhan.JPG

CAO VỊ KHANH: HƯỜNG NHAN

huong-nhan-v1.pdf | Cao Vị Khanh (caovikhanh.com)

CVK_ThangTuTuyenTap.JPG

CAO VỊ KHANH

 TUYỂN TẬP THƠ VĂN THÁNG TƯ :     

thang-tu-tuyen-tap.pdf | Cao Vị Khanh (caovikhanh.com)

cvk_nonan_3.jpg

Chui ra khỏi bụng mẹ là ôi thôi nợ đâu mà nợ như Chúa Chổm. Thiệt tình cũng chẳng rõ ông Chúa Chổm nợ nần ra sao mà đời trước tới đời sau, ai cũng biết, cũng rêu rao, cũng xỏ xiên... Mà hổng biết ông chúa đó rồi có thanh toán được chút nào món nợ... như-chúa-chổm đó không, chớ nhìn ra thiên hạ bốn phươngkể cả kẻ đang muốn.... trần tình này chẳng những nợ nần ngập đầu mà còn gần như là chuyên môn... giựt nợ. Từng đoạn đời là từng lần vay mà không trả. Rồi có khi có trả mà thiếu đủ cũng chẳng biết ra sao. Ý là chưa nói đến chuyện lời lỗ của chủ nợ. Vậy mà cứ dang thân đi mượn nợ gần như không biết... mắc cở là cái chi. Hết nói.

 

Lại nữa, nợ tiền nợ bạc xanh xít đít đuôi gì vậy mà dễ tính. Còn cái thứ nợ dẫu chưa bao giờ được tính phân lời, dẫu chủ nợ chưa bao giờ xắn quần xắn áo tru tréo rủa xả đòi cho bằng được... vậy mà làm như dẫu cho có muốn trả hoài trả hủy mà rồi sao thấy nợ vẫn còn... nợ. Kỳ thiệt.

 

Có khi nào rảnh rổi, ngồi buồn, mà đừng có bày đặt bắt chước Thúy Kiều-buồntrông-cửa-bể-chiều-hôm chi cho nó mỏi mòn con mắt, nhìn ngay cái chỗ gần xịt, khít rịt với mình nè, nói văn hoa chút theo kiểu ông TCS là nhìn-lại-đời-mình-đờiđã-xanh-rêu đó, coi có phải ! Ngay cái lúc mới mang-tiếng-khóc-bưng-đầu-mà- ra, nợ nần đã lút đầu lút cổ. Phải không. Làm chi mà để mấy má, mấy mẹ, mấy mệ, mấy mợ, u, bầm, măng, mom... đeo cái bầu tròn vo trước bụng, phá vở hết mọi đường cong mỹ thuật của phái đẹp, rồi lại nặng nề đêm ngày ì ạch tới lui mất cả vẻ thướt tha của phái nữ, đôi khi còn ụa mửa tới mật xanh mật vàng... Phải chi cực nhọc vậy sau 9 tháng 10 ngày rồi vọt ra cục vàng cục ngọc gì cho cam. Đằng này, chui ra đỏ hỏn huyết nhớt lòng thòng thấy mà phát gớm. Lắm khi còn bị phán cho một tiếng gọi nghe ra cũng chẳng ngọt ngào gì cho lắm: cục nợ. Mà thiệt, gọi vậy cũng đáng. Chớ nghĩ lại coi, khi không rồi những bậc thuyền quyên vốn mỏng mảnh như tơ như lụa mà thiên hạ cứ xưng tụng là liễu yếu đào tơ đó lại đau đớn tới nỗi vặn vẹo rên rỉ như bị khảo tra tùng xẻo gì đâu á. Nội cái thành ngữ banh-da-xẻ-thịt đủ cực tả cảnh lâm bồn vừa vinh quang vừa rùng rợn hết nói. Nghĩ lại mà thấy thương ơi là thương thân phận nữ nhi, dẫu khi muốn khi... lỡ, mà hễ được lên chức cái là trần ai lai khổ. Rõ ràng là bất công quá mạng. Trai nam nhi muốn làm cha sao dễ ợt. Có khi lại còn được đưa lên tới tận cõi thiên thai. Còn làm mẹ, thì ôi thôi, dẫu có lỡ dại nghe lời rù quến mà theo tới cõi đào nguyên rồi sau đó đường về trần thế ôi sao mà... đoạn trường quá đỗi.

 

Nghĩ vậy rồi dưng không mà phát hoảng ! Từ khi là cục nợ, sau suốt mấy chục năm trời, theo luật tự nhiên nợ hẵn là mỗi ngày mỗi lớn, tới nay chắc hẵn đã là cả ôm, cả đống, cả khối, cả núi nợ... không chừng. Vậy mà suốt mấy chục năm trời ròng rã đeo đẳng mà chẳng chút áy náy, mà vẫn nghênh ngang ( có lúc cũng thì thụt ) đi lại giữa đời sao tự dưng thấy lòng cảm thán quá đỗi !!!

 

Thiệt vậy, từ cái ngày gọi là lọt-lòng-mẹ, dấn mấy tấc thân mềm nhủn vào đời kể ra cũng lắm nỗi nhiêu khê cho cả ba bên bốn phía. Từ ẩm bồng, rồi bò lết, rồi đứng chựng, rồi lẫm đẫm hai ba bước cho tới khi chạy nhảy lưng tưng... cho đến khi gọi là lớn đại, đi đứng vững vàng... Từ chuyện bú móm đến chuyện rửa ráy... đã có bao nhiêu lần tay đỡ tay bồng, bao nhiêu lần tay dìu tay dắt, vỗ về, răn dạy... chưa kể những lúc ấm đầu sổ mủi... cho đến khi gọi là trưởng thành, đi đứng vững vàng... biết bao nhiêu là công lao mà người xưa gọi là dưỡng dục. Công cha vô cùng thì nghĩa mẹ cũng vô biên. Cũng chẳng phải có ý so bì nhưng dẫu sao cũng phải nhìn nhận là những việc lắt nhắt, hay gọi là lặt vặt như thay tả, tắm rửa, tay vừa bếp núc tay vừa đưa võng ầu ơ... ít khi được “ thống kê ” chính thức... nên dễ bị bỏ vào xó lãng quên trong cái đầu vốn rối mù của thế nhân. Người ta có thói quen hay nhớ cái gì to, lớn, rõ ràng, rổn rảng... Còn ba cái chuyện rủ rỉ rù rì... gọi là “dổ em” rất dễ chìm lĩm trong cái biển động ì xèo của cõi nhân sinh.

 

 

Thử nghĩ coi một cục đất sét nếu không có người nhồi, nắn... từng chút một thì làm sao thành hình cái tộ tròn vo hay cái chén tròn trịa để đem đi hầm cho cứng cáp... Nhưng rồi người ta thường hay tấm tắc khen lớp men láng lẫy hay mấy nét vẻ sơn thủy hữu tình. Ít kẻ thấy ra hai bàn tay dính đầy bùn đất...

 

Tình mẹ nuôi con như hai bàn tay dính đầy bùn đất đó...

 

Nghĩ vậy rồi quay sang người bên cạnh. Đã có ông nhà văn nào đó ở bên tây có lần phát ngôn ngon ơ : Tội lỗi ( hay hạnh phúc hay đau khổ ) chỉ có khi có đôi có cặp. Mà thiệt, một người thì có làm ra trò trống gì được. Sát bên cạnh người đàn bà cơ cực đủ thứ đó là người cha- tùy theo “vùng miền” mà đổi lại gọi là ba hay cậu hay thầy hay tía... cũng sừng sững có dẫu không cao như ngọn Thái Sơn kiểu Tàu nhưng cũng không thấp hơn dãy Trường Sơn kiểu ta khi dang thân mình che chắn, chống đỡ, răn đe, uốn nắn... nuôi dưỡng đứa con suốt từ tuổi non xèo cho tới khi chín tới...

 

Còn nhớ chăng, những bữa mưa ngày nắng, trần vai gánh nặng ngoài trời hay còng lưng trong xưởng thợ, mặt mũi tay chân lấm lem hay cặm cụi trong phòng ốc... Gì thì gì cũng để đầu tháng đem đồng lương về mua sửa, đong gạo, thuốc men, mua tấm áo mới tựu trường, sắm chiếc xe đạp ba bánh con con... Hơn nữa, đôi khi còn là tấm gương cho đứa trẻ soi mình.

 

Nói chung, cả cha cả mẹ, cả ba cả má, thầy mợ... những bậc sinh thành ra ta đó, đã một đời tranh sống để nuôi dưỡng ta lớn lên, ngày hai bữa cơm canh, còn dạy dỗ ta tình huynh đệ nghĩa bằng hữu, kính trên nhường dưới, gần gũi xóm giềng, yêu thương đồng loại, tránh cái xấu chuộng cái tốt, gìn giữ đạo làm người... Những bậc sinh thành đó, thức khuya dậy sớm trong bao năm trời để theo ta từng bước, dẩn dắt ta hướng đúng chính đạo để chờ ngày ta dong ruổi... Những bậc làm cha làm mẹ đó, đã còng lưng trải cho ta con đường sáng rỡ, hy vọng chờ ta, một ngày dấn bước...

 

Tính ra, từ sơ sinh tới trưởng thành có đứa con nào không vay mượn của mẹ cha thời gian, sức lực, tinh thần... Những nợ nần đó nếu đem đổi ra đô-la Mỹ chắc cũng đếm không xuể, còn nói tới tiền Hồ Chí Minh thì ôi thôi biết là bao nhiêu triệu triệu tỷ tỷ... hổng chừng xây không biết bao nhiêu cái lăng mộ Ba Đình mà cũng còn dư nữa là.

 

Những công lao đó nếu không là nợ nần ta đã vay thì là gì ? Là gì ? Mà rồi có trả cái món vay mượn đó không. Nếu không trả được sòng phẳng thì rõ ràng là... giựt nợ, phải không ?

 

Cùng lúc đó, vừa lên năm sáu tuổi cha mẹ đã đưa ta đến trường lớp, gởi gắm cho thầy cô. Những ông thầy bà cô luống tuổi, thân xác teo tóp mà lại cứng cáp như những nhánh tre già, kính lão trệch đùa xuống sóng mủi, đôi khi cây roi mây tưa xơ nhịp nhịp giữa mấy ngón tay khẳng khiu, đã tập cho ta đánh vần từng chữ cái, đã cầm mấy ngón tay ta tập đồ những nét chữ cong cong, tập cho ta học thuộc lòng những bài thơ chữ nghĩa nồng nã tình người tình nước... Lớn lên chút nữa, lại lớp thầy cô khác, có khi trẻ tuổi hơn nhưng cũng không kém tận tâm đã mở cửa một vòm trời mới, cao vời vợi đính đầy những tinh tú sáng ngời của kiến thức nhân loại. Từ văn chương của tình tự dân tộc đến khám phá khoa học của thế giới, không nhiều thì ít, những vị thầy cô lúc đời ta đang độ hàm tiếu đang chuyển mình qua tuổi mãn khai, đã sắm sửa hành trang và mở lối cho ta phóng mình vào cõi đời bao la đến trăm mặt.

 

Bao nhiêu là chữ nghĩa, bao nhiêu là thơ văn đầy ắp hồn tính dân tộc, bao nhiêu là kiến thức khoa học dù có sơ khai vẫn là căn bản để vững chân bước vào đời.

 

Mười mấy năm vô ra trường ốc, ai không mơ có ngày đền đáp lại công ơn giảng dạy đó, đem mớ kiến thức đã vay mượn trước trả lại cho lớp trẻ đi sau. Ai không nghĩ có ngày đền đáp lại tâm sức của thầy cô bằng cách truyền thụ lại hết lòng cho những thế hệ tới sau để cùng phục vụ đất nước đã hết mực cưu mang.

 

Những công lao đó nếu không là nợ nần ta đã vay thì là gì ? Là gì ? Mà rồi có trả cái món vay mượn đó không. Nếu không trả được sòng phẳng thì rõ ràng là... giựt nợ, phải không ?

 

Vậy đó, làm sao tính ra cho hết, những món nợ trần ai đã vay đã mượn. Dẫu không có giao kèo cũng chẳng có hạn kỳ, những món nợ vay mượn hết sức hồn nhiên đó vẫn là những món nợ, còn đeo đẳng đâu đó, để những khuya hôm mất ngủ, để những sớm mai thức dậy, chợt lòng sao áy náy, thoáng chút băn khoăn.

 

Thêm chút gì ray rứt...

 

Nghĩ cho cùng, phải đâu mánh mun chụp giựt gì cho cam. Từ buổi đầu, dẫu không có thề nguyền, vẫn in lòng đền trả...

 

Sực cái...

 

Đại nạn bất kỳ...

 

Thế nước tới hồi mạt vận. Mọi thứ thay đổi lộn tùng phèo. Chính trị, kinh tế... kể cả luân thường đạo lý vốn đã ngàn đời ăn luồn trong mạch máu... một sớm một chiều đổi trắng thành đen. Cái “dữ” lên ngôi. Dẫu đời xưa hay nói “hùm dữ không ăn thịt con” nhưng lần này thì kẻ chiến thắng đem làm thịt thiệt cái đám lơ-tơ-mơ ở phía Nam, vốn mù mờ như bầy thiêu thân thấy bóng sáng. Vậy rồi, đường cùng, cả bọn kéo nhau trốn đi. Người phước đức vớt vát được thêm cha già mẹ yếu. Còn cái đám lo thân riêng còn trật vuột nói gì vói tới được thân thích ngay cả cha mẹ mình. May mắn giàn trời mới nhét được cái thân mình lên ghe có- giang đi vượt biển. Vậy rồi...

 

-Trích truyện ngắn RAU RĂM Ở LẠI -

Khuya đó ông bà nội đốt đuốc đưa cha con mình ra bờ sông chờ đò lên tỉnh.̣(-để đi ké một chuyến ghe vượt biên, chín ngày sau ) Nước lớn mênh mông chảy lênh láng sát mé bờ. Gió như bầy thú sút chuồng rượt đuổi nhau chạy giỡn ngoài vàm trống. Ba đứng giữa quấn kín con trong chiếc khăn lông ôm sát vào lòng. Ông bà nội đứng hai bên chắn gió, dáng bà nội xiêu xiêu như tàu lá mỏng. Con chó Lu già sụm cũng lẩn quẩn chạy theo chân rồi nằm ngóc mỏ bên chân nội. Ngọn đuốc cháy lập lòe, chập chờn mấy cái bóng im im. Đêm chưa muốn sáng thấp thỏm chờ mấy vì sao đến muộn. Rồi đò tới. Ông bà nội ôm hôn ba và con lần chót. Ba quay mình bước xuống đò ngoái nhìn lên thấy bờ bãi lạnh tanh. Hình bóng nội lung linh như có như không. Đò quay mũi. Ngọn đuốc sắp rụi hắt đóm lửa cuối bùng lên đủ cho ba nhìn thấy hai khuôn mặt thân yêu lần nữa. Mặt bà nội ướt đẩm như sương. Mặt ông nội hun hút hằn sâu như khắc. Ba còn thấy kịp nữa con hình như chân bà nội khịu xuống tay ông nội dang ra đỡ rồi đuốc tắt ngấm, đò chạy xa thêm, bóng tối trùm lên mù mịt. Đò chạy xa thêm. Ba mất nội và mất cả quê hương từ lúc đó.-

 

Và từ đó, bặt tăm !

 

Năm bảy năm sau, cha mẹ qua đời, chẳng về đội được chiếc khăn tang ! Có phải là giựt nợ không ?

 

Xứ người, đổi đời thêm lần nữa. Mớ chữ nghĩa đã thu tóm được từ tiền nhân, đã cày cục mài dủa thêm cho sáng ngời ý vị, đã chăm bẳm sẽ đem truyền đạt cho lớp đời sau để vừa trả món nợ đã vay vừa nối tiếp công lao của người đi trước. Nối tiếp việc truyền tụng để rỡ ràng thêm hồn tính dân tộc, để siết chặt hơn nữa mối ràng buộc tình nghĩa đồng bào... bỗng chốc hóa ra vô nghĩa, vô ích, vô dụng. Xứ người, mớ ca dao tục ngữ, lớp văn chương nền nếp, tư tưởng tamgiáo-đồng-nguyên... đã được kết tạo và lưu truyền bằng máu huyết của cha ông rồi cũng đành xếp xó. Thay vào đó mớ chữ tây chữ u uốn éo tới méo miệng, đinh ốc bù lon kềm búa múa loạn tới chai tay... Nghĩ cho cùng, kiếm ăn bằng cách nào thì cũng là để... no bụng. Mà điều lắm khi nghĩ tới công lao của bao nhiêu người đi trước đã dày công truyền tụng, riêng mình đã tâm niệm nối bước đành đem bỏ xó, lắm khi cũng không khỏi ngậm ngùi.

 

Nói ngậm ngùi là cho ra vẻ... văn chương thi phú ! Chớ đúng ra phải nói là mắc cở. Ai đời ngay khi đất nước bị giặc phá tan hoang, bạn bầy đồng lứa, kẻ thì súng dài súng ngắn lội rừng ngủ bụi, xả thân che chắn cho yên lành trường ốc, kẻ thì vùi thây khi chưa tới tuổi đôi mươi cốt giữ cho yên lành ngày tháng tới lui làm bạn bầy với chữ nghĩa. Vậy rồi, trèo lên bục giảng học trò chưa kịp nhẵn mặt, thoắt cái đã gục mặt bỏ đi, bỏ lại hết bao nhiêu ân nghĩa đã nhận từ những kho trí tuệ uyên bác cũng như từ mạng sống của lớp lớp trai trẻ đồng thời.

 

Và từ đó, biệt dạng !

 

Mươi năm sau, chẳng trả lại được một chữ nhất ! Có phải là giựt nợ không ?

 

Ba cái chuyện quốc gia đại sự sau mấy lần nhấp nhỏm rồi thôi cũng đành. Còn lại tấm thân lưu vong rõ là bỏ xứ đi kiếm ăn đúng y kiểu người xưa đã cảm thán bằng bốn chữ tha-phương-cầu-thực. Không hơn không kém. Mớ thề nguyền trong dạ ngày trốn chui trốn nhủi xuống ghe, bỏ mặc đất nước với cha mẹ già và nền nếp dân tộc một sớm một chiều rồi y như kẻ trốn nợ. Còn hơn vậy nữa. Nói trốn nghe ra còn chút vớt vát biết đâu có ngày khấm khá, quày lại trả nợ xưa... Đằng này thành ra kẻ giựt nợ chuyên nghiệp.

 

Mà phải vậy thôi đâu, ngoài ba cái món nợ chính thức coi như dễ dàng khai báo, còn lại thứ nợ có có không không, có mà như không không mà như có... thì ôi thôi, huyền ảo còn hơn cả chuyện thần tiên chẳng biết tin vào đâu cho đúng.

 

Ngay từ cái thuở mà người ta gọi là ăn chưa no lo chưa tới, còn hí hửng ra vô mấy khung cửa lá sách nép kín dưới mái nhà lợp ngói âm dương, rõ là rổi rảnh, cơm nước thì có cha mẹ lo, chữ nghĩa thì thầy cô gánh, đầu óc lơ mơ thả lỏng như mớ mây trắng vẩn vơ trên vòm trời xanh ngắt, tới lui thong thả giữa mấy lọn nắng vàng hoe, hồn phơi phới như đám lúa mạ tươi mơn mởn... vậy đó mà khi không rồi... kiếm chuyện. Con gái người ta nuôi, chăn giữ như gìn vàng giữ ngọc, “ngoại hình” và “ nội thất” thiệt là trăm phần tương phản với mình... chẳng có tí ti gì tương đồng, vậy mà trời xui đất khiến sao không biết bỗng dưng thấy có gì ngồ ngộ trong đầu, trong lòng, trong tay trong chân tới nỗi lỡ ( hay rủi hay may ) mà gặp phải thì làm như có cái gì ngọ ngoạy trong đầu, trong tim, trong người... tới nỗi đâm ra luống cuống, tay chân như thừa thải, tim thì đập như nhảy điệu Be-bop. Vậy đó, biết sao mà nói cho hết. Thì thôi, bắt chước mấy ông thi sĩ phán đại theo kiểu làm-sao-giải-thích-được-tình-yêu-có-nghĩa-gì-đâu-mộtbuổi-chiều v.v... và v.v... Coi vậy mà ba cái vụ lùm xùm yêu-đương-hờn-giận đó lại có ép-phê hết biết. Hổng hiểu tại sao mà khi không rồi đâm ra cứ hay mơtheo-trăng-và-vơ-vẩn-cùng-mây. Thiệt tình, học hành chẳng biết giỏi dở ra sao chớ còn ba cái vụ trốn nhà hẹn hò lén lút đó vậy mà ít ra cũng có lợi hết biết. So đo thì rõ là chẳng ăn nhằm gì nhau giữa cây cỏ hoa lá mặt trăng mặt trời với ba cái vụ ái tình lắt nhắt thời mới nứt mắt. Vậy mà mỗi lần được ai đó hẹn hò, góc phố, công viên, bờ sông, bến nước... bất kể xó kẹt nào, là làm như ánh trăng đêm đó dậy lên màu ngà ngọc, là lọn nắng vàng chiều hè đó cứ lấp la lấp lánh như có gắn thêm mấy cái hột xoàn. Ôi bao nhiêu là ân nghĩa của thứ tình yêu thời miệng còn hôi sữa đã đắp đổi rồi nuôi dưởng cho hồn trẻ những thiết tha sông nước, những ân cần cây cỏ, những luyến lưu đất đai, những nồng nã tình người... Suy tới cặn cùng, có phải chính cõi trời đất đó đã un đúc ra từng cõi hồng nhan cho mình phiêu lãng. Vì vậy không yêu mến sao được. Từ đó, kể ra làm sao cho hết những lợi lộc của cái chuyện tập tành đôi lứa, những “ngún nguẩy” làm ngẩm ra ý nghĩa chữ “duyên dáng”, những “hờn mát” làm thấm thêm ý nghĩa chữ “dỗ dành”, những “nũng nịu” làm cảm rõ chữ “nồng nàn”, những “nhớ nhung” làm suy ra chữ “thiết tha”... v.v... và v.v... Những “bài học” ngữ vựng miễn phí cùng với những vui buồn nông nổi rất chân thành kiểu Paul et Virginie như hệ quả tất nhiên của thứ tình mới lớn đã vun bồi cho phì nhiêu một tấm lòng, chờ những mùa gặt hái mai sau...

 

Hổng chừng chính những bài bản thu hoạch được trong những cuộc tình tập sự đó, những điệu nghệ học hỏi rất hồn nhiên đó đã góp phần nào cho những được-mùa của những đoạn đời nối tiếp. Những mái tóc thề buông bỏ sau lưng ! Những vạt áo dài lính quính khi cơn gió vô tình ! Những sớm đưa sương mai mỏng dánh. Những chiều về nắng đón vàng hoe... Cả một cõi quê hương tụ về bằng xương bằng thịt, lượn lờ trước mắt. Để đêm về đâm ra thẩn thờ rồi sanh ra thơ thẩn. Dẫu thơ có thành vè đi nữa thì cũng đầy tình ý. Ít nữa cũng quen tay. Chẳng vậy mà vuột qua cái tuổi tình nhí nhố đó, vốn liếng cũng dầy thêm mấy thành công lực.

 

Vậy đó mà rồi, vuột tay cái mất tiêu... Những ai đó ?! Rồi quên phức luôn trong một xó tối nào của trí nhớ, vốn mỏng mảnh còn hơn tờ giấy pelure dành để viết thơ tình, một thuở ! Chẳng còn sót lại được một dấu mờ để gọi là kỷ niệm. Kể cả năm ba tấm hình đen trắng kiểu yêu-nhau-mới-tặng-ảnh-này, cở 4x6 có bốn cạnh răng cưa, đã trổ vàng như lá mùa thu héo... được “tàng trử” rồi quên khuấy giữa những trang sách quí để sau cùng rồi được chánh-phủ-lâm-thời-cáchmạng-miền-Nam-Việt-Nam hốt ráo đem bán tháo bán đổ cho quí bà bạn hàng gói thịt heo hồi “cách mạng” mới thành công ! Tuyệt bản !

 

Dẫu chỉ là chuyện... con nít, vốn chỉ thả theo dòng đời trôi xuôi mỗi lúc một lớn, theo cõi người mỗi lúc một đông, đâm ra dễ lạc bước rồi lạc lòng... Nghĩ lại rồi vẫn là bạc như vôi ăn trầu. Nhất là... đôi khi chính mình là thủ phạm đã bày ra mấy cái trò thương thương nhớ nhớ để rủ rê !

 

Vậy mà đã hết đâu ! Mãi cho tới lúc thân thế đã xấc bất xang bang, đời đã ba chìm bảy nổi, trên xứ lạ quạnh hiu, ngay khi lòng đã lạnh sau từng ấy trò dâu bể, vậy mà bỗng dưng rồi lại xảy ra những chuyện y như... tiểu thuyết. Trời đất xui chi mà bày trò oan trái. Người thân trần thế mà lòng y bồ tát. Chẳng có gì ràng buộc mà khít khao hơn cả ruột rà. Không một thề nguyền mà thủy chung như đá vọng phu. Của riêng tư còn quí hơn vòng vàng đem cho không mà biết chắc chẳng bao giờ được đáp trả. Trong khi đó, bản thân vốn đã tù túng, có vọng động cho mấy rồi cũng đành bó tay chịu trận khi đời đã trói quanh mấy vòng xích của bổn phận và trách nhiệm. Thứ dây lòi tói không có ổ khóa. Nghĩ lại rồi làm sao mà không thấy ngậm ngùi.

 

Lại nói ngậm ngùi cho ra vẻ... văn chương thi phú ! Chớ đúng ra phải nói là mắc cở. Mà thật ra có tra tự điển tìm cho hết chữ đồng nghĩa loại ... tủi hổ, hổ thẹn hay hổ ngươi... gì đó cũng không đủ để xóa tội. Dẫu chạy ra bờ Đông hải múc cạn nước biển có pha dầu của mấy chiếc tàu lạ để rửa cũng không sạch được cái bản mặt trơ trơ của kẻ giựt nợ... chuyên môn !

                                                                 ....................

 

... Kể từ cơn quốc nạn tháng tư năm đó, tới nay tròm trèm gần nửa thế kỷ. Nửa thế kỷ là nửa phận người nếu nói theo kiểu trơn tru đời người là trăm tuổi. Trời ơi, người gì dẫu thân không cao bảy thước (tàu) thì cũng tròm trèm thước bảy (ta) mà hơn nửa đời toàn là chuyện giựt nợ không vậy nè. Thiệt là hết nói !

 

Than hết nói mà sao lại cứ muốn nói. Muốn quơ quào cho đỡ thấy thui thủi một mình. Nghĩ tới nghĩ lui rồi nghĩ quanh nghĩ quẩn, sực thấy cái chuyện nợ nần đâu phải chỉ mình mình. Lâu rồi, có lần tán thán cái chuyện nàng Kiều mười lăm năm lưu lạc, ông Chu Mạnh Trinh đã cẩn bút như sau: “Cho hay danh sĩ với giai nhân cùng một kiếp hoa nghiêm nặng nợ” À thì ra ai cũng mang nợ, ngay cả danh sĩ với lại giai nhân toàn là hạng thượng thừa mà cũng không tránh khỏi cảnh nợ nần. Nợ gì thì không có kê ra. Nhưng mà nội cái chữ nợ thôi nghe ra cũng quen tai, đở tủi thân chút chút. Còn có trả hay không thì đã có ông Nguyễn Du lo.

 

Thừa cơ, lấn tới chuyện những bậc tiền bối khác theo kiểu thấy sang bắt quàng làm họ. Từ ông Tú làng Vị Xuyên vốn nghèo có tiếng, có lần lượm được đâu đó đồng tiền của ai đánh rớt đã kêu lên Muốn đem trả nợ đòi nhà lại ( chắc là đang phải cầm cố nhà cửa gì đó ! ). Vậy mà có lúc phán một câu nghe ngon ơ Ô hay công nợ âu là thế-Mà vẫn phong lưu suốt cả đời. Rõ là tay chơi thứ thiệt !

 

Rồi tới ông Nguyễn Công Trứ, người đã đi ngang qua đời còn để lại bóng mình hực hở, từ lúc hàn vi tới khi oai quyền vinh hiển cũng đã có lúc nợ nần ríu rít

Chưa chán ru mà quấy mãi đây

Nợ nần dan díu bấy lâu nay

Mang danh tài sắc cho nên nợ

Quen thói phong lưu hóa phải vay

 

Rồi ông phóng tới hai câu luận nghe mà đã tai

Quân tử lúc cùng thêm thẹn mặt

Anh hùng khi gấp cũng khoanh tay

 

À há ... đồng cảnh ?

Ậy, nhưng nhìn lại mình...

Nhưng nhìn lại mình sao thấy sang đàng cho đã rồi càng lúc càng thấy quả là mặt dạn mày dày. Tính kiếm chỗ dựa hơi cho đỡ phần... mắc cở. Mà so bì rồi lại thấy càng quanh co lại càng... ngụy biện. Nợ như quí bậc trưởng thượng kể trên nghĩ ra cũng đáng nợ. Thứ nợ của bậc phong lưu tài tử vốn thuộc loại ăn trước trả sau, sớm muộn gì cũng còn dịp để trả, lắm khi còn trả cả vốn lẫn lời.

 

Còn đằng này, mang nợ rồi bỏ quê lưu lạc xứ người mà đường về đã tắc nghẽn ngay từ một bước xuống ghe thì kể như không muốn giựt cũng đành phải giựt. Thực ra, làm người có hay ho gì mà giựt giọc. Chẳng qua rồi như một thứ bi kịch làm người. Thử nghĩ, từ bỏ xứ làm kẻ tha hương, ai không muốn có một lần trở lại. Nhưng thử hỏi lý do trở lại có giải tỏa được những khúc mắc của cái lý do bỏ đi. Hay chỉ là vô tình thỏa hiệp với những ngụy trá đã gần như thành nếp của những người cầm quyền ở đó. Về rồi, có khi nào tự hỏi, sao hồi đó bỏ đi !

 

Nên từ đó, nợ cứ dần lân... Xứ người, đất nước mênh mông, quanh đi quẩn lại cái gì cũng lạ. Vừa đặt chân tới bến, hồn lưu lạc còn lao đao chưa kịp tỉnh, thì hết chủ nợ này tới chủ nợ khác đã nhào tới gọi mời. Chủ xe mời xe. Chủ nhà mời nhà. Cứ như vậy mà nợ cũ chưa lành sẹo, nợ mới đã thương tích đầy mình. Dù vậy, mớ nợ mới này rồi ra cũng dễ tính. Mà tính hổng nổi thì ra ở “ấp”, đón xe buýt dọc đường...

 

Còn món nợ trần ai từ một nơi mưa nắng hai mùa, đã chắt chiu trong lòng từ một ngày mới lớn, đã trìu trĩu trong hồn từ một ngày biết mình thôi đã lỡ. Thứ nợ mà ai nấy đều coi là vinh dự dù có phải trả suốt một đời cũng thấy đáng. Thứ nợ bao gồm mọi thứ nợ. Thứ nợ người ta hay gọi là NỢ NƯỚC TÌNH NHÀ.

 

Biết vậy mà rồi như một loài rong rêu bị bứt rễ, vật vờ theo con nước, đã một lần bị dạt bến xa bờ rồi xa hoài, xa mãi, xa miết tới... cũng đành !

 

Ờ, biết nói sao ngoài hai tiếng... cũng đành !

 

Cao Vị khanh

CVK_Bienbac.JPG
CVK_Theo thangTu, ta ve.JPG

                                                                                                         -một lần kể lại để rồi thôi

                                                                      TÔ THÙY YÊN

 

                                                                                                                       CAO VỊ KHANH

                                                       

                                                        Ta về - một bóng trên đường lớn

                                                              Thơ chẳng ai đề vạt áo phai...

Ờ, thì lần nữa theo Tô Thùy Yên, TA VỀ, dẫu không đi cùng bước nhưng trước sau có khác gì nhau khi cùng chung kiếp nạn từ sau cơn hồng thủy đó... dẫu mươi năm đầu, kể từ một ngày cuối tháng 4 năm 1975 ông đã bị tù đày trong những trại giam được ngụy danh là trại học-tập-cải-tạo được dựng lên khắp nơi từ rừng rú đến đầm lầy như từng búng máu phun ra tung tóe trên thân xác quê mẹ, ngay cả khi súng đạn cũng đã đành im tiếng.

 

Ờ thì về theo Tô Thùy Yên, sau mười-năm-mặt-sạm-soi-khe-nước. Nhưng rồi về đâu sau cơn bức tử của quê hương !

Mà thôi, làm sao biết sẽ về đâu, khi lòng ta đã đường cùng từ sau lần lịch sử nổi cơn điên...

Lại nữa, Ta về ...Về ? Có về hẵn là đã có đi.

Đi ? Bốn phương tám hướng, đi đâu ? Câu hỏi bỗng nghe ra như mai mỉa ! Còn chỗ nào để đi trong thời của những-kẻ-giết-người. Lối đi duy nhất cho mấy trăm ngàn con dân đất Việt buổi đó là những trại-giam-không-bản-án mọc lên khắp nơi như cỏ dại. Cùng lúc với những cuộc truy lùng bức bách đến tận hang cùn ngỏ cụt bất kể ngày đêm, là những lời kêu gọi hòa-đồng-hòa-giải-dân tộc ra rả trên những chiếc loa phóng thanh treo khắp đầu trên xóm dưới. Gần nửa thế kỷ qua đi, dẫu trí óc có cùn nhụt đến nỗi nào đi nữa, người còn may mắn sống sót cũng không thể quên được những tuyên ngôn rổng tuếch, những thông báo láo khoét dối trá đến cực cùng... để lừa bịp xô đẩy quân nhân công chức của chế độ cũ vào tù cũng như lường gạt hai mươi mấy triệu người miền Nam còn đang bàng hoàng chưa kịp tỉnh sau cơn ác mộng... Thực chứng sống chết còn nguyên đó.

Khi chế độ đã là cùm gông, chính trị như cái rọ úp chụp lên phận người, bít chịt đến nghẹt thở thì làm sao mà biết đi đâu về đâu, một khi đã bó thân trong vòng rào của lòng thù hận, tị hiềm... đến tuyệt mức nhỏ nhen. Trong nhà tù lớn như thiên la địa võng, có hay không một ngỏ ngách đi-về ? Trong tình cảnh cá chậu chim lồng, thật ra giam kín đằng sau chấn song hay thả ra giữa những cặp mắt cú vọ của đám ác nhân thì cũng chịu cùng chung một ác ý. Khác nhau chăng là ở mức độ của những đòn thù.

Như vậy, có cần phải hỏi đi đâu, rồi về đâu ?!

Hay rốt ráo... hỏi cũng chỉ là một cách tự đánh tráo trong thời đại dối trá.

 

Tựa đề dẫu có gợi chút băn khoăn mà thật ra lời xác quyết về chủ thể đã làm câu hỏi trở thành vô ích. Lời đáp trả đã tiềm ẩn ngay trong đó. “Ta”, Ta về, đại danh từ ở ngôi thứ nhất, kiểu tự xưng đã ngầm chứa trong đó niềm tự hào, sự khinh mạn... của người trở về sau mười-năm-chết-dấp trong địa ngục trần gian mà lũ cai tù là loài quỷ dữ. Nghe ra không, qua đó, tiếng cười gằn, khinh bạc ! Có phải đó chính là lời xác nhận... Ta-vẫn-là-Ta. Sau hết, cùm gông, đói khát, nắng lửa đốt da, sương móc lóc thịt, tay trần đào đất, vai trần vác đá, những thùng conex biệt giam bít bùng, nước độc vàng da, bệnh hoạn không thuốc men, gạo mốc cơm thiêu, cây cỏ ếch nhái đắp đổi cho qua bữa đói khát, bao cát mót từng mảnh mục làm vải che thân, trăm lần “tự thú”, ngàn lần “tự kiểm”... hằng trăm hằng ngàn kiểu đày đọa... vừa để tra tấn vừa để triệt hạ nhân phẩm người tù, mọi kiểu mọi cách mà bọn vô nhân đã bươi móc trong cái đầu vốn dĩ đặc sệt của họ để hành tội kẻ bại trận cho đã cho bưa thứ thù hằn bệnh hoạn.

Có điều, trái với lệ thường...

Những người đi tù buổi ấy...

Ngày đi... vào tù rồi ngày về... từ cõi ngục tù, rốt lại, Ta vẫn là Ta. Cái Ta kimcương-bất-hoại. Cái Ta lừng lững giữa tầng tầng khổ nhục. Ôi ! Còn gì cảm khái cho bằng ! Ta về một bóng trên đường lớn ! Đi rồi Về, mười năm, lòng vòng một vòng tròn kín.

Về đâu chính là tự lòng ta đó thôi.

Tiếng biển lời rừng nao nức giục

Ta về cho kịp độ xuân sang

 

Trọn bài có 31 khổ 4 câu theo thể thơ 7 chữ, với hai câu mào đầu tách riêng ra hẳn chẳng phải là vô cớ. Chuyện đi-về của người tù chính trị ở đây đã vượt ra khỏi cái khung chật hẹp của chuyện tù tội. Y như một bản tuyên ngôn dõng dạc của kẻ sĩ giữa cuộc trầm luân mà mọi thứ ý thức hệ dẫu cuồng tín và hiểm độc đến đâu, mà mọi dã tâm đày đọa thân xác tới độ nào đi nữa... cũng đành thúc thủ. Người, sau rốt, vẫn nguyên vẹn là Người. Bi hùng như một bản cáo trạng. Và bi tráng như một bài ca Chính khí của người về ngược hướng.

(Chắc cần thêm một cái nháy mắt hả hê, đồng lỏa với sự tinh quái tế vi qua 14 chữ tách riêng mở đầu cho bài thơ dài 868 chữ. Tại sao lại phải thêm thắt riêng cho nằm lẻ loi vậy khi mỗi khổ thơ sẽ là 4 câu như thói thường. Ậy, có lý do riêng đó chớ. Thấy ra chưa, Ta về ... là do tiếngbiển-lời-rừng thúc giục, ta về là do mùa xuân rủ rê chớ chẳng có một quyền lực nào khác can thiệp kể cả cái đám quản giáo, quản huấn, vệ binh với súng dài súng ngắn cùng với đám lảnh tụ chớp bu trong cung cấm Ba đình... Dẫu cho chúng cứ huênh hoang là... thả tù ! Mà dẫu thiệt tình cho tù có được thả đi nữa mà người tù thả ra có chịu nhận vậy đâu. Thấy chưa, thấy cái lắt léo của thăm thẳm thơ chưa. Như một cách phủ nhận thứ cường quyền đang vây khổn suốt cả một dãy quê hương khốn khổ, trong đó có người tù thi sĩ mới vừa được thả ra khỏi... tù đã tức thời trở lại ta vẫn là... ta –sau khi đã cố giữ cái-Ta-dễ-bể đó trong suốt mười năm tù ngục)

Ta về - một bóng trên đường lớn

Thơ chẳng ai đề vạt áo phai...

Sao bỗng nghe đau mềm phế phủ ?

Mười năm, đá cũng ngậm ngùi thay.

 

Ta về, một bóng trên đường lớn. Hình ảnh bi tráng đến sững sờ. Ta về một bóng trên đường lớn ! Thử tưởng như phóng con mắt nhìn theo đường vẻ một viển cảnh xa huốt tới tận chân không. Trên con đường lớn vắng hoe chạy dài tới mút mắt đó, chung quanh không có ai, không còn ai, người tù lầm lũi đi với chiếc bóng của mình, chững chạc hay xiêu vẹo, vẫn toát ra, lặng lẽ, một niềm tự hào thầm kín. Đọc thơ sao thấy hả hê như há miệng nốc một ngụm đế Đường Xuồng vừa cay vừa nồng tới muốn bốc hơi cả hồn lẫn xác !

Mà sao rượu cạn rồi... lại lợn cợn chút gì như nửa đắng nửa cay !

 

Vĩnh biệt ta-mười-năm chết dấp

Chốn rừng thiêng im tiếng nghìn thu.

Mười năm, mặt xạm soi khe nước,

Ta hoá thân thành vượn cổ sơ.

Người tù đó, người sĩ quan của quân lực VNCH, ông thi sĩ Tô Thùy Yên, sau gần bốn ngàn ngày đêm bị biệt đày khổ sai ở một chỗ mà có lần ông Nguyễn Chí Thiện, tác giả tập thơ Hoa Địa Ngục, đã tóm tắt gọn bâng chỉ bằng 15 chữ mà cực kỳ hùng biện chẳng kém gì những bản cáo trạng dài thậm thượt, vạch trần tội ác của người cộng sản: từ-vượn-lên-người-mất-mấy-triệu-năm, từ-ngườixuống-vượn-mất-bao-năm ?- Dẫu vậy, khi ra tù mặc cho mọi thứ thâm ý hiểm độc của đám cầm quyền mới, ngoại trừ cái thân xác tiêu hao đến mềm-phế-phủ, người lính sa cơ đó, người thi sĩ lỡ vận đó, ông vẫn là ông-cũng như hằng hằng người tù vô danh khác- mặc tình bao nhiêu thủ đoạn quỷ quyệt vừa để triệt tiêu nhân phẩm người tù, vừa để hủy diệt hào khí của những người đã một thời đứng đầu sóng ngọn gió. Hãy nghĩ đến những người đàn ông, sinh ra và lớn lên ở miền Nam thuở đó, trong lứa tuổi 30, 40. Và tình cảnh oan khuất, dở khóc dở cười của họ, những năm tháng đó ! Trẻ hơn thì kể ra cũng chỉ mới váng vất hơi lửa đạn. Lớn hơn nữa thì đã quá dạn dày. Lớp người không còn non nhưng cũng chưa quá cỗi. Những người tròng vào mình bộ quân phục trên dưới hai mươi năm, suốt binh nghiệp ở đơn vị tác chiến, đối mặt ngày đêm với cái chết chực chờ. Đôi mươi năm lửa đạn có làm thui chột tính người? Không. Trăm lần không. Lịch sử cuộc nội chiến kéo dài hơn hai mươi năm đã minh chứng điều đó. Những người đó, bỗng không rồi có một lúc bỗng sững sờ nghe lệnh bỏ súng, đầu hàng. Thử nghĩ lại cái lệnh đột ngột đó, cái giây phút chết sững đó, ngay lúc đó, họ nghĩ gì, khi trong tay còn bao nhiêu sinh mạng của những người đồng đội, của những kẻ thuộc quyền, những đứa em ngày đêm đã gởi gắm sinh mạng cho họ qua bao nhiêu lần sống chết có nhau. Lại nữa, trong suốt quảng đời chinh chiến chắc ai cũng có một niềm hãnh diện nào đó, dù thầm kín, khi dang thân mình giữa cuộc tử sinh để giữ cho quê hương được sống còn trước những cơn cuồng sát, từ hơn hai mươi mấy năm qua.

Vậy rồi, trả súng, quay về hẵn không ai là không thoáng có một chút ước mơ... một thoáng nghĩ tới cuộc đoàn tụ tất nhiên với cha mẹ già đã mỏi mòn khấn nguyện, với người vợ đêm ngày thắc thỏm, với mấy đứa con thơ thiếu cha, với những người tình đã ứ thừa thương nhớ...

Có ai kịp nghĩ tới cái kết cuộc tuyệt mức bi thảm và vô lý của những trại giam đang chực hờ mở rộng cửa chờ xua họ vào cõi... địa ngục. Hãy nghĩ lại, cái giờ phút ngỡ ngàng khi biết mọi sự đã không như là họ... ngỡ. Hãy nghĩ lại, cái giờ phút mọi gian xảo để lộ ra hết mọi giả trá của một thứ hòa bình giả tạo...

Hãy nghĩ lại, tự dưng, họ trở thành những người tù khổ sai...

Hãy nghĩ lại những chiếc xe hàng phủ bạt bít bùng chạy thâu đêm, những chuyến xe lửa dài thậm thượt chạy suốt từ Nam ra Bắc, chất dồn đống những nạn nhân của một cuộc tráo trở vĩ đại như lịch sử chưa từng.

Hãy nghĩ lại...

Hãy nghĩ lại...

Thả lòng theo TA VỀ, dẫu thơ không vui mà đọc rồi lòng sao khinh khoái. Có ngả đầu bái phục bao nhiêu lần vẫn thấy dường như không đủ. Ôi rõ là bậc vươngtôn-miền-trí-tuệ. Trọn bài, hai chữ TA VỀ được lập đi lập lại 16 lần – không kể tựa đề, làm thoáng nhìn cứ ngỡ là một bài hịch với dụng ý như... gằn giọng để xác định một quyết tâm trong một tuyên cáo tuyến bố chi đó. Nhưng lạ, đọc lên rồi lại chỉ nghe ra như một lời tâm tình, rạch ròi chửng chạc mà lại thân mật gần gũi. Âm thanh không vổ đập mà lại ve vuốt hồn người. Chữ nghĩa cao kỳ mà không kiểu cách. Thứ chữ mang hơi hướm ngữ âm miền Nam, âm điệu nồng nã, trân trọng mà không khách sáo, sang cả mà vẫn gần gũi... Tuyệt hơn nữa là chữ dùng đa số với thanh “bằng”, có vọng âm “trầm” nghe ra như trần tình mà không hề than thở. Nhịp thơ rắn rỏi, gọn bâng mà để lại dư âm như lớp lớp sóng đồng tâm lay động mặt hồ ngoài kia, mỗi lúc một lan xa, lan xa... mà ở đây, xa tận tới nghe-đau-mềm-phế-phủ ! Những câu thơ phảng phất thứ thi vị hồn hậu mà thâm thúy, làm người đọc cảm thấy gần gũi, thân thiết dù nghĩa lý thì ôi thôi sâu hun hút. Xin được hảnh diện lây, dân Nam kỳ lục tỉnh vốn mang tiếng ăn nói nôm na, bộc trực ... kể cả quê mùa.

Thử nhớ lại với Tô Thùy Yên, cái thời-quỷ-ám. Như tiền đề của một chuyến trở về...

NỖI ĐỢI-

.............

Kẻ mới tới bày tòa giữa chợ,

Giải người ra, sỉ mạ ba đời,

Cho đeo bảng, dong đi khắp phố,

Bắn bỏ bên đường, cấm nhận thây.

 

Chỉa súng đuổi người ra khỏi đất,

Đày đi biền biệt miệt thiên thu.

Đuổi cả người chết ra khỏi mộ,

Cày nghĩa trang, trả vói thâm thù.

 

Quan lại sánh tày bão châu chấu

Ập xuống đồng, nghiến ngấu của dân...

Nhơn nháo chẳng cần che lấy mặt,

Mấy đời mới gặp dịp nên quan.

 

Những năm đó, làng ta đói kém.

Lúa gặt về, nhà nước trưng thâu.

Dân cùng ăn đến cả nhau đẻ,

Bán tình thâm mà mua gạo châu.

 

Con tố cha cầu được cất nhắc.

Cháu giết bà cướp nửa chỉ vàng.

Thiên hạ cùng xanh mặt trắng mắt

Nhớn nhác dòm quanh, lén cả than...

.........

Trăm họ lần lượt bỏ xứ trốn,

Biển thì hung hãn, thuyển mong manh.

Ta nghe kể lại: xác lên bãi

Nằm dài dài như lúc chiến tranh.

.........

Ngửa mặt khóc cười ba tiếng lớn,

Giận thân sao đã khứng ra đời,

Bỏ đi, khinh bạc nghiêng trời đất,

Gặp đá bên đường, cúi hổ ngươi.

..........

Cát bụi sao quên mình cát bụi,

Đành hanh nhau tàn khốc máu xương.

Mấy mươi năm chiến tranh, tù rạc,

Cười rộ vô thường một tiếng suông.

 

Đời động. Đồng rừng rêm tiếng mõ.

Ai người rao giảng điển long hoa ?

Láng giềng bị bắt lúc trời tối.

Lật bật rồi cũng đến lượt ta...

................

Có nhớ lại gì không, qua 36 câu thơ như dao khắc đá đó, cả một cuộc thảm sát mới, không bằng súng đạn-mã tấu-dao găm, mà lại cũng không kém phần tàn độc, nhằm hủy diệt một lý tưởng nhân bản đã thành nếp của nửa phần dân tộc sống ở bờ nam Bến hải.

Dẫu quên quên nhớ nhớ cũng là chuyện thường tình của người thiên hạ. Nhưng có những điều làm sao quên !

Ứ đọng trong tâm khảm người tù chính trị đằng đẵng suốt mười năm như tầng tầng trầm tích, cộng thêm những đòn thù hiểm ác từng phút từng giây mãi cho tới lúc được thả ra... cũng vô lý như khi bị bắt đi.

 

Dõi theo chân người về, sau suốt mười năm tù đày vừa rúc rỉa thân xác, vừa đục dũa nảo cân, thân phận người tù chẳng khác gì con sâu cái kiến bởi những kẻ vốn vẫn rêu rao là đi giải-phóng-dân-tộc, ông thấy gì ? Sông nước bơ vơ, cỏ cây phờ phạc, phố xá im lìm, xóm làng ngơ ngác... Và nhất là lòng người, những tấm lòng đã một thời xóm giềng, những thân sơ đã một thời núm ruột, bỗng có lúc trở thành e dè, nghi ngại lẫn nhau dưới sức ép của một chế độ công-an-trị. Phố xá làng mạc như co rúm lại trước những mũi súng chực hờ và những tia nhìn gườm gườm như mắt rình mồi của loài chó sói.

Ta ngẩn ngơ trông trời đất cũ,

Nghe tàn cát bụi tháng năm bay.

Người về từ sau cơn địa chấn kinh hoàng đã làm sụp đổ tan hoang hết mọi niềm tin vốn từ khởi thủy đã là nền tảng của một xả hội nhân hòa, để từ đó đã dựng lên một quốc gia văn hiến. Còn gì nữa đâu. Quê cũ. Đám người từ rừng rú đổ ra đã biến xóm làng thành rừng rú. Ông đã cầm lòng mà xác nhận như một sự thể đã rồi. Mọi cửa ngỏ đã bít kín. Rồi ra, quanh ông chỉ là cái nhà tù lớn, nhốt người thêm lần nữa...

 

Chỉ có thế. Trời câm đất nín.

Đời im lìm đóng váng xanh xao.

 

- (11 chữ đủ tả cái bộ mặt đặc cứng, ù lì mà trong ruột thì lộn lạo hết mức của xả hội miền Nam VN sau năm 75 như mặt hồ đóng váng lợn cợn và xanh úng rong rêu . Nhất ông, ông Tô !) -

 

Trở về sau mươi năm vật đổi sao dời để người vắng mặt bấy lâu thấy rõ hơn chuyện đổi thay đến tận cùng dâu bể. Tốt thành xấu. Sai thành đúng. Mọi nấc thang giá trị nhân bản bị đạp đổ ngang xương. Thay vào đó, con người chỉ còn là một thứ công cụ sản xuất nhằm để phục vụ cho một chế độ phi nhân. Trong tình cảnh đó, thử hỏi người trở về làm sao không thấy lạc lõng. Hổng chừng thêm một chút chua chát... phải chi hồi đó đừng bỏ súng, sống chết chỉ một lần ! Và tuyệt vọng. Kiểu như ông Trần Tế Xương có lần một-mình-đứng-giữa-quãngchơ-vơ, ông Tô chắc cũng đã quặn lòng đau mấy lượt... Nhưng rồi, dẫu vậy, dẫu đã mất hết nhưng với khí tiết của một kẻ sĩ đã được nuôi dạy ngay từ tiếng mẹ ầu ơ, sau cùng, người thi sĩ của mùa quốc nạn đã vượt lên khỏi mọi bạc đãi của lịch sử, và từ đó, như một xiển dương thầm lặng về giá trị của con người, vẫn giữ vững Cái Ta, cái của Riêng Ta, đứng ngoài và đứng trên hết mọi chuyển động của không-thời gian, của lịch sử, của tội ác. Chính từ đó mà giữa hoang tàn đổ nát của lòng người và đất nước, kẻ sĩ làm thơ vẫn giữ lại được cho riêng mình một khoảnh trời đất cũ, có yêu thương là bản vị của đời sống, có lòng nhân ái là thước đo của văn minh, có huyền thoại một mẹ trăm con là bản sắc của dân tộc. Và một hồn thơ như được trui rèn trong khổ dịch càng trở nên bi tráng. Thơ như con đường hồi sinh của kẻ oan tình, biết mình đúng, tin chắc vào Lẽ Phải. Không cao giọng mà sao thấy ra cái vẻ dửng dưng, khinh mạn của người về từ hỏa ngục. Mặc kệ những trù dập, bức bách của đám cầm quyền mới bám riết theo như ruồi bu theo miếng bánh ngọt, mọi ác tâm rồi như lớp bụi hờ bám vai người qua trần thế. Con đường thơ mở ra bát ngát. Mỗi vần thơ như mỗi tiếng chuông cứu khổ, độ người qua cửa bể trầm luân.

 

Ta về qua những truông cùng phá,

Nếp trán nhăn đùa ngọn gió may.

Ta ngẩn ngơ trông trời đất cũ,

Nghe tàn cát bụi tháng năm bay.

 

Chỉ có thế. Trời câm đất nín.

Đời im lìm đóng váng xanh xao.

Mười năm, thế giới già trông thấy.

Đất bạc màu đi, đất bạc màu...

 

Ta về như bóng chim qua trễ

Cho vội vàng thêm gió cuối mùa.

Ai đứng trông vời mây nước đó,

Ngàn năm râu tóc bạc phơ phơ.

 

Một đời được mấy điều mong ước ?

Núi lở sông bồi đã lắm khi...

Lịch sử ngơi đi nhiều tiếng động.

Mười năm, cổ lục đã ai ghi ?

 

Núi lở sông bồi đã lắm khi... đọc lên như nghe một tiếng cười khảy trước những vọng động của kẻ vô tâm.

 

Ta về cúi mái đầu sương điểm,

Nghe nặng từ tâm lượng đất trời

Cảm ơn hoa đã vì ta nở

Thế giới vui từ mỗi lẻ loi

 

Cám ơn hoa đã vì ta nở. Có thật là hoa nở vì ta. Sực nghĩ tới Lão Đam. Câu thơ như một xác nhận tuyệt vời của sự đồng cảm, một sự liên đới chằng chịt giữa ta và vạn vật, của ta trong vạn vật và vạn vật ở trong ta. Thật ra hoa tới mùa thì nở. Hoa nở rồi tàn. Có điều chắc chắn là mùa sau hoa lại nở. Như một lời hẹn thủy chung. Vấn đề là ta có nhận ra được không, cái vòng luân lưu bất diệt đó để tìm ra lối thoát cho cái vòng tù hảm đang vây kín đời ta. Một đóa hoa dại dọc đường giữa một dặm trường nắng cháy, người qua đường có thấy được nét tươi mát của hoa-nở-vì-ta để dổ lòng cháy nắng ? Và nhìn ra trong đó sự độ lượng của thiên nhiên trong cuộc tuần hoàn vô thủy vô chung. Cám ơn hoa đã vì ta nở. Nhận ra tuổi mãn khai của bông hoa chính là ngã trọn mình vào lòng thiên nhiên mà sống. Mà cũng từ đó, đâm chồi những hy vọng. Rồi ra, cái đẹp, cái thiện... vẫn còn đó và sẽ còn đó dẫu bao nhiêu dùi vập. Nhận thức được điều đó là sự hòa đồng tuyệt diệu của ta và vật, là nhịp cầu cho sự cứu rỗi. Hình tượng bônghoa-nở còn như là một hứa hẹn cho một khai mở nào đó. Mọi thứ rào chắn rồi cũng chẳng cản được chân người. Những chiếc ghe con bắt đầu bỏ bến... ra khơi... Bằng mọi cách dẫu có phải đi tìm cái sống trong cái chết, người quanh quanh vẫn lìa xứ ra đi. Bao nhiêu người tới bến ? Bao nhiêu người bỏ xác dọc đường ? Mà dẫu có là bao nhiêu cũng là một con số quá đổi oan khiên cho một dân tộc vốn tự hào là đã sinh ra từ một-mẹ-trăm con !

 

Tưởng tượng nhà nhà đang mở cửa,

Làng ta, ngựa đá đã qua sông,

Người đi như cá theo con nước,

Trống ngũ liên nôn nả gióng mừng.

 

Ta về như lá rơi về cội.

Bếp lửa nhân quần ấm tối nay.

Chút rượu hồng đây, xin rưới xuống,

Giải oan cho cuộc biển dâu này.

 

Ta khóc tạ ơn đời máu chảy

Ruột mềm như đá dưới chân ta.

Mười năm chớp bể mưa nguồn đó,

Người thức nghe buồn tận cõi xa.

 

Ta về như hạt sương trên cỏ

Kết tụ sầu nhân thế chuyển dời.

Bé bỏng cũng thì sinh, dị, diệt.

Tội tình chi lắm nữa, người ơi !

 

Trong buổi chạng vạng của niềm tin, người với thơ, như đôi bạn tâm giao dắt díu nhau tìm về chốn cũ, dẫu đã quá độ tang thương và phải lặn ngụp trong thứ không khí nghi kỵ đang phủ trùm làng xóm, sau hết vẫn gặp lại đâu đó, hồn xưa một thuở...

 

Lời thề truyền kiếp còn mang nặng

Nên mắc tình đời cởi chẳng ra.

Ta nhớ người xa ngoài nỗi nhớ.

Mười năm, ta vẫn cứ là ta.

 

Ta về như tứ thơ xiêu tán

Trong cõi hoang đường trắng lãng quên.

Nhà cũ, mừng còn nguyên mái, vách,

Nhện giăng, khói ám, mối xông nền.

...................

Ta về như tiếng kêu đồng vọng.

Rau mác lên bờ đã trổ bông.

Cho dẫu ngàn năm, em vẫn đứng

Chờ anh như biển vẫn chờ sông.

 

Đằng sau những phản trắc lồ lộ, những ép bức đến nghẹt thở, vẫn còn đó... những thủy chung như kết quả của một xả hội lấy lễ giáo làm đầu, từ đã mấy ngàn năm, dẫu bỗng không bị phủ nhận rồi gán cho hai chữ phản động để vứt bỏ. Trong tình cảnh đó, người ở lại dở khóc dở cười mà phải cắn răng chịu đựng để hy vọng một cuộc trùng phùng với người đi biệt dạng. Cái kiểu trông chờ mà không chắc có ngày về, có phải cũng là một thứ cực hình không hơn không kém. Vâng, đâu phải chỉ người đi đày mới đầy oan khuất, người ở lại cũng hứng chịu oan khuất không thôi. Cuộc đổi đời tàn khốc đó có phân biệt ai đâu. Không tù gông thì cũng phải gánh chịu bao nhiêu oan ức. Từ những lệnh lạc ngây ngô đến những ép uổng vô cớ, những thiếu thốn trăm bề, từ miếng gạo trộn bo bo tới con mắt láo liên dò la, bưới móc, những đồng bạc mồ hôi-và-nước-mắt bỗng một sớm một chiều hóa thành tờ giấy lộn, viên thuốc cảm, thước vải thô, mồ mả đào xới tan hoang, những điệu nhạc Tàu như xoáy điếc lổ tai ra rả ngày đêm qua những chiếc loa treo khắp hang cùng ngỏ hẻm, những cày cuốc nhét vào tay vốn quen mùi giấy bút. Kể cả cái đám con nít choi choi mới lớn, trai gái bất kể vừa tới tuổi giữa bậc trung học mà trước đó đã lở đầu thai vào gia đình có cha là ngụyquân-ngụy-quyền cũng bị đuổi học làm như chữ nghĩa cũng bè đảng như ai. Biết bao nhiêu oan trái người ở lại cắn răng gánh chịu để trông... để đợi... để chờ... Những người đàn bà, những người mẹ, người vợ, người tình... bỗng chốc mất đi núm ruột, mất nguồn yêu thương, mất nơi nương tựa... Hòa bình rồi mà mẹ nhớ con mòn mỏi, vợ trông chồng chẳng khác đá vọng phu... dù người đàn ông của họ vẫn còn đâu đó, giữa mạng lưới nhà tù mù mù như lưới nhện. Thử tưởng đến những người đàn bà miền Nam thuở đó, mừng chưa kịp chuyện trùng phùng sau cơn lửa đạn thì đã phải trần thân gánh lấy nợ đời mà người cha người chồng người tình của họ đã bỏ lại đó để... đi tù ở những nơi không ai biết, ngày về chẳng ai hay. Những người đàn bà khốn khổ của miền Nam buổi đó, những phụ nữ tay yếu chân mềm... bỗng chốc phải dang thân ra đứng đầu ngọn sóng để nuôi bầy con có cha mà bỗng chốc mồ côi ! Người thì tay cuốc tay len đào đào xới xới mấy miệt đất chai ruộng phèn gọi là đi-kinh-tế-mới, người thì tay nách xách mang ra mưa nắng chợ trời ... vừa nuôi con nuôi cả chồng đang đi trả món nợ chẳng biết ai vay ! Thử tưởng đến những người đàn bà miền Nam trong cuộc đổi đời năm ấy. Thử tưởng đến người vợ miền Nam sau khi được phép thăm nuôi, cụ bị gạo muối trần ai... lặn lội đến được trại giam thì tin chồng đã chết... vì đói. Thử tưởng đến người mẹ miền Nam đem gởi đứa con mới lên 10 tuổi cho người dưng dắt đi vượt biển. Ruột có đứt trăm khúc chắc chưa đau bằng tấm lòng mẩu tử... Còn bao nhiêu oán khúc phải kể ra. Mà kể ra làm sao cho đủ.

Này cha già mẹ yếu. Thử nghĩ coi sanh con hẳn ai cũng đặt vào đó bao nhiêu là kỳ vọng. Giờ, đón con về với một thân xác tàn phế khi cửa nhà đã mỗi lúc một quạnh hiu. Những bậc sanh thành đó, họ nghĩ gì khi dang tay ra... Người về đau đớn một, bậc cha mẹ còn đau đớn tới bao nhiêu ! Tình cảnh hẵn không khác gì đứa con đi làm ăn xa, nay thất bát quay về quê cũ, dẫu có mừng mừng tủi tủi nhưng làm sao giấu được nỗi bẽ bàng. Mà còn hơn vậy nữa, nỗi đau này thực tế và cụ thể hơn nhiều lắm. Họ không kịp nghĩ tới lý tưởng hay gì khác, tình cảnh này còn đau lòng hơn gấp bội khi máu huyết của họ giờ trở lại như những bộ xương khô. Họ đã đau như chính thịt da của họ bị cắt xé...

 

Ta về như đứa con phung phá

Khánh kiệt đời trong cuộc biển dâu.

Mười năm, con đã già như vậy.

Huống mẹ cha, đèn sắp cạn dầu...

 

Từng đoạn ngắn bốn câu, như một bản liệt kê những tai ương đã chia đều cho từng người một. Ẩn mật và thiết tha gói ghém từng lời tạ ơn kín đáo cho từng nỗi đợi chờ đã tưởng là vô vọng.

 

Ta gọi thời gian sau cánh cửa.

Nỗi mừng ràn rụa mắt ai sâu.

Ta nghe như máu ân tình chảy

Tự kiếp xưa nào tưởng lạc nhau.

 

Ta về dẫu phải đi chân đất

Khắp thế gian này để gặp em.

Đau khổ riêng gì nơi gió cát...

Hè nhà, bụi chuối thức thâu đêm.

 

Trở về sau khi vắng mặt hết một phần mười của đời người, dẫu không tận mắt nhưng người về làm sao không thấy được cam khổ của người ở lại. Đau thương còn sờ sờ ra đó. Sự giao cảm giữa người đi và người ở lại là bằng chứng của những tấm lòng đôn hậu vốn quen sống trong một xả hội thuần lương. Nhất là đã tin chắc vào nguyên lý tột cùng. Cái tốt, cái đẹp, cái ân, cái nghĩa, cái thủy chung... vẫn lẩn quẩn đâu đây, dẫu trần gian có đang là địa ngục. Nhất là, những đức tính vừa kể vốn là phẩm chất để phân biệt con người và thú vật. Phủ nhận những điều đó có phải là đang tự hủy diệt. Người ta sinh ra đâu phải để dối trá, đâu phải để cưởng bức, đâu phải để giết người, đâu phải để bày trò tàn khốc tru di đồng loại. Người ta sinh ra để nối tiếp dòng đời miên viễn, như sông con đổ nước về sông cái, để cùng nhau chảy miết ra biển lớn. Để rồi trở ngược lại từ đầu, tiếp tục cuộc tuần lưu vô hạn.

 

Cây bưởi xưa còn nhớ trắng hoa.

Đêm chưa khuya lắm, hỡi trăng tà !

Tình xưa như tuổi già không ngủ,

Bước chạm khua từng nỗi xót xa.

 

Thử tưởng đến cuộc trùng phùng của người chờ từ vô vọng và người về từ vô phương. Sự nối kết lại một cuộc chia lìa, bi ̣tách đôi bởi một lực cản ráo cạn nhân tình có thể coi như biểu hiện của chân lý, rồi thì cái thiện thắng cái ác, để tiếp tục dòng sống vô thủy vô chung. Đó có thể coi là nguyên lý tối thượng cho sự hiện hữu của chúng sinh. Ngày nào cái ác đại-thắng (!) ngày đó sẽ là sự hủy diệt chung cùng của nhân loại ! Chiều nay, ta sẽ đi thơ thẩn, Thăm hỏi từng cây những nỗi nhà. Hoa bưởi, hoa tầm xuân có nở ? Mười năm, cây có nhớ người xa ? ( Lời thăm hỏi ân cần đến từng cọng cỏ ngọn cây nghe ra tưởng chừng như kiểu cách. Mà thật ra đó chính là biểu tượng của sự hồn hậu, khoáng đạt, tốt bụng... được kế thừa từ truyền thống dân tộc vốn lấy nhân nghĩa làm đầu, từ đã mấy ngàn năm. Vụt cái muốn phá bỏ nền luân lý cổ truyền đó tới ráo cùng thì rồi lấy gì mà đối đãi giữa người với người. Bốn mươi tám năm sau, nhìn ngó trở lại ở bên kia bờ đại dương, có thực chứng gì không ? )

 

Rồi ra, còn đó, dẫu chút hơi tàn vẫn là ân sủng của trời đất. Còn đó, cái Ta với mọi thứ của riêng ta, vẫn là thứ vinh quang rốt ráo của kiếp người, sau khi trải qua bao nhiêu vùi dập mà hổng chừng đến sắt thép cũng bị bẻ cong. Người tù, với thịt da xương cốt mềm hơn sỏi đá vẫn lặng lẽ tồn sinh. Với kinh nghiệm của khổ ải, sau bao nhiêu trần ai, có phải niềm tin vào lẻ tuần hoàn càng thêm rõ rệt. Nhận thức ra điều đó có phải là dịp để hóa giải những trớ trêu của định mệnh, và tìm cách thuận thảo với những oái ăm của thân phận làm người. Có phải sau khổ nạn dù làm lở dở cuộc tồn sinh, người thi sĩ với cõi thơ vô biên đã tìm ra sự thỏa hiệp cần thiết để thâm cảm và khoan dung, ngay cả với trò dâu bể. Có phải đó là cách thế giữ mình giữa cuồn cuộn những tai ương. Và cũng từ đó, để xác minh cho thứ vinh-dự-lầm-than đã có lần biểu-dương đến cùng-tận.(*) Rồi ra cái Ta vẫn muôn thuở, bất kể ngoài Ta đời có nổi hung đến nỗi thừa cơ cho chó- nhảy-bàn-độc làm lộn lạo cả kiếp người. Có phải nhờ vậy, khi tâm đã định mà thơ trở lại giữa điêu tàn bằng những bước thênh thang như đời chưa từng dâu bể.

 

Điều đó có phải còn là bằng chứng về sự thất bại của chế độ gông cùm đang cố tình giam giữ hồn tính của cả một phần dân tộc. Thoát được ra khỏi cái lồng kín của sự thiển cận, hẹp hòi đến ti tiện... giữ cho mình không sa đọa vào thứ thiênđường-mù đang ngày đêm ra rả tuyên truyền chính là cuộc chiến thắng thầm lặng của lương tri với tội ác. Lòng người về mở toang ra với thế giới mênh mông của trời đất, vẫn nguyên si từ một thuở hồng hoang, như đứa con trở về ngôinhà-của-mẹ.

Trở lại sau mười năm giam cầm, dù thể xác có hư hao mà tinh thần vẫn không hề suy xuyển- cùng với hàng trăm ngàn bạn đồng tù vô danh khác, phải kể là một tuyên dương thầm lặng của ý thức nhân quyền. Tự chủ. Tự do. Chỉ có Ta làm chủ được ta. Bằng một cách nào đó, cộng với cái nhìn vô thường tự tâm vô ngã, có phải là lối thoát của tinh thần ra khỏi cái ám ảnh của chín tầng địa ngục mà đám cai tù vô học, vô nhân thừa lệnh đám cầm quyền vô thần vô hậu đã bày ra vừa để hành hạ xác thân vừa để tẩy nảo những kẻ sa cơ thất thế. Bài thơ như một chứng tích hùng hồn cho sự thất bại của lũ người cuồng tín. Trở về là vứt bỏ mọi trói buộc từ xiềng xích bằng sắt thép tới xiềng xích bằng kiểu lý luận tròng tréo của thứ chủ nghĩa sát nhân, giữ y nguyên tánh của con người vốn đã được thủy chung gìn giữ ở Miền Nam ngay cả khi phải cố giữ cái sống khi kẻ thù đem gieo rắc cái chết ở đó suốt hơn hai mươi mấy năm dài.

 

Ta về như giấc mơ thần bí

Tuổi nhỏ đi tìm những tối vui.

Trăng sáng lưu hồn ta vết phỏng.

Trọn đời, nỗi nhớ sáng không nguôi.

 

Bé ơi, này những vui buồn cũ,

Hãy sống, đương đầu với lãng quên.

Con dế vẫn là con dế ấy,

Hát rong bờ cỏ, giọng thân quen.

 

Hình ảnh “con dế” có phải là biểu trưng của một cõi đời đã mất vốn êm ấm trong vòng tay thương yêu của cha mẹ, trong bảo bọc của một xả hội công bằng với một nền giáo dục dân tộc-nhân bản-khai phóng mà tuổi trẻ miền Nam đã thừa hưởng. Có phải cũng từ đó đã vượt lên trên mọi biện biệt với cái tâm xích-tử. Ta về như lá rơi về cội. Để người “ về ” cảm thấy như chưa có lần đã... “ đi ” !

 

Ta về khai giải bùa thiêng yểm.

Thức dậy đi nào, gỗ đá ơi !

Hãy kể lại mười năm mộng dữ.

Một lần kể lại để rồi thôi.

 

Một lần kể lại để rồi thôi.

Có thể vậy không ? Hay để trấn an cho chính mình khi chữ nghĩa cứ cuồn cuộn như sóng biển ngày gió lớn. Và cuộc đời, cuộc đời thì như con sông trăm nhánh, nước khi lớn khi ròng, có bao giờ ngừng lại. Chỉ có con người là sẽ có lúc lặng tiếng, im hơi. Bởi vậy còn biết bao điều chưa nói kịp khi mà bất-tận-nỗi-đời-hunghãn-đó. (*)

 

Ta về như hạc vàng thương nhớ

Một thuở trần gian bay lướt qua.

Ta tiếc đời ta sao hữu hạn,

Đành không trải hết được lòng ta.

 

Đành không trải hết được lòng ta ! Quả là một tiếng kêu thống thiết. Sự thú nhận tính cách bất toàn và hữu hạn của đời người như một thất bại tự thân của cuộc hiện sinh quả là lời báo trước cho những kẻ tập tểnh vào đời. Hay cũng là lời an ủi cho cả một thế hệ đã... đầu-thai-nhầm-thế-kỷ.

Mà thật vậy, làm sao, làm sao nói ra cho hết, làm sao kể ra cho đủ dẫu lòng người đã vói tới mấp mé bên rìa cuộc biến thiên của Vô thủy Vô chung. Dù chữ nghĩa đã như xé rách hết mọi lớp vỏ để vét cho ráo cạn mọi nỗi niềm. Người làm thơ đã vậy. Còn người đọc thơ, có mạo muội quá không ? Hay là đọc thơ rồi nín bặt, rồi chảy nước mắt như Trần Tử Ngang trên đài U Châu, một lần nào đó !

Thật vậy, ba cái thứ chuyện lấm lem máu me xương cốt thì thiệt tình làm sao tả ra cho hết được, thứ thương tích lút sâu trong tận cùng tâm thức... Máu trên da thịt còn lau khô rồi băng bó cho lành. Còn thứ máu-me-vô-hình mà lênh láng trong các trại tù nằm lẫn lút trên dãy Hoàng Liên Sơn ở ngoài Bắc hay Suối Máu trong Nam, ( v.v... và v.v...) đã ăn luồn tới hun hút trong đầu, trong tim, trong từng giọt mồ hôi chảy xuôi như suối, trong từng giọt nước mắt nuốt ngược vào lòng thì lấy gì mà nói, mà tả ra cho hết được, tầng tầng oan khuất đó. Chữ nghĩa tới một mức nào rồi cũng phải đành bất lực.

 

Ta về như lá rơi về cội.

Bếp lửa nhân quần ấm tối nay.

Chút rượu hồng đây, xin rưới xuống,

Giải oan cho cuộc biển dâu này.

 

Đọc thơ Tô Thùy Yên có giải oan được chút nào cho những vết thương không chịu lành đó không. Câu hỏi bật ra như viên sỏi ném vào vực sâu không đáy. Làm sao có tiếng dội giữa mịt mùng ! Mà tội gì phải hỏi thêm. Chỉ biết lòng người vốn độ lượng.

Thì, cũng đành... thôi vậy !

 

Ông Tô Thùy Yên làm thơ không ít. Thể cách từ tân thời tới cổ điển. Mà thôi sá chi mớ hình thức khi mới cũ gì cũng trên tay thiên hạ. Bất chợt nhớ thêm mấy câu thơ trong bài Góa Phụ.

 

Em chạy tìm anh ngoài cõi gió

Lửa oan khốc giỡn cười ghê hồn

Tiếng kêu đá lỡ long thiên cổ

Cát loạn muôn trùng xóa dấu chôn.

 

Chữ nghĩa quả là khốc liệt. Xác chữ thì cũ mà hồn chữ thì mới, hình ảnh thì quen mà góc nhìn lại lạ, âm điệu cổ điển mà tiếng vọng dội rền tới tận cõi quên, cứ làm bật dậy những xác đời đã tẩn liệm trong quan quách của thời gian.

 

Làm thơ như ông Tô quả là thốn-tâm-thiên-cổ. Thơ mới đã mấy ai chữ nghĩa như ông. Nghe nói ông rất khó với mình. Thơ làm có khi xóa tới xóa lui làm sực nghĩ tới người đục tượng cầm dao khắc đá. Chảy máu tay là chuyện thường.

Bởi vậy không lạ khi đọc thơ ông, từng chữ từng nghĩa cứ như xoáy, như ngoáy, như khoét làm rát buốt đến tận tâm can.

Rồi lại nhớ tới đời xưa, lời bàn của Mộng Liên Đường chủ nhân cảm thơ Nguyễn Du tới độ thấy lời văn tả ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm trên tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải thấm thía ngậm ngùi, đau đớn như đứt ruột. Thế thì gọi tên là Đoạn trường tân thanh cũng phải. (**)Ý là Truyện Kiều dài 3254 câu lục bát, có những câu thơ ... ơi là thơ. Và có những câu cứ như là những cái gạch-nối mấy câu... thơ.

Thơ của Tô Thùy Yên có nên gọi là Đoạn Trường Tân Thanh bản 2 chăng ? Có nhận ra được với ông hết tận cùng cái tang chế của một thời đoạn trường mới chăng ? Hỏi mà dường như câu trả lời đã hiện ra trước câu hỏi. Từ bây giờ. Và còn mãi mai sau.

 

Lịch sử đang tiếp tục quay đều cái vòng quay của nó, có khi dang tay ra cố hết sức kéo ngược lại mà chẳng được bao giờ.

Dẫu vậy, có ai bắt quên khi chứng tích còn sờ sờ ra đó.

 

Thì thôi, bắt chước ông Tô Thùy Yên :

               Một lần kể lại để rồi thôi.

Dù

Người thức nghe buồn tận cõi xa.

 

Người thức nghe buồn tận cõi xa !

 

Cao Vị khanh

 

(*) Biểu dương-hãy biểu dương cùng tận

Vinh dự lầm than của kiếp người -TTY-

(**) Bài tựa Truyện Kiều viết năm 1820 của Mộng Liên Đường Chủ Nhân -

 

ĐỌC THÊM

 

Trích một đoạn phỏng vấn của Nguyễn Mạnh Trinh về thời ngục tù cộng sản sau năm 1975

Nguyễn Mạnh Trinh:

- Khi bị đối phương cầm tù, tâm trạng thực của anh ra sao? Có giống như trong những bài thơ mà sau này anh đã viết ra không?

Tô Thùy Yên :

-Tôi nghĩ lại là đại để trong tù và tâm trạng trong thơ của tôi không khác nhau. Sau ngày 30 tháng tư năm 1975 khi đã vào tù rồi, tôi luôn luôn tự nhắc nhở mỗi một điều là hãy coi mình như đã chết và đây chính là phần posthumor life của mình Đời ta sáng mượn ánh tàn dư/ đến từ một hành tinh đã tắt nghỉ… Tất cả mọi nỗ lực nhiều khi vượt sức bình sinh của mình trong thế giới đày đọa đó là phải làm thế nào gìn vàng giữ ngọc, đương đầu với mọi kỹ thuật thâm độc nhằm hủy diệt nhân cách như là cái phần duy nhất còn lại của những người bại trận. Kẻ có liêm sỉ không vỗ ngực mình là người anh hùng trong một hoàn cảnh nghiệt ngã như vậy mà chỉ có thể hài lòng là mình đã chẳng gục mặt trước bạo quyền để phải nhục nhã về sau với bạn hữu.

___________________

CVK_Cosu.jpg
CVK_le bao dung.jpg
CVK_Sanse.jpg
cvk_thovecoquan_2.jpg
cvk_thang gieng.JPG

Rồi tết qua đi, sầu ở lại

Quê nhà xa huốt một đường bay

Rượu xuân ai ướp mùi quan ải

Mà thấm xa thêm những dặm dài !

 

Bốn câu hai mươi tám chữ, cụt ngủn. Lỡ có muốn thêm cũng chẳng biết thêm gì. Mà có thiếu gì không, mấy câu gọi là thơ, buổi chiều mùng-ba năm đầu tiên ăntết ở xứ người.

Một năm trước đó, ngay bửa ba-mươi-tết, tôi bồng đứa con gái đầu lòng lên năm, đeo xe đò từ một tỉnh ở phía cực tây, về thăm cha mẹ ở một làng quê giữa hai nhánh sông Tiền và sông Hậu. Luôn thể để báo tin một chuyến đi xa. Xa lắm, không biết có tới nơi tới chốn. Mà cũng chẳng biết ... rồi sẽ có một ngày về. Gia đình đông con, bốn trai năm gái. Nhưng lần ấy, ba anh em trai còn đâu đó trong các trại tù heo hút mấy miệt rừng núi Lào Kai, Yên Bái ... Mấy chị em gái cũng bận đi nuôi chồng trong các trại lán lẩn lút giữa một miền Nam thân quen bỗng sớm chiều trở thành lạ lẫm.

Chỉ còn tôi và đứa cháu gái ngu ngơ hớn hở vì được về thăm nội dù từ khi lọt lòng chưa một lần được nội ẳm bồng.

Đêm ba mươi. Ba tôi thắp ngọn đèn dầu leo lét trên bàn thờ tổ tiên cho tôi lạy từ biệt đất nước ông bà. Ngôi nhà gạch xinh xắn có giàn bông giấy tím ở tỉnh bị cướp trên tay, đổi thành căn nhà lá vách tre đứng chênh vênh trên doi đất vói ra vàm kinh Bình Phụng. Đêm cuối năm, trăng sao trốn biệt. Đêm trừ tịch, gió rền rĩ lẫy hờn. Đêm sinh ly, sóng vổ bờ như vổ vào chính lòng tôi, từng điệu oán.

Lễ xong, tôi xoay qua, mếu máo quỳ lạy sống ba má tôi, lần đầu mà nghĩ là lần cuối. Con gái thấy lạ cười ngặt nghẽo trên tay bà nội.

Sáng hôm sau, bồng con quày trở lại nơi mai mốt sẽ khởi đầu cho chuyến đi vô định.

Mùng chín tết năm đó, tôi rời Việt Nam.

Một năm sau, tôi ăn tết ở một nơi không có bàn thờ ông bà, không cha không mẹ, không anh chị em, không hoa mai cũng chẳng mứt gừng mứt bí... Chung quanh tôi, tuyết trắng, trắng đến mênh mông như một cõi lòng đã lạnh. Trái đất quay, quay theo chiều quay nghiệt ngã. Xuân ở quê nhà, quê người đã quá nửa chừng đông.

Giữa đêm, trời đổ tuyết. Từng nhúm tuyết mịn bân mà nhẹ hửng như bông gòn thổi bay xối xả, nhuộm trắng cả đêm đen. Gió réo, tuyết loay hoay xoay chiều, lắm khi luống cuống như lạc nẻo, quẩy đập vào nhau vật vã như tiếng kêu khổ của mùa. Đêm gượng sáng mà có ngó ra thử tìm hướng cố hương cũng chỉ thấy mù thêm hai con mắt vốn đã thất lạc, từ khi. Nhìn tuyết trắng trời mà cảm thán tới muốn sửa thơ Nguyễn Bính tiếc Huyền Trân. Giờ đây chín vạn bông trời nở / Riêng có lòng ta khép lại thôi. Ông ta tả hoa lá mùa xuân rực rỡ ở đâu không biết. Chớ ở đây, cõi tôi gá thân chỉ có trắng một trời bông tuyết nở ! Lòng người xa xứ, có khép lại, cũng đành.

................................ ............................

Vậy mà rồi hơn bốn mươi năm. Bốn mươi năm biệt xứ, không về lại một lần. Tang cha, tang mẹ, trắng xé lòng, mỗi lượt. Ở xa, tôi không đi chùa đi miểu. Mỗi lượt, tôi, mình tôi, chẳng đạo chúa, trốn vô ngôi nhà thờ nhỏ ở góc phố vắng. Trưa im im, lặng ngắt, đèn thờ không sáng nổi mặt tượng. Không gian nhốt kín, cả đến gió thu cũng bị chận lại bên ngoài. Mình tôi, riêng lẻ mình tôi, thu mình trong một góc khuất, nhìn cái trống không giữa những vòm cong thánh đường. Tôi ngồi ở đó, bất động. Rồi thấy lại tôi chín mười tuổi chạy nhảy thênh thang giữa tấm lòng trải rộng đến mênh mông của cha mẹ. Thấy lại tôi trưởng thành vẫn y nguyên một nỗi cưu mang như khi còn đòi bồng ẵm. Thấy lại tôi với lời tự hứa báo hiếu ngày mới ra trường. Thấy lại tôi bỏ cha bỏ mẹ ngay đúng lúc tuổi già xế bóng ... Thấy lại tôi với tội nghiệt tôi ...

Tôi ngồi ở đó, khóc, lặng lẽ mãi đến khi chiều xuống.

Rồi ra về với huyệt mộ chôn kín trong lòng.

Hôm sau, đã ba chân bốn cẳng chạy theo miếng ăn, giữa xứ người rộn rã mà quạnh quẽ tiếng hỏi câu chào.

Mươi năm sau, nghe người về, rủ rê. Sao lòng tôi lạnh tanh. Tôi không yêu quê tôi sao. Không ! Tôi yêu quê tôi lắm chớ. Ở đó còn mồ mã ông bà dù đã lạn. Còn bao nhiêu mồ mã vô danh khác dù đã tan thành cát bụi để tựu hình mảnh đất hình chữ S nằm nghênh ngang một cõi bờ Đông Hải, gần suốt hai mươi thế kỷ. Còn riêng trong một góc nhỏ, hai nấm mộ lạnh tanh. Nơi đó, tôi đã lớn lên, ngoài sự chăm lo đùm bọc của mẹ cha, còn nguyên cả một chiếc nôi đồ sộ mà tổ tiên tôi ... đã chụm tay kết thành bằng mồ hôi, máu, nước mắt và cả một tinh thần nhân bản tuyệt vời. Quê hương tôi đã nuôi tôi lớn lên bằng cơm gạo, cá mắm, thịt thà ... kết tụ từ đất đai sông nước mà người trước tôi đã gầy dựng, giữ gìn. Quê hương tôi đã dạy tôi sự nhẫn nại cùng cực của một dân tộc đã bị đày đọa gần suốt hai ngàn năm dưới sự thống trị của đám giặc phương bắc mà vẫn còn nguyên lành bản chất như nhánh tre già, qua bao nhiêu bão dữ vẫn dẻo dai vươn mình. Quê hương tôi đã cho tôi cả một kho ca dao mà từng câu lục bát ngọt ngào đến độ mẹ ru con thành tiếng ầu ơ. Quê hương tôi đã cho tôi nghìn trùng lời hay ý đẹp trong mỗi câu mỗi chữ mà ngôn từ cấu tứ đẹp như gấm như hoa, của ba ngàn hai trăm năm mươi bốn câu lục bát kể chuyện đoạn trường Thúy Kiều, ba trăm năm mươi sáu câu song thất lục bát than thở nỗi buồn Cung Oán, bốn trăm lẻ tám câu kể lể nỗi chờ mong Chinh Phụ ... Những bài hát nói mà âm tiết nghe reo vui như tiếng cười khúc khích khi đời chưa dâu bể. Những câu thơ 7 chữ 8 chữ ... của những người làm Thơ Mới mà chữ nghĩa được nhã luyện đến thành văn vẻ, được chuốc lọc để trở nên óng ánh như trăng sao ... Quê hương tôi đã dạy tôi ăn ở lễ nghĩa trong gia đình, ân cần ngoài xả hội như chính tấm lòng của kẻ sĩ Nguyễn Trải, ngay khi ở phương tây người ta còn thiêu sống nhau vì ba cái trò ngụy tín. Còn bao nhiêu nữa làm sao kể hết. Làm sao tôi quên. Làm sao tôi không nhớ.

Vậy rồi tới khi bỏ xứ mà đi, coi như phủi sạch nợ nần. Làm sao lòng không lấn cấn.

Xứ người, lạ từng cọng cỏ ngọn cây. Lạ tới tiếng hỏi câu chào. Lắm khi buồn ngẩn buồn ngơ. Dẫu có an thân sao vẫn cứ thấy mình tạm bợ.

Mà biểu về, chẳng lẻ lại cúi gập mặt mà về để khỏi nhìn thấy những thay đổi não lòng. Ở đó, những thằng trọc phú quyền thế ! Ở đó những người nghèo mạt hạng không chút đỡ đần ! Và cả một tinh thần nhân nghĩa từ ngàn đời bị dày đạp chẳng làm xao xuyến được một cái nhíu mày !

.......................... ..............................

Rồi tết qua đi, sầu ở lại ! ...

Lại thêm một cái tết quê người. Mươi năm đầu, còn nguyên một hy vọng, kềm lòng giữ chí như ngày ra đi. Vẫn mơ một ngày về lại cố hương, thắp nén nhang, quỳ xin tội với vong linh người khuất mặt. Rồi dấn mình vào cuộc trùng hưng. Nhưng rồi, từng năm qua, từng cơn mơ bị giựt dậy phũ phàng ...

Tôi đã làm gì đời tôi. Ngoài miếng ăn, từng bữa ... Và quê hương vẫn rền rĩ giọng hờn !

Vậy rồi bốn mươi năm đã qua. Qua ngọt xớt như mới hôm qua hôm kia. Thời gian lẳng lặng thoát đi như sao xẹt.

Tôi còn ở đây, bên này biển lớn, giữa bãi bờ trắng toát ...

Mấy ngày qua, chiếc độc bình cũ được cắm thêm nhánh mai giả, phủi hoài mà bụi vẫn thâm đen. Săm soi rồi thấy mũi lòng. Hoa giả vô tình mà cũng tàn tạ. Nói gì tới người ...

Năm này sang năm khác, thói thường rồi phải quen. Quen với sự dư thừa cũng như sự thiếu thốn.

Bốn mươi năm rồi. Đủ để quen bao nhiêu thứ lạ mà sao vẫn không quen với cái thói lãng quên. Quen với ngọn thông xanh sừng sững sao không quen với cái trống trải vì vắng bóng bụi tre già. Đã nhẳn mặt với đường lộ phẳng phiu sao còn thắt thỏm hoài lối về làng trầy trật, ngang qua bến nước với chiếc cầu tre lắt lẻo .

...................... .........................

Bốn mươi năm rồi, sao còn lấn cấn với ba cái chuyện phải quên. Làm như quá khứ giành giựt hoài với hiện tại, bốn mươi năm rồi vẫn không chịu buông tay ! Cái thói quen hay tục lệ mà mỗi năm tết đến là ai nấy dù bôn ba đâu đó cũng lo thu xếp về quê, mừng tuổi mẹ cha, vung đắp mồ mã, cúng vái ông bà ... làm như nhiểm trong máu huyết hay sao. Vậy mà rồi, bỗng dưng, bít hết mọi đường về !

Bốn mươi cái tết xa quê. Lẽ ra đâu còn lạ cái lạnh cóng người của mùa xuân vọng tưởng. Lẽ ra mọi ấm ức phải dìm sâu, chôn kín dưới mấy tầng huyệt thời gian. Vậy mà cứ mỗi lần nghe nhắc tết, lòng sao lại băng hăng bó hó như lỡ thiếu sót một điều gì. Chút lễ vật, trái cây, nhang đèn ... đã có đó, tàm tạm. Làm sao đòi hỏi hơn nữa, chỗ đất trời lạ lẫm.

Mà dẫu có thiếu rồi cũng có làm sao. Kiểu ăn nhờ ở đậu. Được chừng một hai bữa. Rồi tết nhứt cũng qua. Ai nấy trở lại với nhịp sống mới đã thành nếp. Sao riêng mình, cứ mãi chút băn khoăn ...

Tết tha hương rồi thoáng qua như bóng mây váng vất ...

Còn lại không là chút khói hương lẫn lẫn trong gian nhà kín cửa. Chút khói hương quến lại như chút quà tết ai đó bỏ quên. Khổ nỗi, của bỏ quên mà sao gợi đầy mùi nhớ. Những thề nguyền !

Có phải vẫn mãi là nỗi ân hận của một kẻ trốn chạy, bỏ cuộc ... giữa chừng ! Có phải vẫn mãi là nỗi chua cay của một kẻ bị giựt dậy giữa cơn trường mộng ! Có phải vẫn mãi là sự hổ thẹn của một kẻ đã thất hứa dẫu thệ nguyền chưa bao giờ được khắc đá đề tên !

Trong giờ khắc linh thiêng của một năm, sao lại nhớ, nhớ như mới hôm qua hôm kia, nhớ như từng chữ từng lời đã đục đẽo vào tim ...

Tết qua rồi, nhang đèn đã lạnh. Sao lời thư năm nào, tháng nào, ngày nào đó ... vẫn lắt lay trong trí nảo đã gần như mòn nhẵn

“ Ở xa, con ăn tết ra sao ? Tết nhứt ba không chờ quà cáp. Ba chờ tụi con gởi về tin vui chung cho hết thảy mọi người ’’

Mấy dòng chữ mực xanh, nét sắc như dao khắc ... vẫn còn như từng mũi nhọn.

Vậy đó tưởng quên mà vẫn nhớ. Mười năm một giấc mộng không thành. Người chờ cho hết đời cô quạnh. Ta đứng bên trời, lệ chảy nhanh.

Rồi tết qua đi, sầu ở lại !

 

Cao Vị Khanh

CVK_Tuyetdaumua.png
cvk_chiabiet.jpg
cvk_Varoi.JPG

Cho đến khi giựt mình nhìn lại, cả bọn không ai còn trẻ. Cho dù tuổi tác chưa đến đổi quằn vai nhưng sức trì của một quá khứ oan khuất vẫn trìu trĩu sau lưng như một lực quán tính khó cưỡng. Cuộc chiến mà chúng ta đã sống trọn một tuổi thanh niên đã kéo dài quá sự cần thiết để tỏ ra cho hết cái vô nghĩa của nó. Rồi cái kết cuộc lãng nhách chỉ làm bẽ bàng thêm cho một sự dấn thân đã bị bội phản từ đầu. Thân xác chúng ta có tàn phế sau những trận pháo tung tóe, nhưng chính hồn chúng ta thì đã tử thương từ khi tiếng súng im hơi. Chính trong những trại tù (cải tạo !?) núp giấu giữa rừng thiêng nước độc, đã bày ra một cuộc thảm sát mới, thầm lặng nhưng không kém phần cuồng nộ, để tiêu diệt hồn tính con người. Bằng mọi cách, từ rào kẽm gai đến phên nứa tướt nhọn, từ đày đọa khổ sai đến bỏ đói kiệt lực, cùm gông đến biệt giam, trói thúc ké đến bò lết… từ con người đến con vật người…

 

Năm bảy năm, mười mươi năm…

 

Thoát ra, mọi người còn cái xác xơ vơ xửng vửng, hồn thì vật vờ như lỡ nếm cháo lú qua sông Nại Hà dù đã bịt miệng bịt mũi. Thoát ra, mạnh ai nấy chạy. Chạy chết. Qua sông. Qua rừng. Qua biển… Chừng đứng lại, giữa một chỗ lạ lẫm đến ngỡ ngàng, cả bọn dù chưa già thì cũng đã cỗi, cỗi như chính cái dòng lịch sử bầm dập đã chảy ròng rã và đục khoét đêm ngày lên đời sống chúng ta.

 

Bằng cách nào thì sự sống sót qua cuộc sinh tử đó cũng có cái giá của nó.

 

Hơn 30 năm tranh sống với cái chết giữa đường tơ kẽ tóc, thêm năm mười năm cùng kiệt trong các trại tù ngụy danh hay vật vờ giữa một xả hội đảo điên, còn lại gì nếu không là một sự chán chường tột độ và nghi ngờ hết mức về những giá trị được gọi là nhân bản. Súng đạn thì giết người ngọt lịm mà lửa phần thư thì đốt người âm ỉ. Giàn hỏa thiêu sách vở là một cuộc tru di chậm nhưng chắc. Và mục đích của nó tồi tệ hơn bất cứ một hành vi man rợ nào. Lửa đốt từng trang sách là lửa đốt từng nếp văn hóa đã có thời rực rỡ, giữa lòng ta. Nhiều năm sau, khi đã lang thang mòn mõi trên xứ người, vậy mà lớp tro than cũ vẫn cứ còn âm ỉ… Nhật Tiến đã có lần viết « Trận đánh cuối cùng của một kẻ sĩ » kể lại cuộc chiến vô vọng của một kẻ thất thế muốn giành giữ lại mớ gia tài sách báo của một thời…

 

Dĩ nhiên sách vở cũng chỉ là những trang giấy, không đốt thì cũng có lúc mối mục ruỗng mòn. Chữ viết cũng chỉ là những dấu ký âm có lúc cũng sẽ phai lợt theo ngày tháng. Cái đáng nói chính là ý hướng phụng vụ trong hành động sáng tạo của bao người đã hiến mình cho một lý tưởng nghệ thuật hay khoa học được ghi chép lại trên những trang giấy, qua những hàng chữ, những đêm những ngày, những tháng những năm, những cặm cụi, những nghiền ngẫm hết một đời, những suy tư qua nhiều kiếp… chắt lọc, tích lũy, lưu truyền. Ðiều đáng nói nữa là cái dòng sống chính thống, chân chất và hồn hậu của một dân tộc đã được nuôi dưởng ở phần đất bên nầy, phía Nam vĩ tuyến 17, cái mạch nối liền lạc của tinh thần nhân văn của một dân tộc dù đã lắm bôn ba… thể hiện trong tầng tầng sách vở của miền Nam bỗng chốc bị đem ra phóng hỏa. Lửa cháy từ giàn hỏa cháy lan cả phận người. Ðể từ đó, cả nước là một cuộc hỏa thiêu toàn diện…

 

Nhiều năm sau nữa, lũ chúng ta-dù đã yên thân hay vẫn đang cày cục trên xứ người, bỗng có lúc rồi ngồi... ngơ ngẩn. Những câu thơ đã một thời ưa thích vụt nhớ vụt quên. Những trang sách đã một thời gối đầu không còn tìm đâu thấy nữa…Trên đất khách mênh mông, chúng ta như một giống người không có quá khứ, không có cả chiếc bóng để tự vỗ về mình. Chúng ta trần truồng dù quần áo đã thôi chắp vá, chúng ta trơ trọi dù phố xá cứ đông nghẹt người qua, chúng ta ngu ngơ dù quanh ta tràn ngập sách báo phim ảnh với đủ mọi thứ ngôn từ. Mà điều quan trọng nhất còn là nỗi não nề về một sự đảo lộn giá trị đến cùng cực, đã và đang được áp đặt trên cái quê hương khốn khổ mình đã bỏ đi. Cái đen thành trắng. Cái tốt thành xấu. Kể cả thứ chữ viết và tiếng nói mẹ đẻ đã được (bị) trong-sáng-hóa đến mức tối hù.

 

rong cơn chao đảo của niềm tin, mỗi người trong chúng ta không ai không thấy một sự hụt hẩng nào đó trong lòng, ngay giữa một cuộc sống mới chẳng những không thiếu một thứ gì mà còn gần như có đến thừa mứa...

 

Có lẽ một trong những thú vui mà ai nấy không quên được, từ cái thuở trấn đóng tiền đồn trên một đỉnh núi ngập mây, hay dạy học ở một tỉnh lẻ, những thứ ba thứ năm hay thứ bảy, đón chuyến xe liên lạc lên từ hậu cứ hay chuyến xe liên tỉnh từ Sài-gòn về, lòng như có chút gì nôn nao khi chờ người ta bóc dở những gói báo, những thùng sách…còn thơm y nguyên mùi giấy mực. Nhưng dù mua sớm hay mua trễ, sau đó, chính trong góc khuất của một quán vắng, hay trong góc kín của một giao thông hào, có khi bên cạnh một tách cà-phê đặc sệt hay chỉ là một hơi thuốc lá mỏng như sương, một mình, chỉ một mình, chúng ta đã sống những giây phút lâng lâng của một gặp gỡ thân tình bậc nhất. Khi bàn tay xòe ra vuốt sơ qua mặt bìa láng lẩy hay thô nhám, có khi là hình chụp một bức tranh hay chỉ là bảng liệt kê tên tác giả, khi ngón tay cọ lên góc giấy còn thẳng băng chưa có một dấu gấp, ngón tay ta sao cứ gượng nhẹ y như đang vuốt má một người tình, sợ giấy mực đau y như ngại làm đau đôi gò má mỏng tanh li ti những đường gân máu. Có cái gì đó trinh nguyên làm ta trân trọng. Có cái gì đó thăm thẳm làm ta ngại ngần. Cái gì như cái đau đáu của trang giấy chờ mãi phút-linhkhông-về, cái gì như cái thắc thỏm của ngòi bút ngần ngừ để lỡ một thoáng ý qua nhanh, cái gì như cái bóng gảy gập của người viết đang làm chuyện đẻ-đau chập chùng trên tay ta, giữa những trang chữ…

 

Sau những năm 60 với Hiện Ðại của Nguyên Sa đem về hơi sương của sông Seine, Sáng Tạo của Mai Thảo, Văn Nghệ của Lý Hoàng Phong, rồi Văn Hóa Ngày Nay của Nhất Linh với thuở trồng lan bên suối Ðam Mê, Tân Phong, Ðông Phương … là những năm 70 với Văn, Bách Khoa, Khởi Hành… Nghệ Thuật, Vấn Ðề, Thế Kỷ Hai Mươi, Thời Tập… chưa kể những tuần báo, nguyệt san hay bán nguyệt san có tính cách đại chúng như Văn Nghệ Tiền Phong, Phụ Nữ Diễn Ðàn, Phụ Nữ Ngày Mai, Kịch Ảnh, Ðiện Ảnh, Thời Nay, Phổ Thông… chưa kể những Tuổi Hoa, Tuổi Ngọc… mua hết không chừa. Cạnh đó, trên những giá kệ trong những quán nhỏ dọc đường hay trong những tiệm sách bề thề bên hè đại lộ, là ôi thôi sách báo ê hề như trăm hoa đua nở. Những thơ, những văn, những truyện dài truyện ngắn, những nghiên cứu khảo luận, những bút chiến phê bình... Mơ mộng ở đó, vui buồn ở đó, mà nghĩ ngợi học hỏi cũng ở đó. Ðọc ở đó để thấy sự lãng mạn tuyệt vời của một phần dân tộc đang bị đày đọa giữa cuộc chiến tương tàn, để thấy niềm hy vọng lấp ló trong những chùm hoa nở trên sợi kẽm gai, để thấy trong cùng khổ con người vẫn vươn lên như đám mạ non vươn lên từ một đêm tối. Ðọc ở đó để thấy những cánh huyết hoa nở ra từ những bãi máu.

 

Thử nghĩ đến những người thắp ngọn điện câu leo lét mà viết. Thử nghĩ đến những người che poncho đốt ngọn đèn cầy mà viết. Những cô học trò chưa hết tuổi hồn nhiên. Những anh sinh viên mộng vói tới trời. Những bậc học giả ngày đêm nghiền ngẫm. Những văn thi sĩ chưa bao giờ đong gạo bằng văn thơ rút ruột của mình... Ðủ hết. Mọi kiểu mọi cách. Người viết tha hồ viết, lặng lẽ hay huênh hoang. Người đọc tha hồ đọc, chấp nhận hay khích bác. Có điều phải nhận rằng dù thích hay không thích, không ai có thể phủ nhận cái đẹp đã thành tựu trong văn chương ở miền Nam buổi đó. Câu văn có trau chuốt hay không cũng đã sáng sủa, trôi chảy, biểu lộ sự trưởng thành của một thể loại chỉ mới vừa sinh ra từ đầu thế kỷ. Ngay cả cái kho ngữ vựng Hán-Việt cũng đã rạch ròi, trong sáng và phổ quát không kém gì mớ vốn liếng nôm na. Thơ buổi đó bay lượn trên đầu súng, tung hê thỏa thích. Văn buổi đó luồn lỏi giữa những đường bay của bom đạn sát nhân mà vẫn đằm thắm tình người, đủ sức khai triển đến nơi đến chốn những khái niệm trừu tượng và siêu hình, bằng một văn phong trong sáng, hợp lý và hoàn chỉnh.

 

Chẳng bằng với cái loại chữ nghĩa hổ lốn đổ xô vào miền Nam sau khi bị giải phóng, rồi được “du nhập” sang đây bằng mọi cách mọi kiểu. Từ những chuyến qua lại rập rình của những khúc-ruột-ngàn-dặm ... rồi nghị quyết 36 ... rồi giao lưu văn hóa ... Lắm khi cũng để cợt đùa mà rồi vô thức bị tiêm nhiễm lúc nào không hay...

 

Ðành rằng ngôn ngữ cũng có đời sống hẵn hoi (chẳng vậy mà có những loại chữ đã thành tử ngữ), nghĩa là cũng trải qua một quá trình sinh tử, có sinh có hũy, có sự tiến hóa hay thoái trào như mọi chủng loại khác. Nhưng tiến hóa phải có nghĩa là tiến từ thấp lên cao, từ tối tới sáng, từ dở tới hay chớ sao lại có sự tiến hóa ngược đời ? Cái tiếng gọi “nhà bảo sanh” thì ngay cho đến đứa nhỏ học lớp năm cũng hiểu được, thì nhân danh một sự trong-sáng-hóa ( ? ! ) nào mà đổi thành “nhà đẻ” cho đành. Đó chỉ là một thí dụ cỏn con chớ nếu kể ra hết hổng chừng không đủ chỗ mà còn gây tác hại cho mấy cái mạch máu đang hì hục lưu thông! Cũng như cái lối viết với câu cú trục trặc, trắc tréo, trặc trẹo… nhan nhản trong sách báo cũng như trong giấy tờ, hồ sơ, công văn, nghị quyết, thông cáo... của nhà cầm quyền cộng sản ở miền Nam Việt Nam sau năm 75, ở cái thời người ta gọi là thời-giải-phóng.(*) Tưởng chạy thoát là thoát luôn nạn chữ sau nạn nước, ngờ đâu rồi y như ba cái loài bệnh dịch, lây tràn không biên giới, đến lúc không ai trong chúng ta không khổ tâm, khó chịu, mắc cở... khi ở quê người còn phải tiếp tục chịu đựng cái lối “ngây ngô hóa” mớ tiếng Việt đáng thương của chúng ta. Cái hay sao không bắt chước, bắt chước chi cái dở cho đành !

 

Giữa bối cảnh bát nháo của chợ người chợ đời, dẫu trong sự lặng lẽ đến cô đơn, có một lúc nào đó, những người đã bỏ nước ra đi, bỏ lại gì thì bỏ mà vẫn giữ rịt theo mình mớ chữ nghĩa đã chắt chiu ngay từ lúc hồn trẻ còn đu đưa theo hai tiếng ầu ơ, cảm thấy bứt rứt, chữ nghĩa bám theo hồn người bắt đầu rục rịch kêu đòi... Bất kề lưu lạc đâu đâu nơi xứ người, may mắn trong một văn phòng có máy lạnh hay cắm đầu cắm cổ dùi đục trong một xưởng máy nóng hực, giữa một trời xuân bát ngát mùi nhựa thông hay xì xụp giữa bãi tuyết lạnh tanh, nói tiếng Tây tiếng Mỹ lưu loát hay vừa nói vừa múa tay dậm chưn, trong đầu của họ vẫn lấp ló mớ chữ nghĩa thân yêu, mớ bằng trắc ngọt lịm của lục bát dổ em hay những câu văn nhẹ nhàng mà chắc nịch ý nghĩa... Họ nhớ không thôi. Và như vậy, như có một thúc hối vô hình, họ bắt đầu làm thơ viết văn trở lại bằng chữ mẹ đẻ từ ngay trong vô thức, khi chưa có điều kiện để ngồi lại một góc bàn viết. Họ viết... viết... dù lắm khi cũng chẳng biết để làm gì.

 

Khởi đầu là một đôi câu thơ làm bên giàn máy bê bết dầu mở, rồi quên lửng trong tiếng động ì ầm, cũng có khi là một vài đoạn viết rời, bỏ kẹt trong hốc tủ được lục ra, phủi bụi… Thì ra suốt mươi năm im lặng vẫn là một nỗi thống thiết không nguôi với mớ chữ nghĩa đã có lần là lẽ sống. Trên góc khuất một tờ báo địa phương rặt mùi quảng cáo, một đặc san nhân dịp hợp mặt đồng hương ... cho tới lúc hè nhau in ấn một tập báo văn chương, hay gom góp chút dư thừa èo uột để xuất bản một quyển sách ... những người Việt lưu vong, ở đâu đó trên khắp cùng mặt đất vẫn luôn ôm ấp, luôn hoài niệm về một nền văn chương đã bị bức tử. Và lặng lẽ nối lại dòng sinh hoạt đã phải bỏ dở, từ khi.

 

Từ đó, dòng thơ văn cũ của miền Nam như bừng sống lại. Từ đó, bằng mọi phương tiện, từ những tờ báo in trên giấy cho đến khi bay vọt lên mây, từ những tập giấy mỏng tanh đến những bộ hợp tuyển dày như tự điển, mọi thể thơ từ cổ điển đến tân thời, mọi thể loại từ truyện ngắn truyện dài đến biên khào... có giá bán cốt để trừ tiền ấn phí hay chỉ in-để-tặng-không... mọi kiểu mọi cách tiếp tục xuất hiện như những lời nhắc nhở, thúc hối, khuyến khích, … anh viết, chị viết, tôi viết… Bỗng chốc rồi một cơn hứng khởi mới… Bỗng chốc rồi con tim mệt mỏi bắt lại cái nhịp thúc hối của lục bát, cái nhịp sắc mắc của bảy chữ... Bỗng chốc rồi thơ ở đâu ùa về, văn ở đâu đổ tới, người ta sống lại nỗi say mê của một thời tuổi trẻ, thở lại cái hơi ngất ngưởng của chữ nghĩa trên đầu ngọn bút những năm 60, 70… Mùi giấy mực từ một quá khứ thổi về làm căng lại lồng ngực… Rồi là những đêm những ngày miệt mài viết, xóa, viết, xóa… Trong giờ ăn giữa hai suất khuân vác đục đẻo, viết ngoài bãi đậu xe, trong góc bếp một căn chung cư hẹp té ... bất kể ở đâu đâu, trên tay lái một chiếc xe giao hàng ngừng ở ngả tư đèn đỏ, lúc nửa khuya vì một ánh trăng lẻ loi chợt rớt trên đầu giường... Họ viết, viết ngay cả khi không biết viết để làm gì... Chẳng vậy mà bỗng chốc giữa cuộc sống xô bồ, nồng nực mùi hương lạ, chúng ta tìm lại được mấy chút hương xưa.

 

Dẫu mang nhiều tâm ý vẫn là một cuộc chơi. Ðã chơi thì có kể gì thành bại. Cái đáng nói là sau hết, đâu đây, vẫn còn đó… những con mắt xanh thấp thỏm. Từ biệt xứ, không hẹn mà đây đó đã vọng lại những tiếng gọi thầm lặng, rủ rê nhau tiếp tục cái công việc đã bị bỏ dở từ cơn trường hận tháng tư-bảy lăm. Suốt những năm lao đao làm quen với mùa màng cây cỏ lối xóm láng giềng lạ hoắc, người Việt tha hương ở mọi nơi vẫn không ngừng gióng tiếng gọi đàn của bầy chim thất lạc. Từ đó những vần thơ thê thiết, những câu văn bay bướm hay dõng dạc đã không ngừng xác nhận sự có mặt của một dòng văn chương bị hủy diệt tức tưởi ở ngay trên chính quê hương mình. Từ đó, trên khắp cùng mặt đất, những người Việt quấn quít với hồn vía quê mẹ đã và vẫn không ngừng lên tiếng để nuôi dưởng nếp sinh hoạt nhân văn đã có hồi rực rỡ. Cơm gạo có thể thay thế bằng bánh mì, bơ, sửa... Nhưng văn chương làm sao thay thế dẫu với những kiệt tác được viết bằng tiếng nước người. Vốn liếng ngoại ngữ có thể giúp người ta hiểu ý người sáng tạo bằng chữ nước người. Nhưng để cảm, để rung động, để hòa cùng nhịp tim, để nhập chung dòng cảm xúc dường như còn đòi hỏi cùng chung cả một chiếc nôi văn hóa đồng dạng tự đã ngàn đời. Ấy chỉ là văn xuôi. Còn thơ ? Hẵn còn khó hơn bội phần. Chẳng vậy mà người ta hay nói ... “dịch” là “phàn” !

 

Những người mài miệt làm cái công việc viết lách ở một nơi không phải quê mình, kể ra họ đã góp phần không nhỏ cho chuyện an cư của đám người lưu lạc. Không có họ, đất khách sẽ mênh mông và kiếp lưu vong sẽ lạc loài biết mấy. Lớp đã thành danh từ trước cơn hồng thủy, bỏ nước ra đi đã không quên mang theo mớ hành trang chữ nghĩa, đến lúc trải lòng ra, nối tiếp lại cái thiên chức đã bị cướp giựt một cách ngang xương... Rồi như ngọn sóng triều lên, lan sang cả những người chưa từng cầm bút nhưng ẩn ức vì một quá khứ vàng son cũng hè nhau lên tiếng... Rồi là đám trẻ tập tểnh nối bước cha anh. Dẫu còn phải chen chúc với chữ nghĩa nơi họ phải hội nhập vì cuộc sống, vẫn cố lội ngược dòng để không bỏ mai một mớ chữ nghĩa mà cha mẹ đã móm môi khi vừa mới lọt lòng. Văn thơ chữ Việt, suốt cuộc đổi đời tàn khốc, vẫn tiếp tục bay lượn ở một chỗ không phải là chỗ của mình.

 

..........................

 

Vậy mà rồi cũng mấy chục năm qua đi. Mấy chục năm. Tròm trèm nửa thế kỷ. Nói nghe gọn bâng như một tiếng chắc lưởi. Mà thật ra, thời gian dù có thun dản tới đâu cũng vẫn có tác dụng hủy hoại vô chừng. Được cái là suốt cuộc tha hương, ai nấy xa quê mà tường chừng còn gần lắm. Gần vì hằng buổi vẫn nghe quanh quanh thứ tiếng nói với sáu dấu giọng lên xuống trầm bổng tự nhiên, vẫn thấy quanh quanh những câu văn dài ngắn bất kể mà dấu phẩy dấu chấm, cấu trúc văn phạm còn đúng y thứ ngữ pháp đã thành nếp từ cái thuở ... ông Bảo Đại còn làm trùm. Nghĩa là từ cái thời ông HCM còn xin xuống tàu Pháp làm bồi. Bởi đó, đời lưu lạc đỡ buồn biết mấy !

 

Nhưng mà, vấn đề không ngừng ở đó. Vấn đề là sẽ tới một lúc, thứ chữ Việt hoa lệ đó sẽ trở thành tử ngữ. Vì tuổi tác của lớp người viết lách và số độc giả đã đồng hành cùng họ. Số người rời khỏi nước từ năm 1975 ngay trong lứa tuổi hoa niên-những người đã thấm nhuần thứ văn chương nền nếp đó- tính tới nay hẵn cũng đã tròm trèm tới tuổi cỗ-lai-hy. Lớp độc giả trung kiên đó rồi sẽ như lá mùa thu rụng. Lớp trẻ đôi mươi lớn lên bên nầy đại dương dù có muốn kéo níu hẵn cũng sẽ nao lòng trước sự thưa thớt mỗi ngày một tỏ lộ. Viết mà không ai đọc thì làm sao mà viết. Viết mà dẫu có người muốn đọc ở bên kia biển lớn nhưng vì đã bị cách ly bằng mấy bức-tường-lửa thành ra đã trật trịa cách thức suy nghĩ cũng như cú pháp hành văn, nhất là đã sai lệch cảm quan nghệ thuật thì làm sao tìm được sự cảm thông, dẫu ở đó vẫn còn những tấm lòng thao thức. Nhưng thao thức rồi sao hay chỉ để làm khổ chính mình- nhất là phần lớn cũng đã mấp mé bên lề sinh tử, trong khi đại đa số già trẻ lớn bé đã hồ như chấp nhận dù có là khiên cưỡng, những trái cựa tới độ phi lý. Nhất là lớp trẻ sinh sau đẻ muộn, lớn lên cùng với sự nạo vét óc nảo đến tận cùng mọi thứ được gọi là lương tri. Buồn thay. Trong khi ở bên nầy đại dương, người xa quê cố gắng gìn giữ nết văn hóa diểm lệ đó thì bên kia đại dương, nơi quê cũ đám cầm quyền vẫn ra sức hủy diệt mọi thành tựu văn học của lớp người đi trước mà đã có lần họ gọi là văn hóa phản động... Mà nhất là đã cố tình làm thay đổi hẵn lối suy nghĩ nhân bản truyền thống bằng một thứ chủ nghĩa quái đản dựa trên duy vật sử quan, đấu tranh giai cấp với lối giáo dục nhồi sọ một chiều, đưa đến kết quả là tiêu hủy cả hồn tính dân tộc đã được nuôi dưởng từ thuở 18 đời vua Hùng dẫu có là huyền sử. Từ đó, lật ngược hẵn mọi cách thức đánh giá tốt xấu. Và cũng từ đó làm sai biệt hẵn mọi nấc thang giá trị. Còn làm sao tìm được những tấm lòng đồng điệu !

 

Hơn 40 năm qua, tất nhiên ở đó có quá nhiều thay đổi. Nhà lầu có cao hơn, cầu cống đường lộ có phẳng phiu hơn... Mà chữ nghĩa thì “lồi lõm lở loét” còn hơn đường xá thời buổi bị mấy ông du kích đắp mô gài mìn lúc còn giặc giã. Thử đọc một đoạn ngắn trong bài viết của ông Ngô Nhân Dụng mới vừa đăng trên Diễn Đàn Thế Kỷ hôm 23 tháng 9 năm 2022, ngay bon lúc nhà-nước đang lên “kế hoạch 8 năm” nhằm viện trợ tiếng Việt cho đồng bào ruột thịt! ̣ ̣( sic) “Theo ký giả Sen Nguyen, trên the South China Morning Post ở Hồng Kông ngày10 tháng Chín, 2022, một ông phó thủ tướng tên là Phạm Quang Hiêu (Hiếu, Hiệu, hoặc Hiểu, …), nói đã có một “kế hoạch 8 năm” nhằm viện trợ tiếng Việt cho đồng bào ruột thịt! Trong khi chờ đợi “kế hoạch 8 năm” được thi triển, bà con di cư tị nạn muốn nếm thử một chút ít “tiếng Việt Cộng” có thể tìm đọc ngay trên báo Nhân Dân, là Báo Nhân Dân ngày 19 tháng 9 năm 2022, có một bản tin về “tai nạn giao thông nghiêm trọng” hôm trước. Một chiếc “ô-tô tải” do một anh tên Triều lái đã tông vào một “xe mô-tô” do một anh khác lái chở theo một Việt kiều từ Mỹ về chơi.

 

Thay vì viết anh Triều “lái” chiếc xe, “Tiếng nói của Đảng, Nhà nước ...” đã viết rằng chiếc xe do anh “điều khiển lưu thông.” Người lái chiếc mô-tô cũng được mô tả là “điều khiển” chiếc xe gắn máy. Sau đó, chiếc ô-tô tải bị lật nhưng lại đụng vào một chiếc xe đạp do một “học sinh lớp 10 điều khiển.” Không nói “Lái xe,” xe hơi, xe bình bịch hay xe đạp, phải nói “điều khiển.” Thêm một chữ nữa: “va chạm.” Báo Nhân Dân viết tiếp, “Sau khi va chạm vào mô-tô,” chiếc xe tải “tiếp tục va chạm” vào chiếc xe đạp, chúng tôi in chữ nghiêng. Thông thường người Việt dùng hai chữ “va chạm” để tả hai vật hay hai người đụng chạm hoặc va nhau, một cách nhẹ nhàng. Nhưng trong báo Nhân Dân các “va chạm” đó làm chết hai người! Trên cùng trang nhất tờ báo này, thấy “vụ việc một du khách nước ngoài va chạm với đoàn xe lửa Lào Cai-Hà Nội,” may mắn thoát chết! Nhưng “Đoàn tàu … va chạm với du khách” đã “phải dừng lại giải quyết sự cố, tuyến đường … ùn tắc.” Tốt nhất, bà con ở nước ngoài, dù gặp cảnh “sự cố ùn tắc” cũng nên tránh không “va chạm” với chữ nghĩa của các ông cộng sản. Hai chữ “sự cố” cũng như chữ “sự kiện” được dùng tự do, thả dàn trên báo đài trong nước. Một tờ báo viết về cô ca sĩ: “Bà mẹ một con … trẻ trung, xinh đẹp như thiếu nữ đôi mươi tại sự kiện.” Tại “sự kiện?” Những “sự kiện” đó là cái gì!

 

Một bài khác viết về Nữ hoàng Elizabeth II, nói bà thích một nhãn hiệu đồng hồ nổi tiếng, bà “thường xuyên được bắt gặp đeo thương hiệu đồng hồ … đến các sự kiện xa hoa, … bà thậm chí còn cho mượn đồ của mình khi đi sự kiện.” Bà nữ hoàng “đi sự kiện.” Tức là bà đến dự một lễ lạc. Bà lại “được bắt gặp” đeo đồng hồ! Đây là những cách nói tiếng Việt mới lạ chưa từng thấy. Người ta dùng chữ“sự kiện” để dịch nguyên văn chữ “event” trong tiếng Anh, vì lười, không muốn tìm những tiếng Việt chính xác hơn!

 

Chữ “Event” hay “sự kiện” nói về nhiều thứ khác nhau. Có thể viết “sự kiện” thay vì lễ hội, tập họp, một buổi trình diễn, trưng bày nghệ thuật, một tổ chức, hội thảo, một trận đấu thể thao, một trường hợp, hoàn cảnh, nghi lễ, sự việc, vân vân. Những chữ sự cố, hay biến cố, nói về một chuyện đã xảy ra, chữ “cố” với ý nghĩa là đã xong rồi, cũng được thay thế bằng chữ “sự kiện.”

 

Nếu ông Phạm Quang Hiêu muốn viện trợ ngôn ngữ cho đồng bào ở nước ngoài, ông có thể gửi những chuyến máy bay chở 1,000 thùng chữ “điều khiển,” 1,000 thùng chữ “va chạm,” 15,000 thùng những chữ “điều khiển,” “sự kiện,” “sự cố,” vân vân, tặng cho bà con người Việt sống ở Paris, Los Angeles hoặc Melbourne. Họ sẽ mở mắt ra, thấy không cần dùng những chữ cổ lỗ như “lái xe,” “buổi họp” hay “bữa tiệc” nữa.

 

Nhưng báo Nhân Dân còn có thể cung cấp nhiều hơn những chữ lẻ tẻ như “sự kiện,” “va chạm” hoặc điều khiển.” Ông Hiêu có thể gói tặng bà con những đoạn văn dài đầy chữ nghĩa. Mời quý vị đọc thử mấy câu dưới đây (xin ngưng đọc ngay, nếu cảm thấy khó thở, chóng mặt, hoặc buồn nôn).

 

Đây là văn chương báo Nhân Dân: viết về “Công nghiệp văn hóa.”

 

“Công nghiệp văn hóa tạo ra nhiều cơ hội học tập mới cho người lao động, góp phần thu hẹp khoảng cách về trình độ dân trí giữa các vùng miền, nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân nói chung. ... Hệ thống các sản phẩm và dịch vụ văn hóa ngày càng đa dạng. Di sản văn hóa trở thành nguồn cung cấp nguyên liệu đầu vào phong phú cho nhiều ngành công nghiệp như âm nhạc, điện ảnh, trò chơi điện tử, từ đó giúp thiết lập lợi thế cạnh tranh, sự độc đáo và nhận diện thương hiệu cho những ngành này ở thị trường trong nước, cũng như thị trường khu vực và thế giới.”

 

Cảm tưởng đầu tiên là nó “Rất khó tiêu!”

 

Đọc hết cả đoạn trên cũng chưa hiểu “Công nghiệp văn hóa” là những thứ gì. “Thu hẹp khoảng cách về trình độ dân trí” là thế nào? “Hệ thống các sản phẩm và dịch vụ văn hóa” nghĩa là gì? Di sản văn hóa cung cấp “nguyên liệu đầu vào”… “cho nhiều ngành công nghiệp!” Nghe như kể chuyện một nhà máy xay lúa!

 

Đây là một căn bệnh thâm căn cố đế trong các chế độ cộng sản: Ăn to, nói lớn. Khoe khoang chữ nghĩa. Hô khẩu hiệu! Xác định lập trường! Không khác gì nhà giàu hợm hĩnh khoe của. Căn bệnh này không chỉ xuất hiện trên báo chí mà đã lan truyền trong cuộc sống hàng ngày của tất cả mọi người. Bên bờ hồ Hoàn Kiếm quý vị có thể thấy hai tấm bảng treo trên một cửa ra vào, viết giống hệt nhau, một cái treo ngoài đường, một cái ở trước cửa bên trong. Tấm bảng xanh lá cây viết bốn hàng chữ trắng, tất cả viết hoa, như thế này: CÔNG TY TNHH NHÀ NƯỚC MỘT THÀNH VIÊN MÔI TRƯỜNG ĐÔ THỊ XÍ NGHIỆP MÔI TRƯỜNG ĐÔ THỊ SỐ 2 NHÀ VỆ SINH CÔNG CỘNG – TOILET

ĐỊA CHỈ: SỐ 8 LÊ THÁI TỔ, HOÀN KIẾM, HÀ NỘI – ĐT : 043.8288072 – 043.9288508

 

Tất cả tấm bảng 41 chữ và số, cuối cùng, chỉ có một chữ mọi người cần biết, là “Toilet!” Người đi đường, các du khách chỉ cần đọc chữ “Toilet” hay “Toa Lét” là hiểu ngay! Không hiểu tại sao người ta phải đọc 25 chữ VIẾT HOA lòng thòng rồi mới được thấy chữ “Toilet!” Cũng không hiểu tại sao phải ghi cả địa chỉ cái toa lét này? Người di tìm toa lét có ai chọn một địa chỉ trước, đúng địa chỉ mới vào, hay không? Lại còn số điện thoại nữa! Có cần gọi điện thoại xin hẹn trước, giữ chỗ, mới được dùng toa lét hay không?

 

Người Việt Nam sống ở nước ngoài chắc không ai muốn dùng tiếng Việt theo đường lối nhiêu khê của Đảng! ”

 

Gì đi nữa thì cũng xin lỗi đã làm ai đó cười-ra-nước-mắt khi lỡ phải đọc thứ tiếng Việt-sau-khi-được-giải-phóng và đương thẳng đường tiến-lên-xả-hội-chủ-nghĩa. Từ chủ nước đến tôi tớ, kể cả đám bàn dân thiên hạ, sau mấy chục năm bị nhồi nhét đến no ứ thứ chủ nghĩa phi nhân đó, cứ mở miệng ra hay viết lách gì đó là ôi thôi chữ nghĩa cứ như bị trúng đạn AK, thịt thà xương xóc gì cũng tung tóe, lặt lìa lặt lọi. Danh từ, động từ, túc từ, nghĩa đen, nghĩa bóng, chữ tàu, chữ ta... gì gì cũng lộn tùng phèo như một đống thịt bầy nhầy... lỡ nhin thấy mà muốn ứa nước mắt. Ô hô ! Ai tai !

 

Rồi mốt mai đây, lỡ đầu thai trở lại làm dân nước Việt, hổng lẻ lớ ngớ như người-nước-ngoài vì sống trên quê hương mình mà cứ ú a ú ớ nhìn không ra chữ nghĩa quê mình.

 

Rồi hổng lẻ lại ... vượt biên lần nữa !

 

Thiệt là tình !!!

Buồn ơi, chào mi !!!

 

Cao Vị khanh

 

(*) cho tới giờ phút này, thứ tiếng Việt quái gở đó dường như đã trở thành thứ ngôn ngữ chính thức ở đó !!!!!!!!!!!!

________________________________

CVK_Tratvuot.jpg
cvk_xatronggangtac.JPG

Không biết tại sao tự dưng có lúc cả ba người đều ngừng nói. Ngọn nến đặt ở giữa bàn cũng thôi lắt lay làm mấy cái bóng trên tường im sựng lại.

 

Không khí nhủn ra, bứt rứt. Chỉ còn tiếng nhạc vặn nhỏ làm như thủ thỉ bên tai mà lại nghe xa như đến từ một cõi nào khác. Cái cõi đã mất trong tầm mắt mà lại còn nguyên trong trí tưởng chỉ vì bản nhạc là một sérénade đã có thời chia chung nhau một ý thích.

Bữa tiệc đang hào hứng. Mấy món ăn khéo nấu ngon miệng. Rượu chát cất giữ lâu năm quến khách không thua gì mùi nhân tình mới bén. Chủ luôn miệng mời mọc. Khách thân từ ba mươi năm trước, xa liền một lúc hơn hai mươi năm rồi bỗng dưng khi không mà gặp lại. Cho nên làm sao mà không chuyện trò hỏi han cho hả. Có biết bao nhiêu điều cần biết. Căn vặn đến không kịp trả lời. Vậy mà bỗng nhiên ngưng ngang sau câu hỏi của người chồng. Sao mày không cưới vợ. Câu hỏi bất chợt buột ra theo đà câu chuyện làm người khách bỗng buồn ngang xương. Cùng lúc nhạc chuyển sang mấy bản độc tấu trung hồ cầm. Âm thanh của mấy sợi giây tơ cọ nhau đến rát dạ. Có từng nỗi xót đau trong mỗi phiếm đàn. Anh ta nuốt vội ngụm rượu đang uống nửa chừng, đặt ly xuống rồi chắp hai tay chống càm nhìn vói ngang vai người đàn bà bức tranh của Modigliani vẻ mặt con gái với cái cổ cao như cổ hạc. Màu tươi mà dáng vẻ lại buồn. Một giây. Người thiếu phụ ngồi đối diện đang gắp cho chồng miếng chả chiên làm như có một chút bối rối, thoáng nhanh, chắc không ai biết ngoài nàng. Nàng cẩn thận để miếng cá vào chén, rồi buông đủa đứng lên làm như phải đi vào bếp. Mà thật sự nàng cũng không biết vào bếp để làm gì nữa. Nàng chỉ đứng dậy, đi vài bước như phải làm một cái gì vậy thôi. Ngoài bàn, đã nghe tiếng cười rất ấm của khách. Thì mày biết rồi tao đã thề sẽ ở vậy nuôi con suốt đời mà. Cái thằng lúc nào cũng giỡn. Tao hỏi thiệt chớ còn bà N. bà B. đâu hết rồi. Ai mà bằng mày đào hoa chi số, đàn bà con gái đeo như đĩa. Sao để cho rớt đâu hết mà hai chục năm rồi vẫn độc thân tại chỗ vậy. Nói vậy chớ đâu phải vậy mậy. Thương là một chuyện mà lấy nhau lại là chuyện khác... Hai người đàn ông, bạn cũ đã có thời như một cặp bài trùng, đun đẩy qua lại những câu nói đùa vô thưởng vô phạt. Người đàn bà vào đến bếp đứng trước tủ lạnh, mở cửa nhìn vào trong mà không biết mình tìm gì. Có một cái gì đó lộn xộn trong lòng như đống đồ ăn sắp đứng sắp nằm đầy nhóc trong tủ. Nàng đưa tay xốc xốc mớ trái cây chẳng mắc mớ gì giữa bữa ăn. Rồi như thấy mình vắng mặt không đúng lúc, nàng lên tiếng nói vọng ra . Anh M. ảnh có chịu cho ai lấy ảnh đâu. Ảnh né còn nhanh hơn chim cắt nữa đó. Ngoài phòng ăn hai người bạn cười lớn. Trong này, bỗng dưng người đàn bà khựng mình, nín thinh. Phải vậy không ? Phải ảnh né nhanh hơn chim cắt không. Không đâu nàng thấy mất vui. Có một cái gì đó, nặng như đá bỗng rớt ngay lồng ngực đè mất một nhịp thở. Phải vậy không, phải tại ảnh không ? Nàng bỏ ra nhìn hai người đàn ông cụng ly. Màu rượu đỏ bầm như màu áo huyết dụ nàng đang mặc. A. dang tay kéo vợ sát vào mình, đưa ly rượu. Uống chút đi em. Mừng thằng độc thân hai thế kỷ. M ngó ly rượu rồi ngước lên nhìn ngay vào mắt nàng. Tia nhìn dài như quấn lấy đuôi mắt đã chớm mỏi. Phải rồi mời bà uống mừng tánh lỳ lợm của tôi. Người đàn bà nhắp vội hớp rượu, lớp son môi rịn ướt trông ngon như nửa miếng mận hồng đào. Tự nhiên hai cặp mắt rời nhau, lẫn tránh mà không giấu kịp một chút nấn níu vừa dấy lên, chộn rộn đến không ngờ. Mà có phải mới mẻ gì đâu. Hơn hai mươi năm rồi. Sao trái tim nhớ dai vậy. Người chồng thì vô tình cứ huyên thuyên chuyện trời trăng mây nước. Người vợ càng lúc càng như con sâu nhỏ, chỉ muốn rút mình quấn kín trong chiếc kén kỷ niệm. Người khách thì đã buồn mà cứ giả bộ làm vui. Bữa tiệc hội ngộ kéo dài nhùn nhằng không chịu tàn. Mọi người còn quấn quýt với mớ hình ảnh ố vàng thất lạc lâu ngày mới lục lại được. Nó nhắc họ nhớ tới người này cảnh nọ, khi thì đông đủ chùm nhum tại một góc sân trường, lúc giận hờn thui thủi ở một góc phố khuất sau hàng me già sụ, giữa một thị trấn ven biển hay có những cơn giông đầu hạ. Hồi đó cả bọn có hết thảy năm người. Ba cậu hai cô. Con gái mười bảy mười tám mỏng mảnh như lá cỏ. Đẹp trong veo như mấy hạt sương sớm. Còn mấy đứa con trai thì cứ lính qua lính quýnh, chộn rộn như mấy con chim trống gù mái. Mặc kệ cuộc sống của người lớn phiền toái ở chung quanh, mặc kệ chiến tranh gầm gừ hù dọa, cả bọn vui nông nổi như bầy sẻ buổi sáng. Mà cũng ngộ, ở cái thị trấn đầy lời ong tiếng ve đó mà có một bọn trai gái được dịp kết bạn khắn khít thì phải kể là hiếm có. Phải nói là hồi đó học trò trai gái rất khó quen nhau. Vậy mà không biết mấy ông thầy năm đó nổi hứng thế nào mà lại bỏ về quê ăn tết sớm để đám học trò khác lớp côi cút không người hướng dẩn họp lại tự động tổ chức tiệc tất niên rầm rộ. Mấy anh trai lớn sức vóc lo chạy vòng ngoài. Con gái thì lo bếp núc. Rồi lại còn tập ca tập hát. Hết dợt Ly rượu mừng thì tới Nếu xuân này vắng anh. Mấy anh đàn mấy em hát. Nhạc vui nhạc buồn gì cũng bè nhau mà hát. Vậy mà vui đáo để. Vui nhất là sau cái tết đó, cả bọn quến nhau như hoa với bướm. Rồi cũng không biết lọc lừa ra sao mà thành nhóm riêng năm đứa. M. A. và S., ba đứa con trai tốt số, tướng tá dễ coi, học hành cũng tạm được. Còn hai cô gái, T. và Ch. vẫn nổi tiếng là hoa khôi của mấy ngôi trường tỉnh. Học hành chơi đùa gì cũng thành nhóm, xúm xa xúm xít như một chùm mận sai trái. Ở trong trường rồi ra luôn ngoài phố. Hồi đó, trời biển phố xá gì cũng gom lại có một căn gác nhỏ, khuất sau mấy hàng dương lả ngọn, nơi cả bọn hay tụ lại những ngày nghỉ học. Đàn ca, trửng giỡn, chọc ghẹo ... vui không kể hết. Ngôi nhà có căn gác lẻ ở cuối xóm biển, ngó thẳng ra một góc vịnh xanh lơ, đứng biệt lập nên mặc tình mà vui đùa, hát hò chẳng ai dòm ngó. Ở đó, những đêm rằm, cả bọn tụ lại nấu chè đậu xanh, bày ra lan can bắt chước thói lãng mạn của mấy nghệ sĩ thưởng trăng. M. ôm đàn guitar gảy tới gảy lui mấy đoạn Romance mới vừa học lóm được. Rồi có khi Ch. bắt chước Hồng Vân ngâm thơ Hàn Mặc Tử. Giọng Ch. nghe hay lắm. Vừa non vừa trữ tình. Có khi ngâm xong lại khóc thút thít. Cả bọn xúm nhau lại dỗ. Chút sau đã lại cười toe toét. Rồi cũng hết cả nồi chè đậu. Căn gác đi về rộn ràng tới nỗi có lúc cả đám gọi là “ lồng chim”. Tên gọi như một cõi bình yên ai mơ đâu trong vô thức. Ai nấy tưởng như đời cứ mãi là cái lồng chim nhỏ xíu và hiền lành đó. Nhưng rồi cả bọn mỗi ngày mỗi lớn lên một chút để thấy cái lồng đó nhỏ lại một chút. Cho đến một lúc căn gác nhỏ không còn đủ sức chứa những gió bão trong lòng người nữa. Năm cuối trung học S. bỏ đi mất biệt. Bạn bè bàn tán S. bị dụ dỗ theo phía bên kia vì gia đình vốn ở trong vùng xôi đậu. Cả bọn ở lại buồn xo. Mới được đâu chừng nửa năm đã nghe tin S. chết, xác đeo vắt vẻo trên rào kẻm gai của một đồn binh ở Miệt Thứ. Cả đám như bị mất hồn. Không biết thương hay giận. Chỉ thấy bàng hoàng như mất một cái gì không đáng mất. Có điều sau vụ đó mọi người thay đổi nhiều lắm. Cuộc sống làm như mất hết vẻ trơn tru dễ chịu. Nó rút ngắn lại thời hoa mộng của họ, đột ngột thảy họ vào cái thế giới rối beng của người lớn. Họ chưng hửng khám phá ra cái trường đời nhiễu nhương ở bên ngoài trường học. Và nhất là nỗi cô đơn của lớp trẻ già trước tuổi. Khám phá đó kéo họ xích lại gần nhau hơn. Nhưng là một gần gũi không còn vô tư nữa. Không còn mối liên hệ trong sáng, sòng phẳng và suông sẻ như cái thời tiết gom lại chỉ có hai mùa mưa nắng. Nó trở thành gút mắc, rối rắm, khó hiểu như chính niềm bí ẩn của con tim, cái con tim nghịch ngợm đi xúi họ yêu thương ngược ngạo. Dĩ nhiên đâu có ai sắp đặt được gì đâu. A. thằng con nhà giàu, học hành giỏi dắn đem lòng yêu thương Ch., Ch. không yêu lại mà đi yêu M., cái đứa lang bang nhất. Mà M. có yêu lại Ch. hay không thì không biết, chỉ thấy đối với ai hắn cũng ân cần như chỉ có hắn là người tình chăm chỉ nhất. Còn lại có T. là hiền như ni cô, lúc nào cũng lo nhường nhịn, chăm sóc hết thảy mọi người. Cái mối tình tay ba nhùng nhằng rồi cũng chẳng đi tới đâu ngoài cái chuyện cắn đắng, hờn mát, tốn thêm tiền mua giấy pelure xanh, pelure tím. Có đôi khi, pha thêm chút nước mắt ngắn dài. Nhưng mà thuở đó, những năm sáu mươi bảy mươi ở tỉnh nhỏ, học trò yêu nhau chỉ để lấy tiếng, chớ họ vẫn còn lành lắm. Lành đến nỗi cầm tay nhau còn chưa dám chớ đừng nói đến nọ kia. Tuy nhiên mấy cái chuyện lục đục cũng làm cho cả bọn tốn nhiều thì giờ, T. cứ phải đóng vai bà Tùng Long đi gở rối tơ lòng cho hết người này đến người khác. Vậy rồi trong khi cuộc chạy đuổi nhau chưa kịp đến mức ăn thua thì A. được cha mẹ lo cho đi Thụy Sĩ du học ngay khi chiến cuộc đang nổ lớn. Trong khi còn đang lo thủ tục xuất ngoại, A. đòi cha mẹ đến dạm hỏi Ch. với lời hứa sẽ lo cho cả Ch. đi theo. Bởi vậy mà dưới áp lực gia đình và chắc cũng có phần giận lẫy, Ch. cứ xỏ tay đeo nhẩn đính hôn mà lòng thì cứ băn khoăn với hình bóng của M. Giữa bữa tiệc rình rang, Ch. ứa nước mắt khi nghe M. lăng xăng chúc tụng. Chuyện tưởng vậy là yên, mối tình non dại coi như nhưn nhị làm duyên cho tuổi học trò. Rồi sẽ quên thôi. A. đi xa, còn lại ba đứa bạn cũ kéo lên Sài gòn vào đại học. Ai dè chính trong giai đoạn xa nhà đi ở trọ này, do sự qua lại giúp đỡ lẩn nhau, Ch. mới biết rằng M. cũng yêu mình nhưng lại bậm gan làm mặt lạnh tại vì tánh khí kiêu kỳ. Căn dặn mới biết anh chàng như gà con háu đá, nghe A. than thở bèn lên mặt anh hùng. Biết vậy, Ch. lại càng yêu M. nhiều hơn nữa. Khổ nỗi, vừa yêu M. Ch. vừa tiếp tục nhận thư của A. từ Thụy Sĩ gởi về, thư nào cũng sụt sùi thương nhớ. Tội nghiệp cho Ch., trái tim thì nhỏ xíu mà chuyện đời thì gay cấn còn hơn tuồng cải lương. Nàng khổ sở không thua gì mấy cô đào thương bi lụy bị dằn co bên nghĩa bên tình. M. cũng vậy. Không gặp thì nhớ mà lại gần thì bị mặc cảm phạm tội. Mới đôi mươi mà tình như thuốc độc. Hẹn hò thì vui mà chừng về thì ray rứt, hội họp bạn bè thì cứ phải giả bộ ngó lơ. Khó nhất là mỗi khi mọi người chọc ghẹo nhắc nhở đến người bạn ở xa, cả hai lại cứ phải đẩy đưa cho qua chuyện mà trong bụng thì rối như tơ vò. Mà thói đời cũng khổ, tình càng cay thì yêu thương càng mặn. Đã có lần khi nhận được giấy tờ xuắt ngoại, Ch. bỏ về nhà khóc lóc với mẹ cha đòi từ hôn. Nhưng mà đâu phải dễ, chuyện hôn nhân do người lớn cam kết chớ đâu phải chuyện con nít mà muốn thay đổi lúc nào cũng được. Vả lại ai mà không muốn cho con cái được sung sướng nhất là được sang ở tuốt bên tây khỏi còn lo giặc giã. Bởi vậy mà cả nhà bu lại khuyên dỗ ỉ ôi tới hết lời, thiếu điều mẹ nàng đòi tự vận mới yên. Đêm ba mươi tết năm đó, Ch. trốn nhà đến gặp M. tại căn gác cũ. Hai người ôm nhau khóc mùi mẩn. Gió từ biển thổi luồn qua phố xá đẩy mấy hàng dương lật lá kêu đau. Trong nhà, Ch. tủi thân muốn làm liều. Nàng đòi M. đi mua thuốc chuộc. M. rối trí tết nhứt đâu có tiệm nào mở cửa. Đến một lúc bí lối, Ch. nghĩ đến chuyện hiến thân cho người tình. Con gái gan lắm, cứ sợ lỡ mất nhau rồi sẽ hối tiếc như cô Kiều. Nàng ôm M. mê đắm, áo bà ba trệch nút, tóc mai ướt rịn lẩy bẩy theo hơi thở gấp. Đến chừng đó M. lại thấy hoảng. Bóng dáng cụ Khổng không biết ở đâu mà hiện về đứng ngay đầu giường. Thêm nữa, M. thấy thương Ch. quá đỗi, thương hơn cả thương mình, cứ sợ mai kia mốt nọ Ch. khó ăn khó nói với chồng. Bề gì cũng chỗ thân tình ai mà nỡ muối mặt làm vậy cho được. M. sực tỉnh đưa tay gài lại nút áo cho Ch., vỗ về nàng như em nhỏ. Gần đến giao thừa, M. đưa Ch. về ngang qua trường cũ. Hai người không ai mở miệng, lòng im như mấy lá cỏ ngậm sương.

 

Ra giêng, Ch. lên máy bay đi Thụy Sĩ. M. có đưa theo tới phi trường. Nhưng nửa chừng thì bỏ về. Vậy mà lại hay. Bởi vì M. biết chắc lát nữa Ch. sẽ khóc. Mà không chừng M. cũng sẽ khóc theo. Chẳng thà về khóc một mình, ở đâu cũng được miễn không ai biết. Buổi tối đó, trong một góc quán ở cuối đường Hiền Vương, M. ngồi gọi bia uống tới khuya. Càng uống, nước mắt càng chảy ra trộn lộn với bọt bia đến chát ngắt. Chừng say, cứ thấy Ch. về cười nói chơi vơi.

 

Gần năm sau thì T. bỏ đi tu như đã nguyện từ khi mẹ bị bạo bệnh. Còn lại một mình giữa thành phố với thỉnh thoảng những lá thư xa kể chuyện xứ người không đủ làm vui, M. sống lủi thủi ở Sài gòn buồn lắm. Có đôi khi muốn về quê lại không dám sợ thấy kỷ niệm mà buồn thêm. Rồi theo hạn tuổi động viên, M. bị gọi đi Thủ Đức. Suốt thời gian ở quân trường, có mấy lần nhận thư riêng của Ch. nhắc gần nhắc xa chuyện cũ, M. nín luôn. Năm 71, A. và Ch. theo đoàn sinh viên du học về thăm quê thì M. kẹt chuyện lính tráng. Hành quân liên miên đâu tận miền đông, có được nhắn mà không phép về. Cuối năm sau nữa, A. tốt nghiệp cùng lúc Ch. sinh con gái đầu lòng mắt sâu như mắt mẹ. Hình chụp hai mẹ con ngồi trước lò sưởi có A. đứng dựa bên, hạnh phúc đầy vun trên cặp má đỏ hồng. Tấm hình đó M. còn giữ suốt mấy năm đầu đi tù cải tạo cho đến khi bị chuyển trại nhiều lần quá rồi mất luôn. Cũng như rồi mất luôn liên lạc với gần hết ruột rà thân thíết. M. đi tù suốt năm năm. Chừng về cha mẹ chết hết không kịp thấy mặt ai, phải bỏ theo người quen ra Phú Quốc làm than. Thỉnh thoảng theo ghe vào đất liền ghé chùa hỏi thăm T. tin tức bạn bè cũng không biết ai còn ai mất. Cuộc đổi đời dữ dội quá đến nỗi mạnh ai nấy lo thân, bạn kề bên còn tứ tán nói gì đến bạn đi quá xa. Vậy rồi quá khứ coi như xóa bỏ. Mọi người như đầu thai kiếp khác, sạch trơn kỷ niệm. Mãi gần cuối năm 81, M. mới vượt biên được nhờ T. móc nối với đám chủ ghe hay đi lễ chùa. Bữa cuối, T. ngồi khâu đôi khoen vàng giữ từ thời con gái lộn giấu trong bâu áo, gói thêm cái khăn bông cũ cho M. căn dặn đừng quên quấn cổ khi ra biển lỡ trời trở gió. Nàng nói mà không nhìn lên. Sao bỗng nhiên M. cảm thấy có điều gì lấn cấn trong giọng nói ra điệu thản nhiên. Một chút vậy thôi rồi M. không dám nghĩ tiếp nữa. Cả hai đứng thật lâu ngoài hiên chùa đến khi cây ngọc lan nở khuya thơm ngát, tấm áo vạt hò rộng thùng thình mà như không giấu hết được một điều muốn giấu. Trước khi khuất bóng vào hậu liêu T. còn ngoái lại dặn M. rán tìm A. và Ch. để có khi còn nhờ vả. Nói vậy chớ dễ gì gặp lại ai. Bứt khỏi cái nôi rồi thì cứ như bóng chim tăm cá vậy thôi. Lâu lâu nhận được thư T. nhắc nhở, thúc hối làm như trái đất này nhỏ như cái chợ chồm hổm bên nhà, hể ra đường hú mấy tiếng là tụ lại hết. Vả lại sao M. thấy có gì bất tiện. Gặp lại để làm chi khi hồn xác mọi người chắc gì còn nguyên được như xưa. M. cũng có nghe kể đôi ba chuyện ngỡ ngàng về những người đi trước với đi sau lắm khi cũng không suông sẻ gì cho lắm, tự nhiên rồi thành ra nhiều giới lắm điều. Thôi thì phần ai nấy chịu, cho yên. Có đôi khi buồn buồn, M. nghĩ vậy mà hay hơn. Cho nên dù có nghe phong phanh vợ chồng A. dọn sang sống ở Mỹ, đâu miệt Cali, mà chưa bao giờ M. có ý kiếm tìm. Cứ nghĩ tới cảnh mỗi người mỗi phận, gặp nhau rồi khó ăn khó nói, thêm phiền. Hết thư này rồi thư khác. M. cứ nấn ná, hẹn lần hẹn lữa với T. Lật bật rồi ngày tháng qua tưởng như chẳng còn gì để nấn nuối. Mãi cho đến gần đây, M. nhận được thư T. cho hay mắc bệnh lao, sức đã yếu lắm. Bỗng dưng M. thấy xót ruột như đã làm điều gì không phải với T. Chẳng phải có lần chính M. đã hứa sẽ tìm gom lại những thân tình cũ cho đỡ hao hớt tấm lòng đôn hậu đó sao. Còn đang lần khần thì năm ngoái A. và Ch. đi du lịch ra vùng biển phía đông bắc. Chừng xuống tàu đi xem cá voi thì gặp M. đang làm thủy thủ trên tàu. Đầu thu, biển động nhẹ cũng đủ làm Ch. ngầy ngật không được tỉnh táo để biết vui hay buồn. Nàng ngồi dã dượi trong khoang, nhìn ra ngoài thấy hai người bạn trai cũ nói năng chỉ chỏ huyên thuyên rồi ngủ quên vì ngấm thuốc say sóng. Khi cặp bến, nghe chồng khẩn khoản mời M. sang chơi, Ch. đã thấy bồn chồn nhưng mệt lắm phải rời tàu leo vội lên xe buýt chỉ vừa kịp thắc mắc sao thấy M. gầy quá, như chiếc bóng gãy ngang. Thốt nhiên Ch. ngoái nhìn mình trên cửa kiến. Một ý nghĩ gì đó thoáng qua bỗng làm nàng thấy nao nao.

 

Sau nửa năm cả bọn gặp lại nhau ở nhà A. Khu nhà mới sáng hực dưới nắng Cali. Bông trúc đào đương mùa nở đầy cả góc phố. Lúc nãy khi xuống taxi, M. bỗng nhớ mấy câu thơ phổ nhạc của người thi sĩ tự vận khi còn rất trẻ có nhắc đến mấy bông trúc đào rơi lạc nhà ai mà thấy ngẩn ngơ. Ngó hoa rụng dưới chân còn nguyên cánh đỏ sao bỗng nhiên M. muốn quay về. Nhưng rồi vợ chồng bạn đã vồn vã ngoắc kêu trước cửa. M. lỡ bộ đành theo vào nhà. Ăn cơm uống rượu, chuyện trò suốt mấy tiếng đồng hồ mà lòng cứ lưng lửng bởi vì mọi người ngồi đối diện nhau mà sao thấy xa lắc xa lơ. Nhắc chuyện ai đâu thì ra rả mà kể tới chuyện mình thì cứ ngoắc ngéo lẫn quanh. A. thì cạn sớt như tự bao giờ, nói cười ha hả, đùa bạn rồi ghẹo vợ. Có lúc còn đòi góp tiền cho M. về Việt Nam cưới quách T. cho yên bề.

 

Bà T. Bả tu làm chi để cho lẻ bạn. Tao biết bả thương mày lắm. Tại mày lung tung quá bả sợ chớ gì. Có lần bả còn hăm với tao ...

 

Đến chừng Ch. gắt lên mới thôi. M. sượng sùng, im lặng ngó bàn ăn còn ngổn ngang chén dĩa tự dưng thấy bất an. Chút tình bạn cũ nồng nã tự nãy giờ làm như nguội đi một chút. Có một cái gì đó khi không nổi lên chắn ngang làm e dè một câu nói đùa, làm đứt ngang nửa chừng một câu muốn hỏi. Ai nấy như bỗng thấy rụt rè, dò dẫm như sợ làm sút cái gút mới nối lại được. Mà khổ nỗi mấy mối cột lăng nhăng hồi trước tưởng vậy mà có tháo ra hết được đâu. Nó vắt lơ lửng đâu đó mà hể có dịp là quấn siết lại, đau nhói. Người con gái đã có thời yêu say đắm bỗng chập chờn hồi sinh trong lòng người đàn bà chiều nay. Nàng ngồi đó, trước mặt chồng và người tình cũ, đã có lúc thật sự thấy lao đao. Khuôn mặt cũ lâu lắm nàng chỉ nhớ mơ hồ còn y nguyên vết sẹo dưới đuôi con mắt trái, cái miệng cười nhếch mép rất bất cần đời bây giờ lẫn thêm vẻ khinh bạc. Và hơn hết, mái tóc hồi xưa mịn bao nhiêu bây giờ ngó khô như nắm rạ cũng như làn da khét nắng mốc sương bỗng làm nàng bồi hồi như chính mình gây ra nông nổi. Câu nói đùa lúc nãy như đổ tội cho người khác làm nàng thấy chạnh lòng. Khi hai người xa nhau, hai người còn yêu nhau lắm. Áp lực của gia đình hay áp lực của chính lòng nàng đã chọn lựa. Hình ảnh cùa một tương lai bảo đảm hay hình ảnh của ngày tháng lêu bêu đã làm sự so sánh giùm nàng. Nàng không muốn suy nghĩ nữa mà đột nhiên chỉ muốn khóc. Khóc thành tiếng. Khóc rõ to cho đã nư những hờn tủi từ bao lâu đã bị dìm khuất dưới mấy lượt tiềm thức. Mặt người chồng trắng trẻo, phởn phơ da thịt. Mặt người tình khô nám, cằn cỗi. Rồi mặt bạn bè xưa, kẻ chết, người thất lạc từ mấy hồi kể lể bỗng hiện về chập chùng ngồi quanh bàn tiệc, cùng nàng. Ngọn nến thắp làm duyên giữa bàn soi mói từng mặt người, leo lét. Người thân, người sơ nhưng ai nấy đều mang chung một vẻ chịu đựng, nhẫn nhục đến tội nghiệp. Đến một lúc tất cả như gom lại lấp ló sau mấy lớp nhăn trên khuôn mặt người tình cũ. Trong loáng thoáng hoang mang sao Ch. muốn được một lần hôn lên từng nếp nhăn đó như hôn lên chính nỗi đau đớn, niềm cay đắng mà bạn bè nàng, anh em nàng đã chịu đựng suốt cuộc bể dâu đó. Nàng bỏ nước đi đã lâu quá, nàng không có ở đó làm sao biết được thế nào, chuyện trần ai. Ch. cảm thấy có một nỗi ân hận nào lạ lắm như mấy vết rạn trên một món đồ cỗ cứ lan ra hoài mà không cầm lại được. Cũng giống như trái tim nàng vậy thôi, đã có dấu nứt, bề gì cũng phải vở ra một lần cho xong. Hai người đàn ông ngồi trước mặt như hai hình nhân trù ếm chẻ hai tình nàng ra mà giành giựt. Nàng ở giữa long đong, lòng lao đao như bèo giạt. Dĩ nhiên còn có chọn lựa nào đâu, nhưng dễ gì sòng phẳng cho đành. Nàng có bớt thương chồng đâu, hai mươi mấy năm tình nghĩa chớ có vừa giỏi gì, vậy mà sao nàng vẫn muốn ngã đầu một lần lên vai người tình cũ mà khóc. Nước mắt này đề giải oan cho mối tình chết yểu của hai người. Mấy hớp rượu chát làm căng hai gò má, hơi rượu rướm cay quanh viền mắt, con tim chuếnh choáng nhìn ra hai mặt người nhập nhòe như một. Dẫu sao cũng cho tôi được chia xẻ một chút, nỗi đau muôn vàn đó. Nữ tính mênh mông trong lòng người đàn bà bất chợt trổi dậy dổ nàng ngó lại chỗ thiệt thòi. Ch. hơi chồm người tới, môi run. Vừa lúc A. lên tiếng, giọng mơn man như kéo vợ về phía mình. Sao vậy em, sao mặt mày xanh lét vậy. Bộ trúng gió hả ? Nói rồi cười mơn vừa đưa tay xoa xoa vai vợ. Ch. giựt mình như cắn phạm trái cấm, đưa mắt ngó A. rồi ngó M. như muốn phân trần. Mà đâu có ai để ý. Cả hai còn đang bận bịu với ly rượu mạnh A. vừa mới rót. Phải có cognac mới kết đẹp bữa nay nhen mậy. A. nói rồi đưa ly lên, giọng bắt đầu lè nhè. Chất rượu mạnh màu hổ phách, sóng sánh theo bàn tay lắc lắc của A. Hai người đàn ông bưng ly uống ực một hơi như dẫu sao cũng bằng lòng lắm cuộc tái ngộ này. Bề gì cũng may tụi mình còn gặp lại. Tao tưởng đã ngàn thu vĩnh biệt rồi chớ. T. ở bển sẽ mừng lắm biết tụi mình nhậu nhẹt bữa nay. M. nói một hơi như cố tình làm cho đêm vui trở lại. Nhưng có được đâu. Bởi vì Ch. thấy rõ trong mắt nhìn của M. như giấu đầy bụi nước. Lớp bụi ẩm hao hao sương khói cũ vừa dấy lên đã lây mờ sang cả mắt Ch. Chỉ có A. là không thấy vì đã lảo đảo bỏ vào phòng ngủ sau khi vỗ vỗ vai M. như thể xin lỗi. Còn lại đó, hai người tình cũ ngồi đối diện qua chiếc bàn rộng thênh thang. Ch. muốn đứng dậy dọn dẹp nhưng không biết nghĩ sao mà ngồi lại. M. muốn bỏ ra ngoài đốt điếu thuốc nhưng rồi cũng không nhúc nhích. Có một cái gì đó như dán dính họ xuống ghế, một chút hơi hướm của hè Lê Lợi, của hành lang Eden, của tàng lá me Tự Do hai đứa che nhau đụt mưa mà cứ sợ người ta bắt gặp ... Còn nữa, xa hơn một chút, còn hơi hướm của bực thạch ngồi ven góc biển, của ngôi trường trung học trống gió làm vạt áo dài cứ lính quýnh qua sân, còn căn gác như cái lồng nhỏ xíu của bầy chim chưa xổ cánh, còn đêm giao thừa toan tính trao thân, còn tiếng khóc tiếng cười của một thời mới lớn ... Giữa hai người, cách một góc bàn mà sát đầy kỷ niệm. Giữa hai người là một khoảng trống trắc trở mà thật ra chỉ bằng một vói tay. Cái vói tay ngắn ngủn trong lòng mà ngoài mặt thì xa lắm, xa đến không có tay nào vói tới. Hai người ngồi lại đó, hồn loay hoay vơ chụp những hình không bóng ảo, cũng đành. Sau cùng, Ch. lên tiếng, giọng lạ như không phải của nàng. Sao anh không ở lại đây đêm nay. Anh A. đã dọn sẵn phòng cho anh. Về khách sạn có một mình. Tự nhiên M. muốn nói một câu hờn mát mà không hiểu sao lại xoay ra từ chối thật điềm đạm. Về đằng ấy để sáng ra phi trường sớm cho tiện. Như vầy đã quá đủ. Thấy A. thành công, Ch. hạnh phúc tôi mừng lắm. Dẫu sao thư cho T. tôi đã có thêm điều vui để kể. Bọn mình ít nữa cũng còn vớt vát được chút gì sau lần mất mát qua lớn ...

 

Đêm đó khi Ch. tiễn M. ra cổng, hai người đều biết không chừng là lần cuối. Cả hai không ai muốn xô nhau vào chỗ không phải. Hồi nãy, trong lặng thinh hai người đã nói với nhau hết mọi điều cần nói. Kẻ cả nụ hôn muộn màng, rất muộn màng mà người cho và người nhận chưa ai hay biết cũng đã in dấu lại trong nắm tay siết chặt trước khi quay lưng. Không ai chịu làm kẻ phản bội với một quá khứ còn đẹp nguyên si. Cho nên không ai hẹn ngày gặp lại.

 

Lên taxi đi rồi, chừng vòng ngang bờ biển, M. đòi ngừng rồi xuống thả bộ dọc theo bãi vắng. Gió đêm trở lạnh. M. kéo cao cổ áo, đốt điếu thuốc ngó lung ra xa. Trời biển gì cũng tối mịt. Tiếng sóng kêu rì rầm, đều đặn như không biết nãn. Bỗng dưng M. nghĩ tới S. đã chết, tới A. đang ngủ, tới T. bên ấy mới thức sửa soạn tụng thời kinh sớm, nhất là tới Ch. giờ này chắc còn thao thức. Bỗng thấy cuộc đời giống hệt mấy lượn sóng đêm cứ vỗ hoài vỗ hủy lên bờ mà vẫn thấy dập dềnh như đứng yên một chỗ. Cũng như hết thảy mọi người, bạn bè xưa cũ đó, cứ tưởng đã xa như trời xa biển mà sao còn đó, còn gần hơn cả tấc gang.

 

Người ta có xa lạc gì đâu !

 

Cao Vị khanh

Rồi, hai mươi mấy năm sau ...

_________________________________________

CVK_Hasta.jpg
CVK_Kedaovong.JPG

Chiều tháng tư về qua sông Cổ Chiên

 

Gió quậy tư bề sóng nhọn hoắc

Thuyền quay như lá cuối mùa rơi

Người qua sông muộn tay ghìm chặt

Vực trống chìm sâu đến rụng rời

 

Nước chảy hung hăng lở sạt bờ

Tưởng ngàn vó ngựa sải qua mau

Người về từ cõi đầy xương sọ

Lòng bể trăm chiều miểng cứa đau

 

Nước vẫn tuôn tuôn, sầu cuộn cuộn

Ngó lục bình trôi tưởng rã hàng

Người xưa có đợi ? Chờ có muộn ?

Mà cứ trông chừng một bóng sang

 

Thuở nhỏ qua sông ý đã liều

Thách trời, kiêu ngạo cả hư vô

Hai mươi năm lẻ về vội vã

Nước mất, đường quê rặt bóng mồ

 

Gió đẩy thuyền đi, hận quá giang

Cồn xa bỗng lạnh rợn âm quen

Chiêng trống thời xưa gào xung trận

Trách kẻ đời nay để phận hèn

 

 CAO VỊ KHANH _____________

CVK_Paris.JPG

Khi về rồi, tôi mới phát giác ra một điều kỳ diệu. Tôi yêu em nhiều hơn tôi tưởng. Tôi mà bản chất kiêu ngạo và phóng đãng từ khi còn rất trẻ, lại bỏ dạ yêu em nhiều hơn cả tôi yêu tôi. Vậy sao. 

Tôi yêu một người đàn bà trẻ hơn tôi cả một vòng quay của lịch số. Tôi yêu một người đàn bà non dại hơn tôi cả một trang lịch sử tang thương. Và yêu nhiều hơn cả cái thói quen hư hỏng của tôi, coi yêu thương trai gái là một thứ trò đùa, giỡn hớt với lề thói của xả hội. 

Vậy sao. Tôi mà tình yêu được coi là những vòng nguyệt quế để khoác lên những chiến tích trên tình trường. 

Vậy mà lần này, tình yêu em đã cải hóa lòng tôi. Sao lạ vậy em. Làm sao tôi giải thích được. Ờ có những điều kỳ diệu mà lặn lội gần suốt một đời tôi có lần nào vấp phải đâu em. 

 

Buổi sáng đó, mùa thu chỉ mới chớm vàng đâu đây, ở bên này một khung cửa hẹp, tôi nhìn thấy em lên xe ra phi trường. Vóc em nhỏ nhắn, nhẫn nhịn. Có một thoáng tôi thấy em nhìn lên. Em nhìn lên, nhưng tôi biết em chỉ thấy một màn cửa lay động. Làm sao thấy nhau khi sương đêm chưa kịp tan. Và lòng người quanh em rào cản. Vậy rồi, chiếc bus chở du khách chạy khuất sau một ngã rẽ. Tôi đứng sững. Và mơ hồ, một giọt nước mắt ứa nhanh. 

Vậy rồi, em xa tôi. Em xa tôi như tự đã bao giờ. Em xa tôi như cái vận số đã xô tôi ra khỏi quê hương mình, nơi chốn mà tôi yêu thương biết mấy. 

 

Khi về rồi, ở bên nây một lằn ranh sông nước, tôi mới khám phá ra một điều lạ thường. Trái tim già cỗi của tôi sao bỗng dưng đập lại nhịp rộn ràng y như thời mới lớn, y như lần đầu xáo động trước những cợt đùa của thứ tình cảm còn rất mong manh. Không, hơn vậy nữa. Tim tôi trẻ lại mà hồn tôi chín muồi thêm bao nhiêu đằm thắm của ân tình em mang đến. Nó ngọt ngào như môi hôn vụn trộm, nó nhẹ tênh như ve vuốt mơ hồ mà mặn mà như giọt nước mắt em rơi đêm đầu tiên gặp lại. Cái cảm giác sương khói cặn lại lòng tôi như những lời vỗ về thầm lặng, thấm vào tim tôi rồi len qua bao nhiêu ngỏ ngách của thể xác và tâm trí như để nuôi nấng một sức sống sắp tàn. Tôi nhớ em. Ôi tôi nhớ em. 

Vậy đó em. Thứ tình yêu muộn màng em hiến tặng đã khiến tôi từ một kẻ đã tự nép mình đứng bên lề cuộc sống bỗng dưng rộn lên những kêu đòi trở lại. Khổ cho tôi, tội cho em, tôi còn có cái quyền lực đó đâu em.

Vậy sao mình cứ lại thiết tha, gượng nhẹ từng sợi tơ đã mắc míu đâu tự một thuở nào. Thuở nào em hả ?

Có phải từ hơn ba mươi năm trước, sau cơn thất tán bể dâu. Em chạy chết. Tôi chạy chết. Qua sông qua núi.  Qua trời qua biển. Qua bao nhiêu tang thương. Chạy chết như không còn đâu là đất sống. Và em và tôi, như những nhúm bọt bèo trôi dạt, lặng chìm không để sót chút tăm hơi. Cơ duyên nào cho chúng ta tìm lại nhau, mơ hồ như những tín hiệu truyền qua sóng điện. Chút thăm hỏi vu vơ. Mấy lời chia sớt mưa nắng. Khi biết tôi đã lập gia đình, tự dưng rồi im bặt. Mấy giây ? Mấy phút ? Rồi tiếng nói vui trở lại không kềm giữ. Em yên tâm. Vậy thôi. Rồi bắt quàng qua những quen biết cũ. Từ đó, ở hai đầu một lục địa mênh mông, nhắc nhở một viên thuốc cảm khi trái gió trở trời, kể lể một kỷ niệm mơ hồ về một thời có hoa có bướm ... Trong cái cõi không gian mịt mùng đó, ở đâu đó, trước khi gặp lại, từ nhiều năm trước, em thiếu nữ trở thành thiếu phụ giữa bao nhiêu sầu tủi. Vậy mà rồi vẫn chung thủy cùng tôi những nhắn hỏi, đều đặn như thời tiết đổi mùa, hết hạ sang thu ... Dòng đời mịt mù xoay không trở lại. Em xa xôi vẫn mãi một giọng nói thiết tha, hiền hòa gởi gắm những hỏi han, nhắc nhở ... nhất là những vỗ về an ủi cho những nhục nhằn tôi đã gánh chịu từ cuộc đổi đời năm ấy. Em đâu đó, bất kể sớm hôm mưa nắng, vẫn nguyên cái giọng ân cần và đều đặn, có một chút người lạ và một chút người thân. Phải từ đó không em. Ờ, mà dường như không hẵn vậy.

Dường như còn lâu hơn vậy nữa. Xa hơn cái trí nhớ đã bắt đầu mòn mõi của tôi. Xa đâu từ thời em còn là cô học trò mới lớn, cõi lòng chỉ mới vừa xao xác những thoáng nghĩ vu vơ.  Vậy đó mà tôi quen em do một tình cờ trái oan của định mệnh. Em tan trường về, làm rơi một tờ giấy trắng, bay vất vơ rồi tắp vào chân tôi khi tình cờ tôi có việc đi ngang. Cúi lượm tôi thoáng nhìn mấy hàng chữ .... trải vách quế gió vàng hiu hắt, mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng, à ... Cung Oán Ngâm Khúc, tác phẩm cổ văn mà tôi rất thích khi còn ở trung học. Khi tới gần để trao trả, tôi nhìn thấy đôi mắt mở lớn đen nhánh và đôi má ửng hồng dưới nắng tháng năm. Chiếc áo dài trắng bằng vải nội hóa thả lỏng, chưa thắt thỏm đường eo. Tự nhiên tôi gợi chuyện. Em trả lời vụn vặt. Vừa rụt rè vừa tinh quái. Thơ gì khó học muốn chết. Mà ông thầy quốc văn ổng khó quá trời. Tui chép vô giấy để vừa đi vừa học. Có muốn dễ học hông tui chỉ cho. Làm sao. Về đốt thành tro rồi uống tuốt vô bụng. Cái nguýt mắt dài còn hơn mấy lượn sóng ngày trở gió. Quanh em những chiếc áo dài trắng chập chờn như đàn bướm ghẹo. Thêm vài câu qua lại nắng mưa rồi em rẽ vào cổng nhà có chiếc hồ sen nho nhỏ. Tôi đi thẳng mà còn kịp thấy được cái ngoái đầu nhìn lại của em khi vừa khuất sau hàng cửa lá sách sơn xanh. Thêm đôi ba lần chào hỏi kín đáo trên đường tan trường khi tôi cố tình rẽ ngang thay vì đi thẳng tới sở. Việc làm mới, hai mươi ba tuổi bỏ Sài-gòn về tỉnh, tôi lao đao với những lề thói mới của tỉnh nhỏ trong khi lòng còn vướng bận hoài với những phung phá thời đại học. Tự một góc kín của lòng, tôi hục hặc với chính tôi vì nếp sống lặng lờ của tỉnh lẻ. Vậy rồi ngày một ngày hai, thêm một cợt đùa của định mệnh, em là bạn học của cô con gái chủ nhà tôi ở trọ. Tôi có dịp gần em hơn qua những lần hỏi han bài vở. Cô con gái chủ nhà nhờ tôi sửa hộ một bài sinh ngữ rồi kéo em nhập chung cho có bạn. Từ đó tôi trở thành một thứ gia sư kèm-trẻ nửa mùa . Do vậy, tôi có dịp giải tiếp cho em một phương trình đại số, nhắc nhở em một lỗi chính tả, đôi khi còn lạc nẻo vô mấy ngõ phố Sài-gòn với những ngày làm sinh viên không-sách-vở-cầm-tay ... Tôi kể em nghe quảng đời đại học, những hành lang hút gió, những giảng đường rộng thênh thang, những đêm cà-phê thuốc lá nghe Khánh Ly đi chân trần hát nhạc Trịnh Công Sơn, những đêm chắt mót từng đồng theo bè bạn la cà ở mấy cái vũ trường có rượu có nhạc và có cả những cô ca-ve chạy bàn như chạy giặc ... kể cả những chuyện phim Tây phim Nhựt vừa coi vừa ngủ gật trong bóng tối rạp ci-né Lê Lợi ... Tôi kể em nghe cả những chuyện tình sáng nắng chiều mưa tôi đa mang những ngày xa nhà học đòi lữ thứ. Đôi mắt thông minh, linh hoạt lấp lánh một niềm tin cậy kỳ lạ, em làm tôi lắm khi nổi hứng lang bang luôn tới mấy câu thơ tiền chiến, vói luôn tới những văn phẩm cổ điển tuyệt vời của văn học nước mình mà quên phức tôi là một người thầy giáo ... giả. Những lời tôi nói, dĩ nhiên không thiếu phần trang trọng và thành khẩn, nhưng tôi có phải là thầy dạy học của em đâu. Vậy mà sao, những lời đó, gần hai mươi mấy năm sau, khi liên lạc lại được lần đầu qua điện thoại, có khi em bỗng nhắc. Em bồi hồi. Tôi bồi hồi. Điều gì đã làm chúng ta dưng không như sống lại cả một đoạn đời đã cũ. Giọng ấm, bình dị, nghe thân mật  như chưa từng vẫn đục bởi gió bụi của thời gian. Bỗng dưng, rồi không đâu tôi thấy lại hết những ngày ở đó. Những ngày em con gái, mộng cao, chăm chỉ học hành, theo tôi han hỏi chuyện trời cao đất rộng. Em nhắc lại một lời hứa tôi đã lỡ quên, một chuyện phim tôi kể nửa chừng, một bài thơ tôi làm lở dỡ ... ngay cả chuyện em tìm đến thăm tôi quá trễ, khi chuyến xe tù đã đưa tôi vào trại cải tạo. Em nói em có mang theo một chiếc áo lạnh mua gấp ngoài chợ trời. Rồi chiếc áo đó em mặc ấm trong những ngày vượt biên lênh đênh trên biển. Tôi nghe và lòng tôi nhói đau. Rồi thôi. Rồi sau đó, em sống đời em, tôi đời tôi.

Xứ người em học hành thành đạt, dựng xây lại cái tương lai đã bị dùi vập ở quê hương. Rồi em lập gia đình. Rồi tan vở. Rồi em có bạn mới. Ở xa, đôi ba tháng, ngày tư ngày tết, em gọi thăm hỏi. Đôi khi em kể tôi nghe nếp sống thường nhật của em, chuyện nhà cửa, việc làm, chuyện sức khỏe, chuyện những quen biết vu vơ thời mới lớn. Vẫn cái tiếng nói vui và ấm, thân mật và ân cần với hết tấm lòng nhân hậu. Lâu lâu lại tìm mua vài ba quyển sách mới gởi sang dặn tôi đọc trong những giờ giải lao. Thỉnh  thoảng đọc đâu vài ba câu thơ cỗ lại kêu tôi giảng tiếp. Tôi không nghề không nghiệp ở xứ lạ, cày cục tìm miếng ăn hằng ngày. Vậy rồi sao, đôi khi giữa cơn chạng vạng của niềm tin, tiếng em gọi bỗng làm tôi vui lại. Vui lại rồi thôi. Em sống đời em, tôi đời tôi. 

Hai mươi lăm năm qua, ba chục năm rồi qua. Vẫn những ân cần thăm hỏi, nhắc nhở, dặn dò, khuyến khích ... Vẫn tiếng nói xa, lắm khi nghe ra vỗ về đến se thắt lòng tôi. Có lần còn hỏi xin tôi những bài thơ làm trong tù. Rồi gom lại muốn đem in thành sách. Tôi hỏi bộ em muốn làm tôi bất tử. Em không trả lời mà sao bên kia đầu giây tôi nghe tiếng gì như tiếng nấc cố dìm. Cả đời tôi, tôi có giữ gìn bao giờ ba cái thơ văn tôi đã cặm cụi viết lách rồi bỏ quên đâu đó. Sao em, ờ sao em lại để tâm ?

Vậy đó, vậy đó. Ngày qua ngày. Tháng qua tháng. Năm qua năm. Mối giao cảm lung linh và mơ hồ như khói sóng. Chẳng có gì rõ ràng. Không mảy may xác nhận. Vậy sao hoài những tiếng chuông điện thoại reo vang, những khuya sớm, những giờ phút không ai ngờ nhất. 

 

Cho đến tháng mười năm ngoái. Tôi tới Paris khi hay tin người bạn thân duy nhất đã tới giai đoạn cuối cùng của căn bệnh quái ác. Tin dồn dập xô đẩy tôi không kịp chuẩn bị, lấy chuyến bay đêm, hừng sáng tôi xách chiếc túi nhỏ lần tới một khách sạn ở quận 13 cùng lúc với một đoàn khách du lịch cũng vừa đổ tới. Trong cái không khí chộn rộn lăng xăng của phòng khách hẹp té, chúng ta bỗng nhìn ra nhau. Chúng ta bỗng nhìn ra nhau sau hơn ba mươi năm không thấy lại. Em đó sao, cô học trò tôi đã giải thích giùm một định đề khó hiểu. Cô gái mới lớn tôi đã đưa đẩy vào một thế giới viễn mơ. Vẫn cái dáng dấp trầm lặng tới độ nhẫn nhịn. Vẫn cặp mắt sáng, tinh quái mà hiền lành. Và cái giọng nói ngọt ngào như muốn làm vừa lòng với hết thảy ai ai. Em thêm mớ tuổi đời nhưng không giấu được cái vẻ liếng thoắng kín đáo của ngày xưa. Có một chút sững sờ. Và một tiếng kêu hớt hải. Rồi chúng ta bước vội tới gần nhau mặc kệ cái đám đông xô bồ chen chúc. Mũi tôi như nghẽn. Mắt em mơ hồ chút bụi sương. Rồi là những câu thăm hỏi xả giao. Em đi du lịch với người đàn ông đã san sẻ với em nửa phần đời sau và đứa con gái duy nhất. Rồi thôi. Em đi với bên đó và đoàn khách du lịch. Tôi tới cùng với bạn tôi, mảng cuối của một cuộc đời. 

Ba ngày sau. Người bạn tôi mất. Tang lễ đơn giản như ước muốn của người chết. Tôi còn lại, bơ vơ giữa một kinh thành hoa lệ, nơi mà tôi đã nhiều lần mơ ước từ tuổi còn học trò. Đêm thứ tư, còn ba ngày nữa tôi sẽ rời Paris trở lại cái thành phố buồn hiu, nơi tôi đã sống chôn mình trong quên lãng từ mấy mươi năm nay, tôi ngồi uống rượu một mình nơi quầy cuối phòng khách. Đoàn du lịch về tới. Em ghé lại chào hỏi và để lại một mẩu giấy khăn ăn xếp gọn. Em nhắn tôi giờ giấc và địa chỉ của thánh đường Sacré Coeur. 

Buổi sáng hôm đó, tôi lặng lẽ rời phòng từ sớm, lấy métro đến trạm Anvers rồi ghé vô quán còn vắng khách. Ngày mùa thu, Paris dậy muộn. Trên hè phố đã thấy lác đác lá thu rơi. Siết chặt chiếc khăn quàng cổ, tôi gọi tách cà phê đầu ngày, rồi ngồi ngó mông lung ra đường. Điếu thuốc vừa tan làn khói chót thì em tới. Chiếc taxi vụt chạy, em ngó quanh vừa khi tôi tới bên. Áo choàng đen và khăn cổ xanh lơ, em buông mình dựa vào tôi, hai vòng tay cùng siết chặt, nước mắt em bật ra cùng với tiếng kêu “anh” thảng thốt. 

Ba mươi mấy năm bỗng chốc ùa về, tôi đưa tay vuốt bờ tóc rối có những sợi úa màu thu đã muộn, em ngửa mặt, mùi J’adore của Dior thoang thoáng và chúng ta hôn nhau. Chiếc hôn đầu tiên của nụ tình nở muộn. Trễ nhau hai phần ba đời mình mà lẻ ra đã đúng độ ngay từ lúc còn ở bên kia một đại dương ngăn ngắt. 

Ngày hôm đó, chúng ta đi bên nhau, đi suốt một dãy quá khứ buồn rầu dù lòng ai cũng thấy hớn hở. Phố xá trước mặt, và người qua lại chỉ còn như một phụ cảnh mờ, chúng ta đi bên nhau, chân nhẹ hẩng và lòng nặng trĩu, trôi nỗi bềnh bồng giữa hiện tại xa và quá khứ gần. Gió sớm gai gai lạnh, tôi choàng tay qua vai kéo sát em vào người, chúng ta đi như để mặc cho hai đôi chân tự ý đẩy đưa ngang qua thánh đường Sacré-Coeur, rồi vòng xuống phố Montmartre. Tẻ qua khoảng đường có những người vẽ và bán tranh, em hỏi tôi có còn nhớ mấy câu thơ của Nguyên Sa tôi đã đọc cho em nghe ngày nào. Paris có gì lạ không em. Tôi nói tôi đâu có quên. Em đọc lầm thầm, tiếng nhỏ. Mai anh về em có còn ngoan. Rồi ngước nhìn tôi. Đôi mắt có hàng trăm lời xác nhận. Chỉ tiếc anh không về kịp. Ai đó đã nói thầm. Tôi đưa em lần theo lối đi lấp lửng những chiếc lá rụng từ đêm qua, lòng thắc thỏm những hình ảnh ố vàng, giờ bỗng dưng rựng sáng giữa hồn nhau. Anh biết không, sao em  chưa bao giờ quên những câu anh nói, từ một lời diễn giải đến một câu đùa cợt, từng chữ từng lời dù hoa mỹ hay nôm na. Lời anh nói cứ lẩn quẩn bên em, quấn quýt trong đầu em ban ngày, ban đêm, từ theo ba má bước chân xuống ghe, từ khi biết rồi không còn bao giờ mình gặp lại nhau nữa. Em nói và nước mắt em ứa ra. Tôi úp mặt hôn vào gò má em, và nghe môi mình mằn mặn. Tôi nói gì với em đây. Có lời nào để tôi phân trần. Có lời nào đủ lấp cái khoảng cách đã lỡ để lạc loài nhau. 

Chúng ta dìu nhau đi lang thang không chủ đích. Y như hai đám mây theo gió đẩy đưa tạt ngang qua thành phố. Mắt nhìn quanh mà mắt chỉ thấy nhau. Mình đi giữa một Paris đang trở giấc vào thu mà lòng cứ trở lại một góc tỉnh nhỏ xưa đã xa tăm tắp. Bởi vậy, quanh quanh bắt đầu kẻ qua người lại mà chúng ta có để ý gì đâu dù tiệm buôn đang rục rịch mở cửa, quán xá bắt đầu kê lại bàn ghế ngoài hàng ba và những tách cà-phê được dọn ra, bốc khói Chúng ta đi trên đường phố lạ mà làm như chỉ ngắm tìm lại những hình ảnh thân quen. Những buổi sáng buổi chiều trong một góc vườn nhỏ có mặt hồ im đựng bóng hoa sen. Có bóng mát cây mận hồng đào và hàng rào bông bụp em hay ngắt cắm lên chiếc bàn học kê dưới gốc một cây mai đã cỗi. Những buổi trưa im vắng, tôi tạt ngang, em chờ với tập vở, đôi mắt long lanh và niềm tin lóng lánh. Có khi là một ly chanh đường. Có khi là một chén chè đậu xanh thơm ngát. Buổi trưa tỉnh nhỏ êm như ru. Và tôi ru em bềnh bồng theo những đẩy đưa của tình tự dân tộc. Ngoài những bài toán hóc búa em đem từ trường về. Hoặc những cách chia động từ rắc rối của bài tập Pháp văn. Ờ, những buổi học giữa trời, vang tiếng ve kêu và đôi khi có tiếng vổ cánh của một con cò trắng lẻ bạn. Ờ những buổi học mấy ngày sau tết, có lần gió thổi tung những cánh mai vàng rụng đầy lên trang chữ, bám vào mái tóc em thắt bím trông ngộ như một cảnh đào nguyên. Những hình ảnh đâu đâu bỗng trở về lấp ló. Tưởng đã quên lâu, sao sống lại, bây giờ. 

Chúng ta đi giữa đời thực như hai kẻ mộng du. Qua hàng phố, nhà thờ, lâu đài, công viên ... ngã tư, ngã năm, ngã sáu rộn rịp xe cộ mà có lúc tưởng chừng đang qua vội những lề đường đầy cỏ dại chen chúc những bụi hoa mắc cở, dưới bóng mát những tàng lá me lay lắt, hay băng qua chiếc cầu đúc bắt sát mặt sông có con nước lặng lờ xuôi ra cửa biển, và những bầy hải âu vừa bay vừa kêu hớt hải. Con đường lớn dẩn vào thành phố có em ngày hai buổi đến trường. Và tôi, tôi như một khách xa, đến đi không hay báo trước. Tại vậy mà nên nỗi. 

Rồi bỗng em kéo tay tôi, dừng lại trước một sạp báo hỏi mua tấm bản đồ thành phố. Rồi ngón tay thon dò theo con đường đang đi, lần tới một địa điểm quen tên. À xóm St-Germain-des-Prés, bên tả ngạn sông Seine. Mình đi tới đó đi anh. Trời ơi, em còn nhớ. Em nhớ những huyênh hoang ngày tôi tuổi đôi mươi. Em nhớ cái mộng đời tôi lở dở. Em nhắc lại y nguyên lời tôi kể em nghe khu xóm nức tiếng một thời của Paris văn chương triết lý và nghệ thuật. Em nhớ cái ước mơ của tôi đã nói với em một lần. Được có ngày lang thang qua những nhà hàng, tiệm rượu, hộp đêm, hầm tối mù mù khói thuốc và xập xình tiếng nhạc ... có J.P. Sartre với chủ thuyết hiện sinh, có Simone de Beauvoir kêu đòi cho sự có mặt của phái tính thứ hai, có Jacques Prévert với thơ lề đường, có tiếng kèn đồng huyển hoặc của Boris Vian, có Julliette Créco giọng dẻo nhẹo như quến đặc nhựa thuốc lá đốt liền tay...

Ngang qua tiệm Les deux magots em đòi ghé lại. Bàn ghế bày biện vẫn y nguyên như những bức hình tôi đã thấy. Tôi gọi hai tách cà-phê, nhắp từng ngụm nhỏ. Bên kia bàn, hơi khói thơm ngát rịn mướt trên vành son môi tô khéo. Em ngước nhìn tôi, con mắt xa xăm. Có phải nơi này anh nói Ernest Hemingway đã viết Le soleil se lève aussi ... Và trước nữa chàng lãng tử Rimbeaud của anh đã làm thơ Le bateau ivre. Em ơi, hơn ba mươi mấy năm trời sao em còn nhớ. Sao em vẫn chưa quên. Tôi nhìn xuống màu cà-phê đen thẳm, thấy mắt mình như có chút khói cay. Trời ơi sao em nhớ từng chút một những say mê từ thuở tôi còn trai trẻ mà những khi rảnh rỗi tôi hay kể em nghe. Sáng nay em nói dối với mọi người để được cùng anh đi với giấc mơ anh. Dứt câu, em lấy cặp kính đen đeo lên mắt nhưng làm sao em giấu được tôi. Qua Mỹ như mọi người với mọi khó khăn, chính mấy câu khích lệ của anh đã thúc đẩy em đeo xe bus lội tuyết tiếp tục theo đại học trong sự thiếu thốn thường trực. Bốn năm em đi học là bốn năm em hy vọng, ngày gặp lại anh, em không làm anh thất vọng. Rồi em đổ đạt. Và anh, anh thì vẫn biệt tăm. Cặp mắt em giấu sau cặp kính đen. Nhưng giọng nói em làm sao giấu được. Em chắp hai tay che miệng và tôi nghe tiếng em nấc nghẹn. Hai vai em rung rung. Ngực em tức tưởi dù cố nén. Giọt nước mắt nào để sót chen qua gọng kính, loang ướt một dòng trên gò má phải. Tôi chồm người qua bàn, nắm hai bàn tay em trong hai bàn tay tôi. Sau cùng cả hai đều khóc. Tôi kềm giọng. Cho đến lần cuối gặp nhau tháng ba năm đó, anh có ngờ ngợ một điều gì đó nơi em. Nhưng em nhớ coi, lúc đó em mười bảy, thùy mị mà lại quá kín đáo, chúng ta lại ở hai vị trí nghịch thường. Tỉnh nhỏ, lòng người ... Rồi hết giặc giã, chưa kịp mừng anh đã đi tù, gia đình thất tán, mất hết mọi liên lạc ... 

Tôi sẽ nói gì thêm. Mọi lời nói đều là những phân trần vô nghĩa khi người ta đã lỡ trệch ra khỏi một toan tính với định mệnh. Lực ly tâm sẽ càng lúc càng bắn đi xa. Mỗi lúc rồi mỗi thêm xa. Tôi lập lại câu nói đã lập đi lập lại mấy lần từ khi liên lạc lại. Khi ra tù, hơn bốn năm sau, anh bị đuổi về nguyên quán. Ở quê, ba má anh cũng bị cướp nhà phải trở về làng làm ruộng khi đã gần bảy mươi. Nhà có bốn anh em trai, ba người anh còn chưa biết sống chết ra sao trong các trại tù ngoài Bắc, duy nhất chỉ còn anh ... Điều đó có cần không khi người ta đã nghe đi nghe lại bao nhiêu lần. Có điều nếu không nói vậy, tôi sẽ nói gì đây. Cái sự thật cũ càng đến độ làm xót xa chính người nói. 

Nói xong tôi thấy mình như tên hề mới vừa lau xong lớp phấn son nhễ nhãi. Mặt trời lên cao rọi xuyên qua hàng cửa mở, rải lên tóc em lớp bụi nắng óng ánh như sao. Tách cà-phê trở nguội, đắng nghét. Em đứng lên, quyết chắc. Khoác vội túi xách tay, tay cầm tấm bản đồ xếp tư, tay níu tôi đi nhanh ra cửa. Rồi như vậy, mỗi bước lần dò chúng ta đi về phía khu Latin. Gió từ mạn sông Seine thổi ngược lên mùi hơi nước pha sương. Ghé lại mấy quán sách cũ dọc bờ sông, nhìn ngắm rờ rẩm những pho sách cũ lòng tôi nổi lên một niềm ân hận không đâu. Bỗng nhiên tôi nhớ đến những quyển sách tôi đã mua, đã nghiền ngẫm, đã giữ gìn phút chốc biến thành tro than những ngày tang thương đó. Thấy tôi ra chiều thờ thẩn, em vuốt nhẹ lên bàn tay buông thỏng của tôi rồi đọc nhỏ câu thơ của Vũ Hoàng Chương. Chúng ta mất hết chỉ còn nhau. Tôi quay lại nhìn em. Và thấy lại hết những mất mát của đời tôi như tụ đọng lại trong mắt em. Cặp mắt nhìn tôi gần mà như xa hun hút. Ôi tình tôi. 

Vậy rồi chúng ta đi gần lại khu công viên nổi tiếng. Em kéo tôi đi nhanh hơn. Mùa thu rớt nhanh sạm mặt khi nắng chiều rơi chút vụn tàn trên hàng cây dẩn đến vườn Luxembourg. Không ngó tôi, em đọc lầm thầm mấy câu văn của Anatole France mà lần nào tôi đã đọc cho em nghe. Tiếng còn tiếng mất lẫn trong hơi gió nhẹ ....

... Tôi sẽ nói với bạn điều mà hằng năm làm cho tôi nhớ lại, đó là bầu trời mùa thu vần vũ, những bửa ăn tối dưới ánh sáng ngọn đèn và những chiếc lá bắt đầu vàng trên hàng cây lay động ...

Tim tôi thắt lại. Tôi siết chặt vai em, miệng mấp máy những chữ tôi còn nhớ. 

Trời ơi, dễ chừng đã hơn ba mươi mấy năm qua, câu văn dịch mùa tựu trường năm ấy. Em lên mười bảy tuổi. Tôi tâm sự với em. Nhìn tuổi em và bạn bè mấy ngày nay sắm sửa sách vở, tự nhiên tui thấy nao nao. Biết chừng nào tui sống lại cái thời hồn nhiên đã qua em hả. Rồi tôi đọc lại cho em nghe câu văn mà tôi thích nhất. Tôi nói tôi thích còn hơn bài tựu trường nổi tiếng của Thanh Tịnh. Cũng chính lần đó, tôi đã ngỏ lời khen em và chắc lòng tin em sẽ thành công mai sau. Anh thấy lại chưa anh cậu bé học trò của anh đó. Em nói mà không nhìn tôi. Em nói mà như cố soi tìm lại những gì đã mất. Anh còn nhớ bữa em khóc vì giải trật một bài đại số. Anh giễu em mít ướt làm em khóc mùi mẫn. Rồi anh đền em bằng chuyện phim Les dimanches de Ville-d’Avray. Chuyện phim buồn quá làm nghe xong em lại khóc ồ lên làm anh luống cuống sợ trong nhà hiểu lầm. Anh nhớ hông. Em cười nửa nụ mà lòng tôi chết điếng. Mà anh biết hông, nhờ anh mà em học giỏi, mà em thi đậu hạng cao. Nhất là anh tạo cho em một thứ mỹ cảm để thích văn thơ nghệ thuật ... Em nói một hơi rồi nín bặt. Tôi nghe lòng mình tan tác như đám lá rụng mỗi lần gió thổi tốc cả xiêm y. Tôi nói sao hơn nữa khi mọi sự đều có nguyên do. Hai người đi chậm bước khi ngày sắp sửa bỏ đi. Bước chậm như cố kềm thời gian lại. Nhưng làm sao được ! Làm sao kéo lại giờ khắc, mùa màng, thời tiết ... khi tóc xưa cài bướm giờ đã cắt ngắn pha sương, cậu bé tung tăng mang cặp vở chỉ là chiếc bóng tiếc nuối của một hiện thực tỉnh thức vốn đã dập vùi thế sự.

Tôi ôm ngang thắt lưng em dìu đi những bước thơ thẩn. Lòng cảm động khi tận mắt nhìn thấy một cảnh tượng trước đây chỉ có trong mơ. Ngang qua bức tượng L’acteur Grec, em dừng lại ngắm nghía, thích thú khi tình cờ có một con chim đậu ghé trên đầu vai. Khách du ngoạn kéo qua lại từng nhóm, những đứa bé con chạy nhảy vui như hội. Tôi đưa tay vén mấy sợi tóc rối rớt trên đuôi mắt em và thấy chiều xuống trên mấy dấu chân chim đã mỏi. Bóng tối len dần vào từng bờ cây vạt cỏ. Chiều xuống. Ngày của chúng ta sắp hết. Em phải về trước khi đoàn du lịch trở về. Em nấn níu nhìn tôi như hốt hoảng. Em ơi em, tôi làm gì đây. Tôi làm được gì đây khi đời tôi như con nắng chiều thu, đã và không còn sức để chặn ngang bóng tối của mùa đông sắp sửa. Khi đời tôi đã phôi pha từ những năm tháng tù đày, từ những lê lết cày cục để nuôi lớn bầy con bỏ xứ và cha mẹ già quạnh quẽ ở quê nhà. 

Tôi nắm tay em đi dần ra cổng, gọi taxi để trở lại khách sạn. Xe chạy quanh quanh qua đường phố. Thấp thoáng Paris lên đèn. Trên xe, cả hai ngồi yên như hai pho tượng. Gần tới, em ra dấu ngừng xe. Còn lại hai dốc phố. Chúng ta xuống xe đi nép vào bờ tường đá. Gió chiều thổi thốc mớ lá rụng bám vào mỗi bước chân đi. Thinh im.  Rẽ ngoặt qua lối chót, cái nóc của khách sạn lấp ló sau mấy chòm cây thưa lá.

Con đường lót đá từ trăm năm cũ, xộc xệch dưới gót giày nhọn làm lắm lúc em phải dựa hẵn vào tôi. Vẫn mùi nước hoa sớm thoang thoáng lẫn thêm mùi da thịt đàn bà nồng giấc xế chiều có lúc làm tôi ngầy ngật. Tôi muốn ôm em, ghịt sát vào tôi khi qua một góc hẽm vắng. Cơn mê nào chợt dậy, lay động nỗi ham muốn gần kề. Em dịu hoặc trong tay tôi. Cặp mắt thoáng vẻ ngập ngừng rồi quyết đoán. Em nhóng lên ngửa mặt. Tôi tựa em vào vách đá, áp môi mình lên môi em, lưỡi quyện vào nhau, quấn quíu. Và chúng ta hôn nhau hối hả. Hối hả. Bỗng chốc trăm ngàn hờn tủi, bỗng chốc muôn vàn tiếc thương đổ về kêu rêu, trách móc, thở than ... Và tôi và em và nụ hôn nóng sốt và chút lệ ứa nhanh. Và tôi và em và mấy chục năm đằng đẵng và oan nghiệt. Và ... oan nghiệt.

 

Tôi hôn em bao lâu. Chúng ta hôn nhau bao lâu. Có ai đếm được niềm đam mê bốc cháy đâu em. Có ai đo được hơi thở mình ngắn dài khi tình yêu trở thành mạch sống, háo hức, kêu đòi, buông thả ... khi hai con mắt em lim dim chấp chới, khi ngực em áp sát ngực tôi như tỏ lộ điều son sắt, rồi tôi cảm được hai chân em muốn khụyu xuống. Và tôi, tôi ...

Chúng ta buông nhau ra. Buông nhau ra khi cơn mê lên đến cực điểm. Buông nhau ra khi hai vòng tay đã khít lại như một. Và khoảng cách của hai thân xác đã gần như vô nghĩa. Và chúng ta buông nhau ra. Bỏ nhau ra. 

Em đi trước. Áo chùng đen. Tôi đứng lại, tựa vào vách tường, lòng đá tảng. Tôi móc điếu thuốc gắn vội lên môi, châm lửa. Mới đi được mấy bước bỗng em ngoái lại. Hai con mắt, ơi em, hai con mắt. Tôi ném vội điếu thuốc, chạy tới. Và em khóc. Nước mắt nhạt nhòa. Chúng ta ôm chầm lấy nhau. Và môi tôi ngậm lấy môi em. Và nước mắt tôi hòa lấy nước mắt em. Và bóng tối chìm chúng ta vào quá khứ. 

 

Sớm hôm sau, em ra phi trường. Tôi còn ngày cuối ở lại Paris. Cả ngày tôi lẩn quẩn trong phòng. Tính giờ bay, tính giờ em về tới bển. Xế ngày, tôi xách chai rượu quí người bạn xưa đã dặn dò tặng lại, xuống nhà hàng, chọn chiếc bàn nhỏ khuất trong góc, nhờ khui và rót rượu uống một mình. Bạn bỏ đi. Rượu cay nồng từng ngụm. Em bỏ về. Rượu đắng chát từng giọt. Tôi uống từng ngụm nhỏ. Rượu thấm vào hiện tại tôi. Rượu ngấm vào quá khứ tôi. Rượu ngập chìm tôi trong nuối tiếc muộn màng. Đến một lúc sao quanh tôi chỉ còn lại những đôi mắt em. Đôi mắt hiền như đóa từ bi. Không chút oán trách. Không mảy may kêu đòi. Nhưng em ơi, làm sao tôi không thấy, từ đôi mắt em, sự chịu đựng ẩn nhẫn đến chạnh lòng. Em đã lặng thinh ra về, yên phận. Vậy rồi sao nước mắt tôi ứa ra, lặng lẽ. Lặng lẽ từ đêm qua khi bóng em khuất sau cổng khách sạn. Lặng lẽ từ sớm mai khi từ trên lầu cao tôi nhìn thấy em bước lên xe đi khuất. Lặng lẽ xế chiều nay khi tôi châm đầy thêm tấm lòng tôi đã cạn bằng chất nước cay sóng sánh ánh vàng. Tôi ngửa cổ nốc từng ngụm như nuốt ngược vào người từng ấy giọt lệ tình em. Em không đòi nhưng tim tôi thắc thỏm. Làm sao tôi không biết sức nặng trì trì của ngày tháng vô vọng, khi em chưa là thiếu phụ. Thời gian thì vô tình và đời sống cũng vô tình. Em lẻ loi, quay quắt giữa xứ người. Vây quanh em chực hờ bao nhiêu là cạm bẩy. Tội tình em một thân một mình, ai đỡ đần những khi đời làm giông bão. Vậy mà em, đã vừa lo thân vừa còn lo chờ lo đợi. Chờ đợi một người tình chưa hứa được nhau một tiếng hẹn hò. Năm này qua năm khác. Rồi đến lúc mọi chuyện cũng phải xuôi theo cái chiều thuận của giòng đời. Có ai lội ngược giòng đời được mãi đâu em.  

Thì thôi em, tội tình nhau, cũng đành gánh chịu. Chỉ cầu xin em được vuông tròn. Tôi thầm thì một mình khi đêm đã gần sáng. Về phòng thu xếp rồi tôi gọi xe ra phi trường. 

Paris mờ mờ trong sương sớm. Gió luồng qua phố vắng nghe như tiếng mùa hú gọi. Những tàng cây run rẩy rải lá đầy đường. Tôi khép chặt vạt áo choàng mà nghe hơi thu lạnh xuống đầy vai. Tự dưng, tôi nghĩ mình như một tên tội phạm đang trốn chạy dù chẳng có ai rượt đuổi. Chỉ là tôi trốn chạy ... tôi !

Khi máy bay lượn cánh lần chót, nhìn xuống tôi thấy Paris nhợt nhạt như một cơn mơ. 

.................

Đến chừng về rồi tôi mới biết tôi yêu em, tôi yêu em nhiều hơn tôi tưởng. 

 

 

Cao Vị khanh                     

CVK_demtamtinh.JPG

Năm 1958, ông Nguyễn Mạnh Côn xuất bản tập sách “ĐEM TÂM TÌNH VIẾT  LỊCH SỬ”. Đó là một cuốn sách giá trị tuyệt đối về mọi mặt. Kẻ hậu ... hậu bối về mọi mặt như tôi chẳng có ý gì dám mó mé tới cạnh bên. Chẳng qua tôi khoái cái  tựa. Thường khi viết sử, từ đời xưa đời xửa ở bên Tàu, nghĩa là khi còn mấy ông  tự nhận con trời ( thiên tử ) làm vua làm chúa làm cha thiên hạ, oai quyền tột  đỉnh nghĩa là muốn làm gì thì làm, vậy mà người ta cũng đã đặt ra chức sử quan. Ông-quan-viết-sử ăn bổng lộc chuyên môn ghi chép chuyện nước non,  từng ngày từng giờ từng phút từng giây. Nghĩa là không được bỏ sót một chi tiết,  một biến cố nào đã xảy ra trong triều ngoài nội. Nhất là có-sao-viết-vậy-người-ơi! Có lẽ gọi là chép-sử sẽ rõ nghĩa hơn chăng. Viết có nghĩa chủ động, dễ lạc bút.  Chép nghĩa là ghi chép, có gì nói nấy không thêm bớt, không sửa chữa, một là một, hai là hai, không có on-đơ gì hê ́̉t. Khác nhau như chụp ảnh và vẽ tranh. Sự

thật của lịch sử là điều cấm kỵ, tối thượng, không được tô son thoa phấn mà cũng chẳng được bôi tro trét trấu. Muốn được vậy, người chép sử phải có đủ mọi đức tính, từ trung thực đến liêm sĩ, kể cả sự can trường, uy-vũ-bất-năng khuất. Ngay cả trong bộ Kinh Xuân Thu mà Khổng Tử đã san định, ổng cũng đã đòi như vậy. 

Thế mà ông Nguyễn lại đem tâm tình mà viết lịch sử ! Tâm tình là cái thứ lộn xộn  nhất của con người. Nay vui mai buồn mốt giận bữa kia hờn. Thứ tình cảm bộp  chộp đó dễ làm sai lạc mọi nhận định. Vậy mà ông Nguyễn đòi viết lịch sử bằng  tâm tình có mâu thuẩn lắm không. Thật ra dụng ý của ông u uẩn và thâm thúy  hơn nhiều khi đem-tâm-tình viết về thời kỳ hổn mang đó. Ba chữ “Đem tâm tình” cốt để xác định sự thành tâm, để bảo đảm sự chính trực của mình khi đặt bút  viết lại những dòng hận sử, với ước vọng soi lại đường đi cho tuổi trẻ sau khi đã lạc bước vì những tuyên truyền đường mật của loại chính trị lọc lừa. Cái tựa với  lối chơi chữ thượng thừa đó đã dựng lại một giai đoạn đen tối của lịch sử Việt  Nam cận đại, và làm sáng mắt cho không ít tuổi trẻ còn mù mờ vì sự quỉ quyệt của người cộng sản. Vậy mà rồi, đâu lại vào đó. Người tin, người không tin để cho lịch sử trớ trêu, kẻ nuốt hận chui đầu vào rọ, kẻ quính quáng nhào ra khơi  bán mạng cho sóng gió vô tình !!! 

Cái chuyện tôi bắt chước ông ở đây chẳng qua vì lòng ngưỡng mộ của một kẻ đến sau biết ơn người đến trước nên chẳng ngại ... bắt chước ... cái tựa. Dẫu  vậy, vẫn phải cúi đầu xin lỗi bậc trưởng thượng. Bởi vì chữ ông Nguyễn viết là máu xương là cốt tủy của một đời người thao thức vì vận mệnh của dân tộc. Còn  thứ tôi viết chỉ là chuyện càm ràm qua ngày đoạn tháng. Lựa cái tựa như vậy cốt  để nói rằng ... dốt mà hay nói chữ. Thiệt vậy, tôi vốn là một kẻ dốt nhạc mà lại  bỗng nổi hứng muốn viết về nhạc, thành ra, nói về nhạc mà nói bằng ... tâm tình  chớ không bằng ... nhạc lý như mấy ông maestro vẫn thường hay múa đủa mà sửa méo sửa tròn mấy dàn giàn nhạc giao hưởng. Nhạc tôi muốn nghe, muốn  kể lể là thứ nhạc đã có một lúc bị xử ức oan tình. Rằng thì là nhạc Boléro, nhạc  máy nước, kể cả ... nhạc-sến. Có một thời tiếng Việt của chúng ta sung mãn  lắm. Ngoài cái kho ngữ vựng đã dùng lâu dùng quen mà ai cũng rành, đã được  ghi chép hẵn hoi vô tự điển với lời giải thích rạch ròi, hằng khi vẫn phát sinh  những tiếng, những chữ mới hoặc những chữ cũ với nghĩa mới có khi chỉ nhằm  để chỉ trích hay giễu cợt một hiện tượng xả hội nào đó ... Riết rồi thành quen,  nhập tâm và xài mát tay lúc nào không biết. Giã sử chữ ... “sến”. Nếu không lầm,  dường như danh từ marie-sến đã sanh ra và phổ biến đâu từ những thiên phóng  sự với giọng văn khinh bạc trên những tờ báo hằng ngày xuất bản ở Sài Gòn, để ám chỉ những người đi ở mướn, ở đợ, giữ em, tối tối xách thùng thiếc biến chế từ thùng dầu lửa 20 lít, ra mấy cái phông-ten nước ở đầu đường, chờ chực để hứng rồi gánh nước-máy về cho chủ. Ẩn ý nhằm chê bai trình độ học thức cũng  như thứ “mỹ cảm” bình dân, ít học ... Đến một lúc, chữ “sến” tách riêng ra trở thành một tính từ độc lập, hàm ý nhà-quê, dở ẹt, thấp kém ... được phát biểu với giọng điệu khinh thị, khích bác, chế giễu ... Vậy rồi, cho đến một lúc, dường như  vào những năm 90, bỗng nghe lõm bõm đâu đó trên môi mép của quí vị tự cho  mình có thẩm quyền về âm nhạc, một danh từ mới : nhạc-sến. Nhạc-sến, hình  dung như một cái bĩu môi khi nói về một bản nhạc cũ đã có thời phổ biến rộng  rãi ở nửa phần đất phía Nam và sau này vẫn tiếp tục phổ biến ở đó, luôn cả nửa  phần đất phía Bắc bất kể có bị cấm lên cấm xuống tới nỗi riết rồi ai cũng biết ...  cũng mê ! 

Đã không rành nhạc lý, từ mấy nốt “đô” “rế” “mì” ... đến cung thứ rồi cung  trưởng, rồi trường canh, từ điệu Tango rồi Rumba, Cha-cha-cha ... nói gì đến cái  thứ nhạc cổ điển mà ai nấy đều tấm tắc khen hay dẫu có khi hai tai cứ loạn xà ngầu vì mớ âm thanh phát ra loạn cào cào của hằng chục thứ nhạc khí phát ra  cùng một lúc ! Dẫu vậy, dẫu vậy tôi cũng sẽ viết về nhạc, nhạc-sến, với tâm tình  của một người thích, khoái đến độ lắm khi muốn chảy nước mắt vì nhạc-sến. Ờ mà sến, hay máy nước, hay boléro hay nhạc vàng hay ... hay gì đi nữa miễn là khoái tai, vừa ý, thỏa lòng thì sến hay không sến cũng có sá gì đâu.  Mà cái vụ khoái nhạc-sến này cũng phải nói cho rõ, không phải do bẩm sinh  cũng không phải bị tẩy nảo. Mà là do nhu cầu thiết yếu của thời học đòi làm  người lớn. Từ khi ... lỡ-yêu-rồi-làm-sao-quên-được ...-NẾU ANH ĐỪNG HẸN-LÊ DINH Thử nghĩ coi, ngay lúc tuổi vừa mới lớn ở cái xứ Việt miền Nam đó, những năm  năm mươi mấy sáu mươi, lỡ có muốn tỏ lòng ái mộ ai đó mà cứ moi ra mấy cái  Symphonie no 9 của Beethoven hay Concerto no 1 của Chopin mà tán tỉnh thì chắc chắn là có màn thất bát dài dài ... Thuở đó, đầu trên xóm dưới, trong làng  ngoài tỉnh, bằng cấp cả xấp hay chỉ mới bập bẹ ba chữ i tờ gì cũng vậy ... chỉ có lắp ba lắp bắp theo ông Trúc Phương Ai cho tôi tình yêu của ngày thơ ngày mộng / Tôi  xin dâng vòng tay mở rộng / Và đón người đi vào tim tôi / Bằng môi trên bờ môi ... là mới hy  vọng có thể mở được đường-vào-tình-yêu –AI CHO TÔI TÌNH YÊU-TRÚC PHƯƠNG. Mà chắc cũng không phải chỉ mình tôi tin như vậy. Còn tin hay không là quyền của  bá tánh. Có điều, chuyện đờn-ca-hát-xướng ở miền Nam thuở trước không đúng  hẵn cũng hao hao như vậy. Nếu không vậy, làm sao nhà xuất bản Tinh Hoa in  nhạc với tờ giấy xếp đôi có trang bìa là hình vẽ của họa sĩ Duy Liêm, mấy cái  phòng trà, mấy chỗ sang lậu băng ca-sét, chưa kể quí vị được trời cho cái giọng  thiên phú ... làm sao sống nỗi một cách vinh quang trong một xứ sở mà tiếng  đạn bay mìn nổ nghe riết đã muốn lãng tai ! Nói như vậy để thấy cả một nền âm  nhạc mà người ta gọi là nhạc-sến cho đành đó, là cả một gia-tài-của-mẹ-TRỊNH  CÔNG SƠN. Chớ có phải chơi đâu.  

Thử nghĩ coi, nghệ thuật để làm gì nếu không phải là để đáp ứng cho khát vọng  đi tìm “cái đẹp” của nhân sinh. Dẫu có chọn cho mình một đường hướng nào đi  nữa, nghệ thuật mà không có người thưởng thức thì chỉ có đem vô mấy trại cải  tạo của việt-cộng mà làm trò tẩy nảo. Ngay cả chủ trương nghệ thuật vị nghệ 

thuật đi nữa, rốt lại, vẽ, làm thơ, viết nhạc ... mà không có ai trố mắt nhìn, vểnh  tai nghe, chong mắt đọc thì cũng y như kiểu ... nói chuyện với đầu gối. Vậy thôi. Như vậy, nhạc mà làm mê mẩn cả mấy thế hệ người nghe thì nếu không gọi là nghệ thuật thì gọi là gì cho phải đây ?! Vã lại, y như mọi ngành nghệ thuật khác, 

nhạc như thơ cũng cần sự cảm thông bằng trực giác trước khi bỏ lên bàn mổ.  Hãy thử bắt chước Xuân-Diệu-thời-tiền-chiến ... ai đem phân chất một mùi  hương / hay bản cầm ca tôi chỉ thương / chỉ lặng truồi theo dòng cảm xúc / như  thuyền ngư phủ lạc trong sương. Được chăng ? 

Bởi vậy, nói gì thì nói đem mớ ca nhạc một thời đó ra giễu cợt, dè biểu chẳng  qua chỉ là chuyện tự dối lòng của mẫu người tự cao tự đại, thiếu thành thật ngay  cả với chính mình. Nê  u không, có thể là một cách thức phản-tuyên-truyền của  đám cầm quyền cộng sản, muốn cấm đoán, muốn tiêu hủy mà bất lực trước sự thưởng thức dù có khi phải lén lút của đại đa số người hâm mộ, ở ngoài cũng  như còn kẹt ở trong nước. Y kiểu mấy mụ đàn bà xấu tánh, ham muốn hay cấm  đoán hoài mà không được bèn quay qua nói xấu cho ... hả giận ! 

Trở lại với dòng nhạc của một thời đã qua, đang qua, và sẽ còn qua nữa ... Ai sao không biết, còn tôi, sau khi dong ruổi ba đồng bảy đổi trong cái thế giới  âm nhạc tây tàu, xưa nay, cũ mới ... new age, kể cả ráp riết v.v... cuối đường  lạng quạng xin được quày đầu trở về với dòng nhạc mà số phận đa đoan chẳng  kém vì người làm ra nó và người yêu thích nó. Thứ nhạc mà người ta phán cho  là nhạc-sến ! 

Nếu nhớ không lầm thì cái “gu” cũ-người-mới-ta này đã lậm thêm vào người đâu chừng đôi mươi năm nay, nhất là từ khi sẩy bước xuống ghe tìm đường bôn tẩu  khỏi cái chế độ quỷ quái ma đầu ma cô ma mị ... Số là sau khi bôn tẩu trên dặm  nghìn sóng nước, được đặt chân lên đất lạ rồi được đặc ân cho làm người ra  giống người, được ăn thêm bơ sửa, bánh mì, pizza ... no nứt bụng rồi có lúc  bỗng quay ra thèm đến chảy nước miếng cái mùi mằn mặn tanh tanh của nước  mắm pha chút dấm chút tỏi, dầm chút ớt chút tiêu ... Khổ nỗi, thời đó người cùng  giống rồng-tiên (!) bỏ ổ còn quá ít ỏi nên lắm khi cũng đành tìm quên với nước  tương xì-dầu của mấy chú con trời ở China town. Vậy rồi nhờ vận rủi may, người  bỏ xứ trốn tự-do-hạnh-phúc-độc-lập của bác-và-đảng càng lúc càng đông nên  nước mắm và hương vị quê hương càng lúc càng bay mùi thơm phức trên xứ người. Có nước mắm, phở tái chín nạm gầu gân sách ... tạm lấp đầy cái bao tử 

tha hương rồi là nổi chứng nhớ thương mấy cái vụ đờn ca xướng hát của một  thời Sài-gòn đèn xanh đèn đỏ. Nhất là những hôm giáp tết xứ người. Trời mùa  đông lạnh cóng, hoa mai hoa đào đâu không thấy, chỉ thấy tuyết bay mù mắt,  phủ trắng cây cỏ núi đồi phố xá, phủ trắng cả tấm lòng của những kẻ mất quê  hương. Chiều ba mươi, nấu mâm cơm cúng vái ông bà, dọn ra bàn chưa kịp  thắp mấy nén nhang là trong lòng đâu như ai đã dạo sẵn mấy nốt hò xự xang xê  cống líu rồi bắt giọng mà ngân nga để sửa soạn xuống xề. Cứ mỗi lần thấy bông ô  môi nở hồng trong gió sớm, mỗi lần nghe tiếng quết bánh phồng vội vã đón xuân sang, cứ mỗi  lần có dịp về Vĩnh Long ngang làng Tân Ngải chợ Trường An ... – TUYỆT TÌNH CA-HÀ TRIỀU HOA  PHƯƠNG . Ngay lúc đó, mà đâu đó lại bồi thêm mấy câu tân nhạc của Trịnh Lâm Ngân nữa thì thôi khỏi nói. Con biết bây giờ mẹ chờ tin con / Khi thấy mai đào nở vàng bên nương / Năm trước con hẹn đầu xuân sẽ về / Nay én bay đầy trước ngõ / Mà tin con vẫn xa ngàn  xa- XUÂN NÀY CON KHÔNG VỀ-TRỊNH LÂM NGÂN 

Con mắt đâu ai xát muối mà cứ cay cay, đầu mũi muốn rục rịch mà cứ ráng kềm  sợ con nít nó cười. Dẫu vậy, cái đầu lại cứ quay mòng mòng với bao nhiêu hình  ảnh cũ dẫu đã xa mút ... mù xa. Cái thuở trời miền Nam nắng vàng như nghệ, đêm châu thổ nồng ẩm như hơ, những cơn mưa mùa vụt chạc, những con kinh  dậy phèn, những lạch nước úng bùn, những bến đò thắc thẻo người sang, những chái liếp hở hang, những cội tre xơ xác, những chùm lá me tíu tít, những  gốc phượng đỏ hè, những mái trường lợp thiếc, những chiếc áo dài trắng lắt lay,  những chợ chiều hiu hắt, những xề bánh khọt lề đường, những xe nước mía ngã tư, những con đường liên tỉnh mấp mô, những con đường mòn lẫn lút ... Và những mặt người. Ờ, những mặt người quen kẻ lạ, những thân thuộc đã sinh ly,  những ruột rà đã tử biệt ngay khi vừa mới quay lưng chưa kịp nhìn lại một lần ... ghe đã tách bến ! Sài-gòn, Vĩnh-long, Rạch-giá, Mỹ-tho, Cần-thơ, Cà-mau ... chỉ là những tên gọi hay vốn là thịt da máu huyết chảy luồn tận trong tim, đóng chốt  trong nảo từ hồi nào không biết.  

Lâu rồi, tưởng đã quên luôn. Vậy mà ... vẫn nhớ ! 

Y như ông Thế Uyên có lần đã viết, ̣đại khái như là nghe nhạc là sống lại kỷ niệm, rõ ràng, với tôi, lắm khi nghe lại những bản nhạc của một thời muốn-quên mà-cứ-nhớ đó, là sống lại y khuôn một thời quá vãng, thuở còn loi choi giữa tuổi con nít và người lớn, học đòi mơ mộng giữa thực tại và trăng sao, giữa những  nề nếp rành rọt như một bài học-thuộc-lòng. Song song với cái tuổi lưng chừng  đó là cả một thế giới âm thanh, dù phải chen lấn với tiếng đạn réo mìn gầm, vẫn  đủ sức đem lại cả một trời mơ mộng với hoa với bướm. Y như một thứ nhạc  đệm cho cảnh cũ tình xưa. Tình nào nhạc nấy. Đến lúc mọi kỷ niệm đã mù mịt,  thì những nốt nhạc cũ đó trở thành dấu chỉ cho một bước tìm về. Quê cũ. Nẻo  cũ. Nhà cũ. Trường cũ. Tình cũ ... Ôi, biết bao ân tình ân nghĩa đã bị lấp liếm  đằng sau bao nhiêu dâu bể ! Bao nhiêu dấu vết đã mờ mà cái trí nhớ còm cõi  càng lúc càng lệch lạc ! Còn lại chăng, những dòng nhạc cũ như một nhắc nhở,  dẫn đường cho những hồi ức về một cõi đời đã xa ... xa đâu đến tận ngoài tầm nhớ ! 

Nghĩ coi, một lần nào, một lần nào trong hơn mười bốn ngàn đêm sống lạc trên  xứ người, bỗng vọng lại tiếng ai hát, lẫn lẫn trong điệu nhạc rumba ... đường xưa  lối cũ, có me tôi tóc rưng rưng trong hôn hoàng .. Rồi đổi sang điệp khúc ... khi tôi về nghẹn  ngào trong nắng / tưởng mẹ tôi rưng rưng đứng đón con về / nào ngờ mẹ tôi ra đi bên kia cuộc  đời / không lời từ ly cuối cùng trước khi phân kỳ – ĐƯỜNG XƯA LỐI CŨ-HOÀNG THI THƠ. Ngay lúc  đó, nghe mà lòng không nhúc nhích thì chắc nếu không phải là Tây thì cũng là Tàu!  

Nhiều, nhiều lắm, làm sao kể ra cho xiết. Thứ ân tình, ân nghĩa đã nuôi dưỡng  hồn người bằng âm điệu ngọt ngào, đỡ đần cho những lời lẽ quen thuộc, cùng  với tám nốt nhạc nương theo năm dấu giọng đã nằm lòng ngay từ buổi mới bập  bẹ mấy tiếng mẹ cha. Tai nghe vậy mà lòng trơ trơ sao nở ?!

Đành quên sao anh, những con đường mùa trăng ấy, thao thức đêm trường nghe từng bước em  đi / Đành quên sao anh, đáy mắt hiền trong xóm vắng, nắng thu vàng nhìn ngơ ngẩn bóng người  đi -ĐÀNH QUÊN SAO-HOÀNG THI THƠ 

Từ khởi thủy, khi còn gọi là âm nhạc cải cách, đến khi bỏ chạy tuốt vô trong Nam  sau năm 54, trải suốt mấy chục năm trời nương theo dòng sinh mệnh của dân  tộc, thứ âm nhạc đó đã nói giùm cho chúng ta hết mọi nỗi niềm, từ khổ đau đến  hạnh phúc, từ kỷ niệm đến viễn mơ ..., từ một rung động nhẹ như tơ trời đến một  xúc cảm mạnh như gió bão, từ một vọng tưởng đến một hoài niệm v.v ... và v.  v... chuyện tình riêng, chuyện nước non ... nhất là từ khi cả một dân tộc vô tội bị lùa vào làm mồi cho lửa đạn vì tham vọng của một số người cuồng tín. Chính từ đó phát sinh thêm một loại nhạc mà người ta gọi là Nhạc Lính. Ở một xứ sở mà lính tráng chiếm gần 1/20 dân số, chuyện đó cũng chẳng có gì khó hiểu. Có điều  qua cái kho nhạc lính đó, người ta khám phá ra một sự thật. Trong khi những  cán binh ngoài Bắc được nhồi sọ sùng sục một mối căm thù đồng chủng ngay từ lúc mới biết đọc biết viết, người lính miền Nam, dù vẫn phải gánh trên vai cả một  núi nợ nước non vẫn là những con người bình thường, rất đỗi bình thường với  hết mọi thứ yêu thương hờn giận ... Dù cho đó có thể là một phần nguyên nhân  của cuộc bại trận tức tưởi. Nhưng biết sao hơn, làm người với đủ đầy nhân tính ! Thử nghe lại vài câu hát của Trần Thiện Thanh. 

Từ khi anh thôi học, từ khi anh khoác áo treilli / Từ khi anh xa nhà, một ngàn đêm nhung nhớ giữa trời mây / Ngại chăng dêm di hành và thường khi dừng bước giữa hoang vu / Một thằng  ước ao để một thằng khát khao, còn mình thì nằm đếm sao 

... Đồn anh bên sông cạn / Và hoàng hôn ướt đẫm đáy sông thưa / Nhiều tên trong đơn vị gọi  đùa anh chiến sĩ của mộng mơ- THƯ TÌNH CỦA LÍNH. 

 

Còn gì dễ thương mà xác thực hơn nữa. Những người trẻ tuổi, mười tám đôi  mươi từ giữa những năm 50 đến giữa những năm 70, ở miền Nam Việt Nam,  đã phải dang thân chống giữ xóm làng bằng xương máu của chính mình nhưng  chưa bao giờ đánh mất nhân tính. Họ vẫn mơ mộng, vẫn cắn răng chiến đấu và 

vẫn giữ trọn lòng nhân ái. Chẳng bù với những người đối đầu với họ ! 

Xét về phương diện nhạc lý, có thể có người cho là dễ dãi, là nghèo nàn ... tuy  nhiên thử sống lại thời buổi chiến tranh đó, khi mà mọi thứ đều gần như bị giới  hạn bởi điều kiện ... chiến tranh, ai sẽ làm hơn được nữa. Chúng ta sống thuở đó trong điều kiện sống thu hẹp, bởi mọi thứ lý do. Một bản nhạc được trình diễn  nhiều lắm với một ban nhạc năm bảy người với dàn trống, một hai tay kèn, vài  tay đàn giây ... đã là lý tưởng. Dương cầm là phải chui tuốt vô trong mấy cái  phòng trà tiệm nhảy. Còn ngoài ra, nhiều khi một cây tây-ban-cầm đã quá đủ.  Những buổi sinh hoạt ngoài trời, trong một lớp học, giữa một giảng đường, trên  một bãi cỏ cạnh cổng một quân trường ... âm nhạc thời chiến không thể đòi hỏi  hơn nữa. Vậy mà, dường như cái loại nhạc ... sến đó đã làm đủ phận mình, xoa  dịu được những nỗi lòng sầu muộn vì ngăn cách hay hớn hở khi sum vầy. Loại  nhạc ... sến đó đã thay người ta cười, khóc ... theo vận nước, thay người ta  buồn bã lúc tình xa, rộn rã khi đón người về, khóc giùm ta cho một người nằm xuống, mơ giùm ta một ngày trả súng về xây lại quê hương ... Nói sao cho hết  những diệu kỳ của sự phối hợp giữa những nốt nhạc với chữ nghĩa của một  thời. Thử một thí dụ vài ba chữ với vài ba nốt nhạc của người mà thiên hạ phong  là Ông Vua Boléro, nhạc sĩ Trúc Phương. Trong một bài hát rất được ưa thích  thời đó, thời của những trại lính, những quân trường, những trận mạc ... Bài 24  giờ phép.

 

Từ xa tôi về phép hai mươi bốn giờ / Tìm người thương trong người thương / Chân nghe quen  từng viên sỏi đường nhà / Chiều nghiêng nghiêng nắng đổ / Và người yêu đứng chờ  ngoài đầu ngỏ bao giờ 

Cửa tâm tư là mắt nên khi đối mặt / Chuyện buồn dương gian lẩn mất / Ðưa ta đi về nguyên thủy  loài người / Lời yêu khi muốn ngỏ vụng về / Ngôn ngữ tình làm bằng dấu đôi tay

Phải công nhận người ta phong vương cho ông cũng là phải. Ông đặt nhạc đã êm tai dù lắm khi lắt léo âm điệu, đảo nghịch cung bậc đến não nùng. Ông xài  chữ còn thuộc loại bậc thầy. Người con trai đi lính chỉ có được 24 giờ phép về thăm vợ trẻ, (hay người tình) mà đã mất hết 8 tiếng đồng hồ đi lại. Thời gian  không ai thúc mà cũng tự nhiên thành gấp rút. Gặp nhau rồi vội vội vàng vàng.  Khổ nỗi, bao nhiêu thương nhớ, bao nhiêu thiết tha, bao nhiêu tức tưởi ... nói  sao cho kịp, nói làm sao cho hết. Trong điều kiện không gian chật chội thời gian  hấp tấp đó, ông giải quyết cái một. Lời yêu khi muốn ngỏ vụng về / Ngôn ngữ tình làm  bằng dấu đôi tay. Nói năng lắp ba lắp bắp, mà càng gấp gáp người ta càng lập bập ... Hay nhất là để cho hai bàn tay mười ngón nói thay giùm ! Ngôn ngữ tình làm bằng  dấu đôi tay. Nhất ông, ông nhạc sĩ Trúc Phương ! Vừa gọn gàng mà sát nghĩa mà tượng hình mà ...  

Những dẫn dụ như vậy nhiều lắm, những người nhạc sĩ tài ba một thời ở đất  nước tôi. Kể ra làm sao cho hết ! Chỉ tiếc là ông trời ổng tính sao mà làm cho  ngược đời ráo trọi.

 

Nghe lại những bản nhạc thịnh hành thuở đó, và còn thịnh hành gần nửa thế kỷ sau, ở bên ngoài đất nước, hay chính ngay trong lòng đất nước đã mất, mới thắy  ảnh hưởng của dòng nhạc nhân ái đó như thế nào. Không hay sao còn làm rung  động mãi tới bây giờ ở cả hai phe vốn đã một thời thù địch. Không hay sao cứ như con phượng hoàng sống dậy từ lửa đỏ. Thứ lửa đỏ mà đám người cuồng tín  đã đốt phừng lên sau năm 75 cốt để tiêu hủy hết mọi thứ gọi là ... đồi trụy, phản  động. Vậy mà không ! Không ! Hơn bốn mươi năm sau, cái mớ phản động đó vẫn còn ... động đậy. Mà động mạnh nữa chớ. Hồi trước chỉ hát trong nhà, trong  phòng, trong rạp ... bây giờ thì hát cả ngoài đường, trên hè phố, giữa chợ cá đồng cá biển ... Hổng tin lên You tube mà coi, ở cái xứ gọi là CHXHCN Việt Nam  bây giờ, người ta đẩy cả thùng loa ra phố xá mà ca hát những bản nhạc bị cấm  đoán một thời. Nói vậy cũng không có nghĩa tất cả đều là tuyệt phẩm. Nhưng thử nghĩ coi ngó một bãi cỏ vào xuân thấy xanh mướt, vậy mà vẫn có lẫn lộn những  cọng cỏ dại đó đây. Ông trời ổng còn không cản nỗi nói chi cái đám nhốn nháo nơi cõi hồng trần. Vã lại có xấu mới thấu cái đẹp. Đó cũng là cái thói trớ trêu của  tạo hóa. Sao đem gom-đủa-cả-nắm cho đành !!! 

Lại nữa, còn nghe kể lại chuyện xưa, có một lúc nào đó, ở ngoài Bắc, ngay cái ổ của chế độ tồi tệ nhất lịch sử, vào những năm 50-60 có người còn bị nhốt lên  nhốt xuống chỉ vì cái tội mê nhạc, loại nhạc mà những kể cầm quyền gọi là Nhạc  Vàng (*). Dụng ý chắc là để phân biệt với loại nhạc đỏ ... viết bằng máu ! Nhưng  

kể ra gọi là vàng thì cũng đúng. Đó là thứ vàng thiệt vàng ròng.  Nhắc lại vậy không có ý lẫn lộn giữa dòng nhạc gọi là tiền chiến với nhạc ở miền Nam sau năm 1954, nhưng ít hay nhiều cả hai đều có chung một nguồn cảm  hứng, xuất phát từ những rung động chân thành của tình người, tình nước vốn  được nuôi dưỡng trong lòng một nền văn hóa đã ngàn năm nhân bản. Trái hẵn  với lối sắt máu của một thứ chủ nghĩa ngoại lai, được nhập cảng bằng máu,  nước mắt, xiềng xích với tù đày. Và đẻ ra thứ âm nhạc quái thai kiểu Cô gái vót chông, Cô gái SG đi tải đạn, Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân ... mà đâu đó ít lâu sau bỗng tắt tiếng im hơi vì ... chẳng còn ai muốn nghe.  

Kể lể lăng nhăng cho vui rồi lại thấy buồn buồn. Thiệt y như chuyện ... hồng  nhan bạc mệnh. Hết bị đày ải ... rồi phỉ nhổ, đủ thứ trò phụ rẫy mà sao vẫn một  dạ thủy chung hết lòng mua vui cho thiên hạ. Hổng tin, cỡ này, thời buổi đại dịch,  nếu có dịp chui xuống mấy cái hầm nhà của đám người Việt bỏ nước lưu vong,  ở mọi nơi trên mặt đất mênh mông này, sẽ thấy không ít nhà nào nhà nấy đều có “sân khấu” dựng quanh một giàn máy gọi là ca-ra-ô-kê, mà vốn liếng trình diễn  chính là mớ nhạc Việt xưa ... được (bị) gọi là ... nhạc sến đó. Kể ra cũng đỡ buồn cho cái đám lỡ làng ngay thời buổi cấm cung, có chút phương tiện để thả hồn thoát ra khỏi bốn vách nhà mà không sợ bị “lây nhiễm” ! 

Đã gần nửa thế kỷ trôi qua, tròm trèm hai phần ba đời người, những người chết  đã chết, những người còn sống lưu lạc xứ người hay vật vờ nơi đất mẹ, mọi thứ giá trị ít hay nhiều đã được sàn lọc. Cái mất đi có lý do của sự tiêu hủy. Cái còn  lại cũng có lý do của sự tồn tại.

 

Ai gọi nhạc-sến thì cứ gọi. Còn tôi, tôi nghe nhạc với tâm tình của tôi. Âm nhạc không chỉ tính bằng nốt thăng nốt giáng. Âm nhạc còn tính bằng sự rung động của những tấm lòng mộ điệu.  

CaoVị Khanh

(*) TRÍCH RFA-ĐÀI Á CHÂU TỰ DO 

Tôi sinh ra và lớn lên tại Hà Nội, bạn bè gọi tôi là Lộc Vàng vì ngày xưa tôi mê nhạc vàng, tôi  hay hát nhạc vàng. 

Nhạc vàng là dòng nhạc từ trước 1954, khi đất nước Việt Nam là một nước, thì những nhạc sĩ  sáng tác những nốt nhạc những lời văn quí như vàng cho nên người ta gọi đó là nhạc vàng .  Đấy là dòng nhạc trữ tình của Việt Nam, thí dụ như những tác phẩm của Văn Cao, Đoàn  Chuẩn Từ Linh, Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Văn Tý, Đặng Thế Phong, Châu Kỳ, và cả Phạm  Duy nữa... mà người ta gọi là nền tân nhạc cũng là đúng. 

Tù tội vì trót yêu nhạc vàng 

Năm 1965, ba cậu thanh niên cùng mê nhạc vàng là Thành, Toán Xồm và Lộc Vàng gặp nhau: 

Anh Toán nhiều tuổi hơn tôi, sinh năm 1932, còn anh Thành sinh năm 1944, hơn tôi một tuổi.  Ba anh em đều thích đàn thích hát, tập trung với nhau thành một tốp 3 người đóng cửa hát ở trong nhà. Toàn hát nhạc tiền chiến ngày xưa thôi, bạn bè ai thích nghe thì đến. Cứ đóng cửa hát với bnhau, hát dấm hát dúi, hát không cho hàng xóm nghe. Bọn tôi thậm chí một bao thuốc lá một ấm trà có thể ngồi hát thâu đêm suốt sáng được. 

-Nghệ sĩ Lộc Vàng 

Bởi duyên nợ ba sinh với nhạc vàng, ông Lộc Vàng kể tiếp, năm 1968 cả 3 anh em Toán Xồm,  Thành, Lộc Vàng bị bắt và bị nhốt tại Hòa Lò. Cho đến năm 1971 mới được mang ra xét xử tại  tòa án thành phố Hà Nội: 

Họ bảo bọn tôi phản động, tuyên truyền văn hóa trụy lạc của chủ nghĩa đế quốc, chống lại  chính sách của nhà nước, phá hoại nền văn hóa của chủ nghĩa xã hội. 

Ngưởi ta cũng nghi là bọn tôi ăn lương ở trong miền Nam, tung tiền cho bọn tôi ăn chơi. 

Kết quả, ông Toán Xồm bị kêu án 15 năm tù cộng 5 năm mất quyền công dân, ông Lộc Vàng  10 năm tù cộng 4 năm mất quyền công dân, ông Thành 5 năm tù và 3 năm mất quyền công  dân.

_____________________________________

CVK_TramTuThieng.JPG

Đã có lần viết về nhạc Trầm Tử Thiêng. Lần đó không biết sao mà bị rúng động quá mạng, tôi đã không dìm được những dư ba trong lòng sau khi bất chợt nghe được bài hát Tưởng Niệm nên đã bất chấp sự dốt nát của mình về âm nhạc, đêm về cắm cúi viết về bài nhạc đó, gần tới rựng sáng, sau một ngày vật vã chạy vạy kiếm ăn. Chẳng nhớ đã nốc bao nhiêu ng̣ụm cà-phê đen, đốt cháy bao nhiêu điếu thuốc lá thành khói ... độc. Đại khái như vầy...

 

“ ... Tôi nghe bài hát Tường Niệm của Trầm Tử Thiêng lần đầu tiên khi đang lái xe một mình trên xa lộ ở phía tây thành phố. Con đường len qua một khoảng rừng thưa, chùi xuống một thung lũng xanh mù rồi chồ̀m lên một dốc cao đúng lúc mặt trời đang lặn xuống ngay trước mặt, rải xuống trần thứ nắng quái làm hực lên giữa lòng ta cái lộng lẫy của sự thế tàn phai. Đường vắng, ngấm men rượu bạn bè, hứng chí phóng gần trăm hai trăm ba cây số một giờ. Xe hạ kiếng, gió thổi ngược thốc tháo vô mặt mũi, thổi bay tóc tai hối hả, thổi luồn vô áo thả nút ngực bung căng buồng phổi. Mắt chú mục con đường thẳng băng trước mặt, tay lái run run dù đã ghìm chặt, tim đập giựt ngược, hơi rượu bốc lên, chân ga trì xuống, trăm ba ... trăm tư ... sàn xe run run ... tay lái run run ... chiếc xe như ngựa sút chuồng ... một-xe-trong-cõi-hồng-trần-như-bay... 

... thoáng chốc tôi như bay...

... thoáng chốc, miệng hư vô hả toác hoác...

đầu óc thả lỏng như ngựa sút cương. Và một thoáng nghĩ như tia chớp, giả sử bây giờ buông tay... cái miệng hư vô táp táp... rồi phụp một cái. Hết. Ngon ơ !

... ngay lúc đó, tôi nghe từ cái máy CD mở lớn hết cở vọng ra tiếng hát ... ta nghiêng tai nghe lại cuộc đời thì hãi hùng hoàng hôn trờ tới .. giọng nam đục, khàn ... ta nghiêng vai soi lại tình người thì bóng chiều chìm xuống đôi môi ... Bài hát đến với tôi đúng nơi, đúng lúc khi  chiều vừa chạng vạng, cái thời khắc đặc biệt nhùn nhằng giữa sống và chết, giữa ngày và đêm, giữa ánh sáng và bóng tối, mặt trời với thứ ánh nắng huyển hoặc, không vàng không cam không đỏ không tím mà lại có vàng có cam có đỏ có tím, ở phía chân trời ... y như thứ màu vàng cam nóng hổi mà làm lạnh ngắt lòng người trong tranh của Van Gogh ”

 

Bài hát có cả thảy 12 câu, kể cả điệp khúc, được viết đâu từ năm 1972, theo điệu Boston, nhịp ¾, “ ton” thứ, đã được hát đi hát lại không biết bao nhiêu lần, từ sân khấu đến ngoài đường phố, từ những mấp máy môi miệng cho vui - dù đúng ra bài hát không vui chút nào - cho đến những ca sĩ chuyên nghiệp mà thật ra không chuyên nghiệp chút nào khi vô tình hay cố ý đổi một chữ tuyệt vời của tác giả, trờ tới thành chợt tới trong câu thứ nhất ! Ô hô ! Ai tai ! (*)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Bài viết đã trên dưới mười mười lăm năm. Từ đó tôi đã nghe đi nghe lại Tưởng Niệm không biết bao nhiêu lần. Có khi ngay sau hớp cà-phê và ngụm khói đầu ngày. Có khi giữa đêm khuya lơ khuya lắc khi phố người đã ngủ yên. Có khi sau một bữa tiệc cưới. Có khi sau một đám tang ma ... Gì thì gì, cứ sau mỗi bận nghe Tưởng Niệm là tôi lại thấy xốn xang. Y như có điều gì vừa vuột khỏi hồn tôi. Y như tôi vừa mất thêm lần nữa một phần đời tôi đã mất. Quê hương. Gia đình. Tuổi trẻ. Tình yêu. Hạnh phúc. Đau khổ ... Mọi thứ mọi điều, dù đã xa biền biệt lại lộn ngược về, trong tôi, để lại mất thêm lần nữa. Từ đó, nỗi buồn -không tên- không tăng thêm cấp số cộng, mà tăng thêm cấp số nhân. Từ đó ... mà lại cứ nghe hoài Tưởng Niệm của Trầm Tử Thiêng. Nghe có lạ không. Cũng là lạ. Nhưng mà ... ta-cũng-nòi-tình-thương-người-đồng-điệu !

 

Tôi không là nhạc sĩ, càng không phải là người phê bình âm nhạc, nhưng có cần không để nghe và nói về -nói thêm nữa- một bài hát ... mà thiên hạ cũng đã nhắc nhở nhiều hơn một lần.

 

Đã có ai trong khi lặn lội suốt dọc đời mình, một lần nào đó nghiêng tai nghe lại cuộc đời, ẩn dụ quá sức là độc đáo. Đời người nói chung hay đời ta nói riêng có phải là một bản trường ca hay một đoản khúc, có khi nhịp sống hối hả có khi lặng lờ, có khi dồn dập như điệu nhảy samba hay lướt thướt như bước slow dịu hoặc ... gì thì gì, đã có ai, một lần nào đó, buổi sáng buổi trưa buổi chiều buổi tối, chịu ngồi lại, nơi một góc khuất, để hồi tưởng lại chuyện mới hôm qua hay hôm kìa, chuyện tháng trước hay năm ngoái ... để suy ngẫm, để tiếc nuối hay để vui để buồn ... hay... chẳng để làm gì hết ! Cuộc sống, dòng đời, kiếp người ... đi, trôi, chảy, tuột ... dù nhanh dù chậm ... vẫn chỉ có một chiều như một con nước đổ dốc. Chỉ có xuôi theo mà chẳng quày ngược lại bao giờ. Người ta bị cuốn theo như chiếc lá bị cuốn theo chiều gió, một buổi cuối thu. Vậy rồi, đến lúc giựt mình, ngoảnh lại ...

 

Ta nghiêng tai nghe lại cuộc đời thì hãi hùng hoàng hôn trờ tới
Ta nghiêng vai soi lại tình người thì bóng chiều chìm xuống đôi môi

Ông Trầm Tử Thiêng có lúc đã làm chuyện đó. Ông nghiêng tai nghe lại cuộc đời. Giả sử nếu mượn được hình ảnh một bầy đàn đang đun đẩy nhau một cách vô thức để lũ lượt kéo đi theo một sức hút vô hình nào đó, bỗng có lúc bất chợt khựng lại – cũng vô thức như khi lũ lượt đùn đẩy nhau đi – khựng lại để vểnh tai nghe ngóng mà chẳng biết nghe ngóng cái gì !... Hình ảnh đó có bi thiết quá không khi đem so sánh với dòng nhạc mở đầu của bài Tưởng Niệm. Thiệt ra là không. Không, nên nghe lời mở đầu mà giựt mình như khải ngộ ! Nhất là khi tiếng hát dứt, tiếng nhạc ngưng, tiếng vọng âm trầm trầm quấn quíu nhau như sợi khói tàn hương khi nhang đèn chợt tắt, bỏ lại cõi trống mù mù càng làm lộ ra cái vẻ tàn tạ của sự thế oái ăm mỗi khi đời trở chứng. - Sol sol sol sol rề sol rề rê mi rề rề la sol sí - ta nghiêng tai nghe lại cuộc đời thì hãi hùng hoàng hôn trờ tới. Đô đô đô đô sì đô si si lá rề rê si la la - ta nghiêng vai soi lại tình người thì bóng chiều chìm xuống đôi môi -

 

Một cách nói khác, người nhạc sĩ ở độ tuổi mới vừa chín tới, trên dưới 30, dẫu đang đi xuôi theo dòng đời một cách thuận thảo,-hay hục hặc !?- có một lúc nào đó, chợt nhiên khựng lại, quày ngó lại ngày tháng mình đã sống, đã vui, đã buồn, đã cười, đã khóc, đã yêu thương, đã hờn giận, đã ... và  đã ... Và ông thấy gì, ông thấy hình ảnh một bóng hoàng hôn đang trờ .. tới. Rồi lại một bóng chiều đang chìm xuống. Hoàng hôn, bóng chiều là những ẩn dụ mà trong thơ văn người ta vẫn thường dùng để biểu hiện cho đoạn cuối của một sự thế đang tới hồi kết cuộc. Kiểu như cho bóng chiều rụng xuống tàng cây hay rơi trên mái nhà tranh có hiu hiu vài sợi khói. Cũng chẳng có gì là lạ. Lắm khi lại tạo cảm gíác êm đềm nữa là khác. Đằng này, ở đây, lại gây ấn tượng mạnh vì bởi hai chữ “hãi hùng”, như thứ phản ứng hốt hoảng trước một phát giác đột ngột, cực tả tâm trạng rối loạn của người trong cuộc. Hoàng hôn ở đây không còn biểu thị cho khoảng thời gian vật lý mà là biểu hiện cho cảnh tàn tạ của đời người do sự tự hủy của chính mình. Từ đó làm liên tưởng đến bức tranh Le Cri của Edvard Munch vẽ mặt người bịt tai, hai con mắt mở trao tráo như hai lỗ hủng không đáy và miệng thì há hốc mà tiếng thét vô thanh, đằng sau lưng đỏ hực lên một mặt trời chiều sắp tắt. Bức tranh được coi là biểu tượng cho cơn khủng hoảng ý thức về cuộc hiện sinh vô nghĩa của con người, những năm đầu thế kỷ 20. Sự liên tưởng làm tiếng nhạc lời ca không còn trừu tượng nữa. Bỗng dưng, mọi chuyện như có thật !

Rồi chắc để cho hồn người dịu xuống, bớt bi kịch mà thêm đôi phần lãng mạn, tác giả lại xếp cho cái đoạn cuối ngày đó, lần này, chìm-xuống trên một đôi môi vốn dĩ là cửa ngỏ của mọi sự giao tiếp. Vui buồn giận hờn yêu ghét ... gì cũng thoát ra từ hai vành môi đó. Chính trên đôi môi nào đó đã một lần thì thầm hai tiếng yêu đương. Chính trên đôi môi nào đó đã có lần làm môi giới cho sự phối hợp âm dương. Phải không ? Vậy mà lần này cũng chính từ đôi môi đó, người ta đón nhận sự tan vở. Thử tưởng đến một nụ cười nở gượng khi mọi sự đang tới hồi kết thúc. Sự tương phản của hai biểu tượng làm câu hát nghe ra như một lời thú nhận đau đớn về sự buông xuôi tức tưởi của người trong cuộc trước sự thế chẳng đặng đừng. Câu nhạc cao thấp chỉ quá một bát độ chút xíu mà vặn vẹo hồn người, ép người nghe tới chỗ đối diện với chính phận mình -nghe và nhận cho ra sự thật lấp liếm đằng sau những ma mị của tuồng ảo hóa. Để ... thấy mình quả tình bèo bọt. Nhạc và lời như ngón tay ngắt véo mấy tầng ý thức, gọi dậy hồn mê muội. Hai mươi tám nốt nhạc cộng với hai mươi tám chữ tròng tréo nhau để lại âm vang rền rĩ suốt cả hiện thân. 

Thói thường, người ta sống như một cái gì tự nhiên nhất. Như hạt giống gieo xuống đất thì nẩy mầm, như hoa búp rồi thì hoa nở. Dẫu người ta vẫn biết hoa nở rồi hoa sẽ tàn. Nhưng có mấy ai ngay khi hoa mãn khai lại đem lòng nghĩ đến lúc hoa tàn phai. Người ta còn mãi bận bịu với thứ hạnh phúc chụp bắt được. Người ta còn bận sống, thở, ăn, ngủ, làm tình ... như là sẽ thở, ăn, ngủ, làm tình ... mãi mãi. Điều ông phát giác ở đây không có gì tầm thường hơn nhưng chính cái tầm thường đó là một khải ngộ cực kỳ hiếm hoi.  Hiếm hoi và nghịch thường với phát giác của nhà sư Mãn Giác đời Lý – mạc vị xuân tàn hoa lạc tận, đình tiền tạc dạ nhất chi mai – là một phác giác của hy vọng, của niềm tin, của hạnh phúc ... Còn phát gíác, mà thật sự có phải là một phát giác, của người nhạc sĩ ở đây chính thị chỉ là sự xác nhận một sự thật nhãn tiền mà ai cũng cố tình quên lãng, cái kết cuộc y khuôn mà con người ai cũng sẽ gánh chịu như nhau kể từ khi mang-tiếng-khóc-bưng-đầu-mà-ra. 

Mấy nốt nhạc chuyển âm lắt léo dù không cách nhau quá nhiều âm vực, nghe như tiếng thở đứt hơi của một kỳ trăn trối, nếu không là vọng âm từ một cõi đời đã quá hạn. Những chữ những lời rồi ra chỉ là sự thú nhận bất lực của phần số con người trước cơn bạo hành của số phận. Mỗi câu là sự kết hợp của những nghịch đảo, khéo tới độ làm đau đớn người nghe. 

 

Đang mân mê cho đời nở hoa /chợt bàng hoàng đến kỳ trăn trối

Đang nâng niu cuộc tình lộng lẫy / bỗng ngỡ ngàng hụt mất trên tay

Đang-Thì-Chợt-Bỗng ! Cả bốn chữ đều biểu hiện cho thời-điểm-hiện-tại ( temps présent ) để ám chỉ sự trùng hợp của hai sự việc đối nghịch xảy ra cùng một lúc. Đúng lúc. Ngay bon. Cùng thời. Hình dung cuộc đời như một cái cân, bên tám lượng thì bên kia phải nửa cân. Cho bằng. Cho đều. Vui một, buồn một. Vui hai, buồn hai. Làm như cuộc đời lúc nào cũng rình rập, so đo ... để bù đắp hay trả đủa cho xứng với những vọng động của con người. Buồn. Vui. Khổ đau. Hạnh phúc. Rồi có phải chỉ là hai mặt phải-trái thiệt-giả của cùng một thực thể. Hay chỉ là những giả tưởng mà thế nhân đã quay theo mòng mòng suốt một đời, phù thế. 

Cái lắt léo của những phận người ... thấu thị là ở chỗ biết vậy mà không tránh khỏi, biết vậy mà cứ vướng mắc như bầy dơi mù lòa. Rồi người ta buồn một họ buồn hai. Người ta khổ hai họ khổ bốn. Tính như vậy mà lũy thừa lên theo cấp số nhân. Ôi cũng một giống nòi tình, biết vậy mà cứ đâm đầu vô. Ờ mà không đâm đầu vô làm sao đời còn có những câu chữ sắc mắc làm thương tích những trái tim sầu muộn. Không đâm đầu vô làm sao đời còn nghe được những uẩn khúc đoạn trường. 

Từ câu hát đầu tiên, rõ ra, chúng ta chỉ là những kẻ nhẹ dạ chơi trò cút-bắt với định mệnh. Tất cả, rồi ra chỉ là những trễ tràng, những hụt hẫng, những trúc trắc, những ngộ nhận ... Tất cả, rồi ra chỉ là những bất khả, kể cả tưởng đã nắm chặt trong tay rồi ra cũng chỉ phù du. Con người có khác gì một loài thiêu thân lao đầu vào vũng sáng để châm lửa vào mình làm cuộc tự thiêu bất tận. Cái còn lại lả gì nếu không phải là tro than của cuộc đuổi bắt trường kỳ và vô vọng của con người. Hạnh phúc mà người ta tưởng vừa níu bắt được rồi ra chỉ là ảo giác của những ước muốn vô vọng của chính mình. 

Y như đứa bé chơi trò bong bóng nước. Vừa thấy đó, vói tay chụp bắt thì chiếc bóng đã vỡ tan. Nghịch thường hơn nữa là khi chiếc bóng nước tan ngay trên mấy đầu ngón tay vừa vói tới. Đang nâng niu cuộc tình lộng lẫy, bỗng ngỡ ngàng hụt mất trên tay. Thử tưởng đến tình cảnh những tình nhân trễ tràng. Có phải càng muộn màng thì cuộc tình càng lộng lẫy ? Ờ mà có cuộc tình nào không lộng lẫy. Nhất là khi đời đã trễ muộn. Đó có phải biểu tượng đúng nhất cho sự tréo nghoe thường hằng của kiếp làm người. Trong thiếu hụt càng làm tăng ham muốn. Càng ham muốn càng sinh ảo giác. Cuộc tình trễ muộn nào rồi cũng lộng lẫy như bong bóng nước. Càng cay đắng càng vọng tưởng-vọng tưởng như để bù lại chỗ thiếu hụt. Rốt lại, cái ảo giác lộng lẫy vừa là phần thưởng vừa là bản án cực hình của kẻ yêu đương trái mùa trễ chuyến. 

Chẳng vậy mà người xưa cứ hay dùng hai chữ “con tạo” như một đứa bé nghịch ngợm để ám chỉ những khúc khuỷu của đường đời. Cuộc đuổi bắt hạnh phúc của đám nhân loại nghĩ ra ngây thơ đến tội tình. Hay đúng ra, con người được tạo ra chỉ để làm đồ chơi cho ... cho một trò chơi tung hứng ! 

 

Điệp khúc có bốn câu, cắt ra tám vế ngắn ngủn, gọn bâng như một bài thơ năm chữ mà nói ra trăm điều, bổ xung cho cái khám phá hãi hùng về ý nghĩa của cuộc nhân sinh.

 

Ta khổ đau một đời, 

để chết trong tình cờ
Ta tìm nhau một thời,

để mất nhau vài giờ
Bàn tay làm sao níu,

một đời vừa đi qua
Bàn tay làm sao giữ, 

một thời yêu thiết tha

... như thêm lời giải thích cho đoạn rao giảng mở đầu. Không thấy sao ? Không hãi hùng sao được khi ngày chưa đi mà hoàng hôn đã trờ tới, rõ ràng là cái bất khả đã nằm trong khả thể, y như Nguyễn Đình Toàn có lần cũng đã hô hoán lên ngày thần tiên em bước lên ngôi đã nghe son vàng tả tơi. Lần nữa, Trầm Tử Thiêng liệt kê ra những dấu hiệu của một cuộc chạy đuổi trong vô vọng.

Này, có chạy tìm nhau cũng chỉ để mất nhau, có nấn níu dằng co trì kéo thì rồi cũng sẽ vuột nhau vì một khi đã ngược chiều với vòng quay của định mệnh thì dẫu có thiết tha cách mấy cũng chỉ để ... ngậm ngùi. Mỗi câu hỏi được đặt ra đã chứa sẵn trong đó câu trả lời phủ định. Nhất ông ! 

Đời người có phải là một cuộc trường chinh bắt đầu từ số không để về tận đến ... số không. Có thực hay không, cái kinh nghiệm sống khủng khiếp đó. 

 

Bốn câu đầu như là một cáo thị chung chung cho cái đám nhân quần còn đang lăng xăng với trò chơi đuổi bắt đó. Đến bốn câu cuối mới thiệt là lời tự sự với chính mình. 

 

Mang ơn em trao tình một lần là kỷ niệm dù không đầm ấm
Mang ơn em đau khổ thật đầy là nắng vàng dù nhốt trong mây
Mang ơn trên cho cuộc đời ta vài vạn ngày gió cuồng mưa lũ
Trong cơn đau một vừng nhang khói kéo ta về, về cõi hư vô .

Nhìn ngó quanh quanh rồi nhìn lại đời mình. Sau hết, cái còn lại ? Tiền tài ?  Công danh ? Sự nghiệp ? Tất cả rồi từa tựa áng mây trôi. Có ! Không ! Không ! Có ! Cái có thật còn lại, sau cùng, phải chăng chính là sự kết hợp với tha nhân. Cái còn lại, sau hết, là mối giao tình giữa người với người. Bốn câu cuối của bài hát nghe ra như một lời tạ tình vô cùng hào sảng.

Hồn sắc sảo bao nhiêu thì lòng đôn hậu bấy nhiêu. Chuyện yêu đương hẵn vui ít buồn nhiều, vậy mà ở cuối con đường suy niệm về lẽ vô thường, ông còn quày trở lại để được một lần nói hai tiếng tạ ơn. 

Quả là một người thủy chung rất mực, tình dẫu ba đào nhưng còn đó, những dư ba. Bởi vậy, làm sao mà quên phứt cho đành. Sau rốt, ông tìm quay lại với cái một-nửa của mình, cái thiết-thân-một-thời, cái đã có lần để hồn chìm trong đáy mắt, cái đã có lần níu chặt trong tay, kề sát bên vai ... đã cho ông nếm vị đắng của những lời tình ngọt, lẫn lẫn với vị ngọt của một đời tình lỡ. Hạnh phúc có thật hay không, phải chăng chính là chút vui vầy khi còn đôi lứa. Dẫu rồi có dở dang hẵn cũng đã có lần đưa nhau tới mấp mé cửa thiên đàng. Làm sao mà không biết ơn nhau cho đành. Ôi diệu kỳ cho dù chỉ còn là kỷ niệm, dẫu chỉ một lần trao tình cũng đã đủ giúp nhau chạm mặt hạnh phúc ! Mấy tiếng mang-ơn nghe ra sao mà chân tình quá đỗi ! Vừa tha thiết vừa trân trọng. Ân cần đến độ ai đó chắc mũi lòng. Đã có lời nhạc tình nào mà nhân nghĩa tới vậy đâu ! 

Ôi ông Trầm, nghe ông là người ít tiếng kín lời mà sao lời nào ông nói nếu không xoáy đau tới tâm phủ thì lại nghe ra mát rượi như nước mưa tắm gội giữa trưa hè quê mẹ ! Xin cúi đầu tâm phục. 

 

Nhạc tây nhạc tàu gì không biết, nghe nhạc ông tôi chỉ nghe ra tiếng thì thầm u uẩn của một tấm lòng nhân hậu. Quãng đại. Sắc sảo mà chân thành. Chân thành đến nỗi làm muối mặn đọng lòng, ngay cả người nghe là người dưng nước lã. Đã vậy, nói chuyện tư riêng cũng chỉ là để bắt quàng sang chuyện lớn, chuyện trời cao bí hiểm, chuyện đất sâu huyển hoặc, chuyện thiên địa mang mang, chuyện nằm tuốt trong sâu thẳm mấy tầng vô thức ... Gì thì gì, một khi đã ló mặt ra với cuộc đời này - dù không được hỏi ý kiến ! - bổn phận đầu tiên và sau cùng của con người là sống đời mình cho đúng nghĩa ... làm người. Còn ngoài ra thì phó mặc cho ... định mệnh !

 

Cuối lời, như còn cố thêm một dặn dò :

 

Mang ơn trên cho cuộc đời ta vài vạn ngày gió cuồng mưa lũ
Trong cơn đau một vừng nhang khói kéo ta về, về cõi hư vô .

quả là minh triết ! Dẫu biết thiên-địa-bất-nhân-dĩ-vạn-vật-như-sô-cẩu mà vẫn tâm đại lượng, không oán trách cũng chẳng kêu than, chấp nhận mọi việc mọi sự như vậy là vậy. Như thị. Hơn nữa, bài hát nghe thì như kêu rêu mà nghĩ lại thì còn như một lời tạ ơn nữa. Tạ ơn đời mặc mưa-cuồng-gió-lũ. Tạ ơn người mặc kỷ-niệm-không-đầm-ấm. Thắm thiết biết bao lời dặn dò, gởi lại. Nghĩ lại coi, không phải vậy sao. Dẫu mưa nắng giá băng lắm khi trái ý nhưng nghĩ cho cùng, ơn nghĩa trời đất và cuộc đời dẫy đầy ra đó. Cốt yếu là mình có nhận ra được không. Một buổi mai, sau trọn đêm tuyết lạnh, hừng sáng, mặt trời hiện ra, chói lọi một vừng hào quang, xuyên qua hết mọi tầng mây, len qua hết mọi lớp không khí vẩn đục, chiếu thẳng vào góc bàn viết có chậu cúc vàng vừa nở trái mùa, có khác gì mấy lời phủ dụ của thiên nhiên. Lần khác nữa, tình cờ đọc được đâu đó một câu thơ, chữ nghĩa vần điệu mơn man nhau mướt rượt nghe như ai đó vỗ về làm nỗi sầu riêng bỗng dưng rồi nhẹ hửng. Góc núi, lưng đồi ... một buổi chớm thu, tiếng chào, câu hỏi ... mỗi lượt đi về ... mỗi mỗi đều chứa trong đó thứ ân sủng của trời đất và lòng người, mãi mãi có đó, ràn rụa như sương mai. Vậy mà không mang ơn thì còn biết mang gì cho khỏi cồng kềnh cái phận người đã quá đỗi đa đoan.

 

Sau hết, bài hát kết lại một cách gọn bâng :

Cuối cùng, mọi thứ mọi điều, giàu nghèo sang hèn đẹp xấu tài hoa hay thô kệch... mọi kiểu mọi cách, thành công thất bại, hạnh phúc hay khổ đau ... rốt lại chỉ là ...

chỉ là :

Một vừng nhang khói

Kéo ta về

Về cõi hư vô.

Nói gì cho đúng hơn nữa. Đoạn kết hẵn là đoạn đành. Nhưng có nói ngược lại được đâu. Chắc vậy cho yên, lòng thôi vọng đọng.

 

Câu cuối, nhạc xuống “ton”, người hát hạ giọng, luyến láy làn hơi lên bổng xuống trầm, ngân dài mặc tình theo hơi thở rồi bỏ trôi theo nốt cuối lưng lửng, không cao không thấp, lưng chừng ... làm cõi quạnh quanh quanh tưởng như tấm màn the có hơi gió thổi nhè nhẹ lắt lay theo, người nghe nín thở để hồn lặn truồi theo dòng cảm xúc, lung lay theo cung nhạc rồi nhè nhẹ, nhè nhẹ buông xuôi, buông xuôi tới tận ... cõi hư vô !

 

Ông Trầm, ông làm nhạc mà như giảng kinh. Nghe mà rã mềm phế phủ, cảm như có vết mực loang ra trên tờ giấy thấm, càng lúc càng đậm đặc ... 

 

Mà thiệt tình, tui có muốn tu đâu !!!

 

 


 

VIẾT THÊM 

Chắc cũng nên dông dài thêm chút đỉnh về những nhạc phẩm của Trầm Tử Thiêng, đặc biệt là phần viết lời. Ai sao không biết, chớ tôi nghe nhạc của ông mà lắm khi cảm chữ nghĩa (lời) của ông như một cõi thơ rất riêng. Chữ nghĩa thường bình dị, nhưng đặc biệt ở chỗ bình thường mà không tầm thường. Vấn đề là đặt chữ đúng chỗ của nó, chữ có thể bỗng dưng ảo hóa thành mỹ từ như phù thủy. Có những chữ như trong ngôn ngữ nói hằng ngày, không cao xa cũng chẳng hoa mỹ, có khi quen thuộc, vậy mà chọn đúng nơi đúng lúc cộng thêm cái nốt nhạc đúng độ đúng “ton” làm người nghe cảm thấy... thốn tận tâm can. Kể cả cách đặt câu, có khi gần như phá thể, như một ý hướng tìm tòi đột phá, làm mới ngôn ngữ vậy.

Nội cái chữ “trờ” trong câu hát đầu tiên đã là một diệu thủ của chữ nghĩa. 

 

(*)TRỜ ( hoàng hôn trờ tới)

“Trờ tới”  y như cầm dao mà cứa thịt. Chặt cái bụp ít đau. Cứa, đau gấp bội. Chữ nghĩa của người ta diệu kỳ như vậy mà quí vị ca sĩ nam nữ bất chấp, cứ ngang nhiên ngân nga thành ... chợt tới. “Chợt”, phù bình thanh, cụt ngủn cụt ngẳn, phát ra không có âm vang. “Trờ”, trầm bình thanh, âm phát ra tự nhiên kéo dài, mới diễn tả hết ý được sự cò kè, cù cưa, trì kéo của ... định mệnh. 

 

-Thử ráng phân tích thêm một chút về nghệ thuật viết lời ( văn ) của tác giả.

Câu hát áp chót - Mang ơn em đau khổ thật đầy là nắng vàng dù nhốt trong mây. Tuyệt vời ! Thử tưởng ra một buổi chiều có nắng mà đầy mây. Nắng thì vàng hực mà mây thì xám xịt. Hai màu sắc tương phản như vui với buồn. Mặt trời lặn chậm như không muốn lặn. Đám mây vô định thì cứ vẩn vơ qua lại như không biết chỗ phải ngừng. Cứ như vậy mà lắm khi vô tình nhốt sắc vàng lộng lẫy buổi chiều hôm đằng sau lớp màu xám chẳng ra xám đen chẳng ra đen. Sự tương phản đó là ẩn dụ vô cùng thi vị cho một nỗi buồn thất tình bị giấu kín, giấu kín đằng sau bộ mặt giả bộ trơ trơ, đằng sau những cử chỉ ra bộ dứt khoát ... mà trong lòng thì ruột đứt không biết bao nhiêu khúc ... mà đau khổ không biết bao nhiêu lần ... mà tình yêu cũ, trễ, lỡ ... vẫn sáng lán trong thăm thẳm lòng, y như nắng vàng bị nhốt trong mây. Có biểu tượng nào cho chuyện thất tình đẹp và rộng lượng tới vậy đâu ! Viết nhạc mà như nhốt thơ vào trong đó, quả là tài hoa hết mức. 

 

Ôi văn chương âm nhạc ai đem chia biệt cho đành !

 

Lang bang thêm chút nữa, nghe thêm nhạc của Trầm Tử Thiêng, lại nghĩ ra một điều : trong nỗi buồn riêng ông, luôn luôn lẫn lút nỗi buồn chung về quê hương và thân phận con người của một thời quá đỗi điêu linh. Lắm lúc nghe mà tưởng như đọc rồi chìm lĩm trong thơ Tô Thùy Yên với những chữ những nghĩa u trầm như vọng về đâu từ một cõi nào xa mút cõi người 

 

Ôi những bậc “vương tôn miền trí tuệ” ! -chữ của Tô Thùy Yên-

 

cvk

cvk_TTThieng_tuongniem.JPG
CVK_Signature.JPG
CVK_TenDangTu.png
CVK_Thư gởi thơ không gởi.JPG
CVK_Lonkhoi.png

 Từ tiền chiến, Nguyễn Xuân Sanh, người làm thơ tượng trưng đã viết một câu tượng trưng hết sẩy. Thư, gởi. Thơ, không gởi. Thư, gởi. Thơ, không gởi.

 

Năm chữ ngắn ngủi, cộc lốc, rạch ròi đủ tỏ ra cái vẻ dứt khoát, thẳng thừng, không có gì để bàn cải nữa. Thư, viết thì gởi – dẫu đã có biết bao nhiêu lá thư đã được viết ra mà không được gởi kiểu ông Lôi Tam từ những năm sáu mươi. Nếu em trách tôi sao hờ hững, tôi chỉ mỉm cười mà chẳng dám thanh minh. Em đâu biết tôi đã thức suốt năm canh viết lên bóng tối muôn vạn bức thư tình chẳng bao giờ chấ́ ́́m dứt ... (Ờ nhưng mà đó lại là chuyện khác, thứ chuyện nhủn nhẳn nhùng nhằn, loại có có không không ma mị của địa hạt ... ái tình !). Còn thơ, dù viết, làm hay mần gì cũng đều dứt khoát là không gởi. Đã có lần Dương Khuê nói về cái chuyện thơ-không-gởi này nghe mà thương hết sức. Câu thơ nghĩ đắn đo không viế́ ́́t. Viết đưa ai ai biế́ ́́t mà đưa.

 

Gởi hay Không gởi. That is the question.

 

Từ đó đặt ra mối tương quan giữa thơ và người làm thơ với người đọc thơ. Và như vậy không khéo lại lần xần đụng chạm tới cái chuyện nhức đầu kinh niên của nhân loại. Nghệ thuật vị cái gì, vị nghệ thuật hay vị nhân sinh ? Ôi cái chữ “vị” tội nghiệt, đầu mối của bao nhiêu oan trái ! Cái vấn đề bất kham, to lớn, nặng nề, nhức đầu, mệt óc, làm bộ làm tịch, kiến trắng gọng vàng … mà chẳng đem lại được chút gì “thư giản” cho cái cõi thế nhân đã quá đỗi bôn ba. Nhất là chẳng thêm thắt được chút gì mặn ngọt cho nghệ thuật mà hương vị vốn đã đủ mùi. Trong khi văn-chương-hạ-giới thì cũng vẫn cứ rẽ-như-bèo y như thời ông Tản Đà đã có lần cảm thán.

Vã lại, này ... quân bất kiến hoàng hà chi thủy thiên thượng lai bôn lưu đáo hải bất phục hồi ... ! (*)

 

Vậy thì còn bày đặt làm chi mà gởi hay không gởi.

Thì cũng bởi cái thói thày lay, thấy đâu nói đó, mà nói rồi thì bỏ. Cho vui.

 

Vấn đề không phải là gởi hay không gởi. Vấn đề là có gì để gởi hay không. That is the question.

 

Cái chuyện thư thì chắc khỏi nói khỏi bàn. Còn lại cái chuyện thơ, thì có nói có bàn tới mơi cũng không hết. Đã không hết mà cũng không thông. Và chắc chắn là chuyện đâu còn nguyên đó, kiểu như ... cạn ly đầy rồi rót đầy ly cạn. Chỉ tội cho mấy cái vỏ chai không rồi bỏ lăn lóc giữa đàng.

 

Như vậy, thư thì bảo đảm gởi dẫu không phải lúc nào cũng cần gởi bảo đảm thư. Hổng gởi sao viết. Thăm hỏi. Tỏ tình. Kể lể. Xin xỏ. Hăm dọa. Đòi tiền đòi nợ. Vân vân và vân vân ... Có một ngàn lẻ một lý do để viết một lá thư. Đầu thư thì đề ngày đề tháng đề năm. Cuối thư thì ký tên (thiệt giả thì lại là chuyện khác).

Luận văn thị phạm đã rành rành như vậy. Thơ, làm thì làm, mần thì mần. Vậy thôi. Có khi có chuyện gì đó thì làm mà có khi không có chuyện gì hết cũng mần. Lu bu là ở chỗ đó. Rồi có khi có chuyện thì hay mà không có chuyện gì hết cũng hay. Lại lắm lúc có chuyện mà lại dở òm. Cho nên gởi hay không gởi cũng là ở đó.

 

Nguyễn Xuân Sanh. Quỳnh hoa chiều đọng nhạc trầm mi. Hồn xanh ngát trở dấu xiêm y.

 

Gởi cái gì trong hai câu thơ này. Mà gởi để làm gì. Trong bao nhiêu người đọc có bao nhiêu người hiểu. Mà hiểu, chắc gì đã hiểu đúng. Mà thế nào là đúng thế nào là sai. Hơn bốn mươi năm trước đọc tới câu Kiều biế́ ́́t thân đến bước lạc loài nhụy đào thà bẻ cho người tình chung đã tấm tắc khen hay. Bốn mươi năm sau đọc lại cũng thấy hay. Cái hay trước là cái hay của cô Kiều tiếc nuối cái chuyện để lỡ của cổ. Cái hay sau là cái hay của chính mình tiếc nuối cái chuyện bỏ lỡ của mình. Cái tiếc sau nó đau hơn cái tiếc trước. Vậy thì cái tiếc nào đúng ý Nguyễn Du hơn. Hiểu hơn (khác) cái ý của tác giả có phụ lòng tác giả không ?

 

Người ta cứ hay than phiền cái chuyện vẽ rắn thêm chân. Rồi người ta cũng đã bỏ ra không biết bao nhiêu công sức để tra cứu, hiệu đính, bổ túc, đính chánh ... cốt để phục hồi cho bằng được nguyên bản của các tác giả cổ điển. Làm như lộn một chữ, sai một nghĩa là phản bội tổ tông. Vậy chớ chừng cắt nghĩa, bình giải ... đã chắc gì đúng phóc cái ý của ông bà, đã sống và làm thơ từ vài ba mươi năm, một hai trăm năm trước. Đời xa người cũng xa. Hổng chừng hồi nẳm khi làm thơ ổng bả đâu có nghĩ như trong mấy cái cái cuốn giảng luận giảng văn sau này mà bao nhiêu thế hệ học trò trung học đã dùi-mài-kinh-sử. Mình có phải là bà huyện của huyện Thanh Quan đâu mà dám biểu bả không có tình ý gì khác hết ngoài cái tình non non nước với phu phu phụ phụ cùng ông huyện Thanh Quan trong hai câu kẻ chố́ ́́n chương đài người lữ thứ lấy ai mà kể nỗi hàn ôn. Trang Tử đâu có phải là cá mà nói đúng chuyện cá.

 

Hồi còn dạy học, khi giảng Chinh Phụ Ngâm tới câu nhủ rồi nhủ lại cầm tay, bước đi một bước giây giây lại dừng, trước mấy chục cặp mắt nai tơ (hay gấu con) đang hau háu nhìn lên thán phục, tôi hay nổi hứng bất tử bỏ bài bản sửa lại theo cái câu đã đọc được đâu đó một lần nhủ rồi nhủ lại cầm tay, bước đi một bước lại vin áo chàng. Chắc bà Đoàn thị Điểm điềm đạm đoan trang hơn tôi (cái đó là cái chắc) nên chỉ dám đứng ở xa xa mà dùng dằng nửa đi nửa ở. Chớ còn tôi thì tôi khoái cái kiểu tình-tứ-sát-mà-không-sát của cái động từ “vin” hơn nhiều. Đọc lên nghe đã đã mà nghĩ ra lại còn đã hơn nữa. Nấn níu. Muốn kềm mà không dám. Muốn buông mà không đành. Sao mà tình tứ, dịu dàng, e ấp, vịn mà không vịn, rờ mà không rờ, níu mà không níu. Chỉ “vin” thôi !

 

Ôi cái cảnh biệt ly sao mà lê thê đến vậy ! Mà giảng như vậy có quá ý bà Đoàn thị Điểm hay là có bị gán cho cái tội phạm thuần phong mỹ tục hay không (chắc là có !) Tôi không biết. Có điều tôi cóc cần. Hai ba trăm năm qua rồi. Người làm thơ làm theo ý mình. Tôi đọc thơ theo ý tôi. Mấy ông khoa bảng học giả nghiên cứu gia ... làm chuyện của mấy ổng. Tôi đọc thơ (làm lại thơ) theo tâm hồn tôi, theo “sáng tạo” tôi ... nghĩa là thơ có chủ ý gởi hay không, tôi cứ nhận theo cách của tôi vậy.

 

Thư, gởi. Thơ, không gởi.

Vì thơ không gởi nên cái chuyện lu bu ở trên càng dễ tính hơn nữa. Người làm thơ, trước hết, làm thơ là làm cho chính mình. Kể cả mấy bài thơ tán tỉnh tỏ tình ... có kêu tên khai tuổi hẳn hoi. Đầu tiên và sau cùng, hồn thơ vẫn là của riêng tây, nỗi xúc động, cơn hứng tình vẫn mãi là cái hoạt động bí ần và cá nhân nhất của mỗi người, cho nên thơ, đầu tiên và sau cùng, vẫn mãi riêng là của người đó. Cô tình nhân, bà hàng xóm, nàng láng giềng ... hay gì gì đi nữa vẫn là ngôi thứ hai, vẫn là cái vật ngoại thân -cùng lắm là đối tượng mà hể là đối tượng tức là có ta và người (cái lối mơ mơ màng màng mình-với-ta-tuy-hai-mà- một-ta-với-mình-tuy-một-mà-hai chẳng qua là lời dỗ ngọt khi người ta tìm cách trộn lộn vào nhau máu huyết xương thịt, chớ còn chuyện thơ văn thì ... thiệt tình là … hồn ai nấy giữ ). Mọi thứ, kể cả trời trăng mây nước, mùa màng thời tiết, hoa lá với bướm ong, mỹ nữ với giai nhân, v.v... và v.v... mọi thứ mọi vật mọi người mọi chuyện trên cái cõi đời chằng chịt giây mơ rễ má này đều có thể trở thành chất xúc tác, tạo cảm hứng để làm thơ nhưng rồi ra cũng chẳng ăn nhằm gì hết với cái hoạt động bí ẩn, mù mù mờ mờ không có gì là luận lý ráo trọi của cái-việc-gọi-là-làm-thơ. Dẫu có nói là hứng tới đâu mà làm không ra thơ là ... không ra thơ. Làm thơ ! Đó là một hoạt động trí năng ở mức độ sơ đẳng nhất, nghĩa là hồn nhiên nhất. Dẫu có học thiên kinh vạn quyển, có vài ba cái bằng bác sĩ, thạc sĩ, tiến sĩ ... ( ý là chưa kể đến mấy ông phó-tiến-sĩ ở quê tôi vốn đã mất dạng đằng sau không biết bao nhiêu là tầng khói-sóng ), nghĩa là chữ nghĩa dù có đào luyện trau dồi nhuần nhuyển cách mấy đi nữa, ngôn ngữ có uyên bác tới đâu đi nữa mà không làm được thơ là không làm được thơ ! (dĩ nhiên ở đây nói thơ là thơ chớ không phải là mấy bài vè quảng cáo, mấy câu gọi là thơ-chúctết của ông-bác-đã-chết-mãi trong-lòng-chúng-ta, hay chúc thọ chúc phúc lẫn nhau mỗi năm tết đến ... )

 

Như vậy nếu có gởi cũng chỉ là một tác động phụ thuộc, thứ yếu. Bài thơ trước sau vẫn là của riêng người làm thơ. Không gởi.

 

Vậy, nếu đã không có chủ ý gởi thì cái việc nhận là chủ ý của người đọc. Chính người đọc tìm đến với thơ, chính người đọc thơ làm cái việc mà người làm thơ không màng tới mà dẫu có màng tới cũng chẳng thể sơ múi được gì. Thơ không ra thơ thì dẫu có tiền vàng bạc biển người ta cũng không mê. Thơ mà hay thì dẫu có đào mồ chôn kín cũng có ngày người ta đào lên mà mằn mò mê mẩn. Cái đẹp tự nhiên của thơ hay nói chung của nghệ thuật là ở đó. Người làm thơ lơ lửng như trăng và người đọc thơ cũng lửng lơ như gió. Gió đưa trăng thì trăng đưa gió. Nó lả lướt, lãng ̣đãng, nhẹ nhàng và phiêu hốt vậy đó. Ở đây không ai trách nhiệm với ai, không ai dụ dỗ ai, không ai đổ thừa cho ai hết. Ở đây là một cuộc đối thoại thầm lặng, bi tráng và tự chủ. Gió đưa trăng thì trăng đưa gió.

 

Xuân Diệu. Ai đem phân chất một mùi hương.

Hay bản cầ̀ ̀̀m ca, tôi chỉ thương

Chỉ lặng truồi theo dòng cảm xúc

Như thuyền ngư phủ lạc trong sương

 

Vâng, đọc thơ là vậy đó. Đọc thơ là trực giác. Đọc thơ, khoái thì nói khoái. Không khoái là không khoái. Có một sát na gì đó không ăn khớp. Có một mảy may nào đó bị trật chìa. Khỏi bỏ công tìm hiểu, khỏi thắc mắc lôi thôi. Không ai mượn.

 

Toại Khanh. Ba ngàn thế giới vo tròn

Nhỏ lên giọt mực chỉ̉ ̉̉còn trang thơ.

 

Đủ quá rồi. Nói gì nữa. Hãy im lặng cho bằng cái im lặng trầm thống của thơ. Người làm thơ đã không có ý gởi thì người đọc thơ cứ sảng khoái mà đọc thơ. Đừng khiên cưỡng làm chi mà tủi hồn thơ. Người làm thơ đã làm thơ trong tình cảnh cô độc cùng cực của mình. Khi đó chỉ có hắn trực diện với đoạn trường mình, chỉ có hắn đánh đu với định mạng mình, chỉ có hắn xoay trở với tài hoa mình ... Làm được thơ hay không cũng chỉ có hắn và hắn mà thôi, không vợ con bồ bịch nào mó vô được cũng như không có chính ủy với đảng ủy nào xía vô được ...

 

Thì người đọc thơ, một cách công bằng, hãy tôn trọng cái tâm cảnh nghiệt ngã mà vô cùng ngạo nghễ đó. Nghĩa là hãy đọc vì mình chớ không vì người. Nghĩa là hãy đọc rồi chờ cho tiếng thơ đó lắng dội vào lòng mình ... những dư ba !

 

Và từ đó, mỗi một người thụ cảm một cách riêng, bằng kinh nghiệm của chính riêng mình. Không ai giống ai.

 

Và điều đó cũng có nghĩa là, bạn ơi, hãy ngạo nghễ làm thơ. Làm thơ cho mình và không gởi. Mà có gởi đi ( đi đâu? ) thì cũng coi như gởi-gió-cho-mây-ngànbay kiểu như hai ông Đoàn Chuẩn với Từ Linh đã gởi từ mấy mươi năm trước. Ai có đọc thì cám ơn. Mà không đọc được ... cũng cám ơn.

 

Cao Vị khanh

(*) Tương tiến tửu-Lý Bạch

_______________________________________

CVK_thang9.JPG
CVK_thangchin2.JPG

Tháng     chín          cvk          

CAO VỊ KHANH: Lệ ngoài thiên thu:

le-ngoai-thien-thu-cvk-1.pdf | Cao Vị Khanh (caovikhanh.com)

CVK_Le ngoài thiên thu.JPG
cvk_conhan.jpg

CAO VỊ KHANH: Như khói như sương

http://www.caovikhanh.com/pdf/nhu-khoi-nhu-suong-cvk.pdf

nhu-khoi-nhu-suong-cvk.pdf | Cao Vị Khanh (caovikhanh.com)

CVK_nhukhoinhusuong.JPG

CAO Vị KHANH: Làm thơ thời chiến

 

http://www.caovikhanh.com/pdf/lam-tho-thoi-chien.pdf

CVK_Lamthothoichien.JPG

Năm 72, giặc đánh lớn, lệnh đôn quân. Học trò giữa năm đệ nhị đệ nhứt quá tuổi ấn định được gọi trình diện Trại nhập ngủ số 4.
Mấy đứa con trai mặt mũi non choẹt, thằng dửng dưng, đứa mếu máo cùng ông thầy trẻ chênh lệch nhau chừng vài tuổi kéo nhau ra quán bày tiệc bồ đào. Rượu vào lời ra. Và thơ ra luôn. Ngày mai em xa trường. Chiều nay uống rượu suông. Em mời tôi quán nhỏ. “ Dô”, thầy. “ Dô”, lệ tuôn. 

Không khí bữa đó đã chờn vờn đâu sẵn mớ dấu hiệu phong ba. Mấy trận đánh lớn ở Quảng Trị, cao nguyên và Vùng ba từ vài tháng trước như còn thổi tạt mùi khói súng khét lẹt xuống tận mấy cái khu phố đồng bằng vốn yên tỉnh như mặt nước biển của một vùng vịnh kín ... Chiều gần tắt mà nắng còn lướt thướt rướm vàng trên mấy đọt sao thưa. Quán là một căn nhà vách ván lợp tôn được ngăn ra làm hai. Một nửa trước được chủ nhân kê mấy bộ bàn ghế cũ, ọp ẹp làm nơi tiếp khách. Và nửa sau độ chục thước vuông làm nơi ăn ở cho gia đình với hai đứa con nhỏ. Người chồng là thương phế binh, giải ngủ với cánh tay cụt. Người vợ, khuôn mặt lúc nào cũng đỏ hồng vì lửa củi, đôi khi vừa nấu nướng vừa chăn giữ hai đứa nhỏ. Quán còn một cô gái nửa tỉnh nửa quê làm chiêu đãi, đi ra đi vô bưng dọn, thỉnh thoảng nháy nháy con mắt hiền khô liếc tình mấy chàng chuẩn-chiến-binh mặt mày còn búng ra sửa. Hẵn cô đâu biết chiều nay cái quán nhỏ xập xệ của cô bỗng trở thành một quán biên đình, chỗ chia tay “ hảo hớn” !
Sau mấy tuần rượu nếp than đỏ quạch, bữa nhậu chỉ còn là một cái cớ. Học trò có đứa mới uống rượu lần đầu bắt đầu rươm rướm nước mắt, có đứa lì lợm hơn không khóc mà con mắt bỗng dưng hiền khô như mắt nai. Từ quầy thu tiền, cái ra-dô-ấp-chiến-lược vừa phát ra bản tin chiến sự trong ngày. Lại ... quân ta vô sự, địch bỏ lại mươi ... con.

Ông thầy có một lúc cũng không nhớ mình làm thầy, gật gù cụng ly rồi lẩm nhẩm mấy câu thơ tàu cho học trò mình nghe ... khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu ... tây xuất Dương Quan vô cố nhân ... Học trò nửa hiểu nửa mù mờ cũng gật gù làm ra vẻ thấm thía lắm, ngửa cổ nốc ực cái ly cối bự tổ chảng ... làm trai thời chiến ... anh đi quân dịch là̉ thương nòi giống ... 

                                                                                                                     Ngày mai em xa trường
                                                                                                                 Chiều nay uố́ng rượu suông

                                                                                                                            Em mời ta quán nhỏ
                                                                                                                          Dô, thầy. Dô, lệ tuôn !

Vậy đó, có một thời người ta sống giữa cái chết. Và người ta làm thơ. Mà thơ tận tình. Móc ruột moi tim ra mà làm. Từ đó thơ bay phơi phới giữa khói súng và lằn đạn. Từ đó thơ bay thênh thang trên hoang tàn của sông nước và thương phế của lòng người. Thơ lênh láng như vết thương hở miệng nhưng thơ không nhuốm máu căm thù. Thơ chỉ biểu lộ lòng nhân hậu ngay cả khi hồn thơ còn bị dùi vập trong sắt thép đạn mìn, hầm chông và sự cuồng tín ngu muội. 

Đọc lại trong một số báo cũ, bài thơ của Nguyễn Bắc Sơn về cái chuyện người lính sáng sớm đi kích đêm về, ghé quán vệ đường khi áo trận còn nhuốm lạnh mùi sương, ngồi ghếch chân lên bàn, vừa nhấm nháp cái vị đăng đắng của cốc xây-chừng nóng hổi vừa hít hít cái mùi khen khét của khói thuốc Ruby-quân-tiếp-vụ ... mà biết mình còn sống ... (và hẵn rằng lẫn trong đó, mơ hồ một niềm vui mỏng manh khi thấy cuộc sống chung quanh vẫn còn tiếp diễn bình thường sau một đêm căng cứng trên đầu súng mình canh giữ )

                                                                                Người lính đêm qua đi kích về ghếch chân lên ghế
                                                                                              Chiếc xe chở những ổ mì vàng nóng hổi
                                                                                                        Cười nụ cười đầu tiên trong ngày
                                                                                                                  Và bật que diêm hút thuốc

 

Sao tôi yêu cái hình ảnh đó quá. Ghếch-chân-lên-ghế. Nó kiêu kỳ một cách lặng lẽ. Nó du côn một cách thi vị. Và nó lãng-mạn-tiểu-tư-sản một cách hồn nhiên. Và que diêm. Và khói thuốc. Và mặt trời sẽ mọc. Và một ngày sẽ đến. ... Nghĩa là tôi chưa chết. Nghĩa là cuộc sống vẫn còn đó với đủ thứ mật ngọt và trái đắng, còn đó với đầy đủ môi hôn - môi hôn lần tới sẽ khít khao hơn và tay nắm - tay nắm lần tới sẽ ghịt riết hơn, còn đó với đầy đủ chuyện như ý và bất như ý, chuyện trong sạch và chuyện tham nhủng, chuyện anh hùng và chuyện cà-chớn nghĩa là còn đủ thứ hầm-bà-lằn-xắn-cấu chuyện đáng nói và không đáng nói ... mà còn chuyện gì nữa ở đằng sau những thi ảnh quen thuộc đến tầm thường mà lại chân thật hơn bất kỳ thứ lý tưởng nào được kê trong những tuyên ngôn lằng nhằng như toa thuốc bắc – tiền đồn chống cộng, chiến sĩ tự do ... kể cả độc lập, tự do, hạnh phúc dù có được viết hoa thiệt bự. Đổi cái huy chương anh dũng bội tinh với cái bữa điểm tâm sơ sài đó, chắc có người không đổi ! Tôi biết đối với một người thường - chữ thường được hiểu như là ... thường, thì cái chuyện uống ly cà-phê buổi sáng cũng sẽ đăng đắng mà trưa trưa chiều chiều thì ly cà-phê cũng đắng đắng y chang. Còn lại cái loài thi sĩ thì là cái giống khác. Một người làm thơ gốc lính khác, Trần Hoài Thư, dù trong cái buổi sáng sớm y như trăm ngàn buổi sáng khác, vẫn tìm ra trong đó một ... vị thơ.

                                                                                                                   Gọi cốc cà-phê un khói gió
                                                                                                      Mấy thằng râu tóc chụm thanh xuân
                                                                                                          Vách trống, sát vào nhau đỡ lạnh
                                                                                                    Trời ngoài kia sương phủ mênh mông

 

Cà-phê ở đâu, thời nào cũng là cà-phê. Mà sao cà-phê trong thời loạn lạc đó nghe ra nó phê mút chỉ. Thì cũng là loại cà-phê bít-tất trong một góc quán vệ đường, thứ quán xá mở cửa thật sớm cho những người mất ngủ – dân lao động, gái giang hồ, lính tráng ... trở về sau những cuộc mần ăn đêm. Chỉ khác cái chỗ cà-phê ở đây không ướp va-ni, không trộn xác cau khô hay pha chút sái nhựa, cà-phê này lại đi un khói-gió - thứ gió Lào khô khốc, thứ gió chướng thổi bung tóc mai dựng đứng tóc gáy, thứ gió bấc cứa xương đục đẽo lên mặt người nỗi đau của đá ... cho nên cà-phê, chất cà-phê thi vị đó trở thành chất xúc tác huyền nhiệm làm bật dậy cuộc sống, như để dằn xuống một đêm ( tai ương ) vừa qua và chào đón một ngày ( hy vọng ) sắp đến. Chất cà-phê pha loảng mà đặc quánh hơi thở nhịp tim của những người trở về từ một cõi chết. 


Thôi, chắc lại sắp vẽ rắn thêm chân ... 

Có điều trong suốt cuộc-chiến-gọi-là-ý-thức-hệ đó ( tính luôn cả hai bên nam bắc với lại mớ đồng-minh-da-trắng-đồng-chí-da-vàng đó ) có mấy ai làm thơ ngông nghênh mà hiền như cục đất vầy chưa 

                                                                                                             Nếu mai đụng trận ta còn sống
                                                                                                           Về ghé Sông Mao phá phách chơi
                                                                                                            Chia sớt nỗi buồn cùng gái điếm
                                                                                                               Đốt tiền mua vội một ngày vui
                                                                                                                                                  NBS

Nghe mà thương ơi là thương cái đám lính tráng thời loạn đó. Đi trận mà, rừng bịt mắt, bùn níu chân, cực khổ cầm chắc, chết chóc không chừng, lần này về, lần tới biết có về không ... thì thôi về được thì ghé xóm thăm-dân-cho-biết-sự-tình một phát cho chắc ăn, rồi sao nữa tính sau. Cái nhân sinh quan đó, nếu gọi được là nhân sinh quan, nghe nó vừa chịu chơi vừa bi quan quá thể. Tại vậy thơ đọc thì tai nghe vui mà lòng thì ngẫm ra mấy nỗi ngậm ngùi. Có phải chính sự bức bách của tình thế, sự mập mờ của ý thức, sự lẫn lộn của màu da ... đã làm thơ ra nỗi ấy. Tuy nhiên cái điều kỳ diệu là dù có bi quan cách mấy thì vẫn còn đó cái tính nhân bản cố hữu và tuyệt vời đã làm thơ nhìn thấy những điều khó thấy trong cuộc chiến-tranh-mà-mắt vừa qua 

                                                                                                                  Cô hàng ơi cho một ly không
                                                                                                              Tôi rót mời một người lính Bắc
                                                                                                     Hắn nằm banh thây dưới hầm bí mật
                                                                                                          Trên người vẫn còn sót lại bài thơ
                                                                                                                                                    THT

Bài thơ trên xác kẻ địch ! Thi ảnh đẹp đến rợn người. Thử tưởng đến cảnh đạn xẹt tứ tung, khói súng khét lẹt, máu me tùm lum, thịt thà nát bấy ... mà đâu đó lấp ló tỉnh bơ một trang thơ mới làm ( thơ = trời xanh mây trắng, thơ = nhớ cha nhớ mẹ, thơ = hoa bướm rủ ren, thơ = nhớ bồ nhớ bịch ... ) Vấn đề là làm sao cho con mắt thấy ( đã lắm khi con mắt nhìn trao tráo mà chẳng thấy gì ráo ! ) Và làm thơ cũng từ cái thấy của con mắt nhân ái đó, phải không ?


Hỏi khắp cả bộ-đội-xẻ-dọc-Trường-sơn-đi-cứu-nước ( kể cả anh nuôi chị nuôi tập kết nằm vùng ... ) có ai trong suốt cuộc-chiến-giải-phóng-thần-thánh vừa qua đã lần nào nhìn thấy trên khuôn mặt xác chết lính miền Nam một nét gì thân thiện, đồng chủng, anh em, ruột rà ... , đã có lần nào “ bức xúc ” dù chỉ một thoáng, dù chỉ một chớp mắt băn khoăn ... ? Hay chỉ thấy toàn ác-ôn-mỹ-ngụy-mặt-xanh-nanh-vàng ... dù người chết đã ... chết ! Hay đã có mà không dám lộ ra ! Hay chỉ mới chợt thoáng nghĩ là đã hốt hoảng lảng qua chuyện khác vì sợ kiểm thảo, sợ phê bình, sợ mất lập trường, sợ xuống cấp, sợ mất chế độ, sợ học tập, sợ cải tạo, trăm thứ sợ làm tê liệt thần kinh như con chuột xuội lơ trước cặp mắt hớp hồn của loài rắn độc. 

Nhớ cái thời sau 75, ở miền Nam nghe loáng thoáng người ta nhắc hai câu thơ của ai đó – ai mà biết ai, mà có lỡ ai biết thì có đường tác giả đi cải tạo mút mùa – mà hổng chừng cũng đã biệt tăm mất dạng hồi nào trong cái mê cung tẩy nảo chỉ có đường vô không có đường ra. Thơ, thơ lắm chớ. Mà không ai nhận –ai mà dám nhận – đành bỏ làm thơ hoang !  Đôi dép râu buộc chặt đời trai trẻ. Nón tai bèo che kín cả tương lai.
À thì ra vậy. 


Có lúc cái đám bộ-đội-tình-nguyện-xung-phong đi B hay cái đám du-kích- khăn-rằn cũng hơi hơi hay xém xém lao chao chút đỉnh. Nhưng rồi đường lối chỉ đạo vừa sâu vừa sát vừa át vừa ép nên cả đạo quân viễn chinh vẫn tỏ lộ trên dưới một lòng, cả ngày cả đêm khăng khăng nói quyết tới cái chuyện ôm-bom-ba-càng hay lấp-lổ-châu-mai ... bất kể cha già mẹ yếu vợ dại con thơ, phó mặc nhân tình nhân ngải cho Bác lo, bỏ xó nhà cửa ruộng vườn cho Đảng ôm trọn... miễn sao chiếm cho được cái vựa lúa miền Nam để có ngày dưng cho quan thầy phương Bắc, thành ra rốt lại cả mấy chục năm ròng rã đóng chốt trên chiến trường miền Nam không nghe ra được nửa tiếng thơ nhân ái ...

Tại vậy làm sao không vẽ rắn thêm chân cho đành, những  bài thơ được làm ở miền Nam trong một thời chiến trận mịt mù mà hồn thơ không vướng víu chút mảy may thù hận.
Hãy thử đọc lại coi. 

Có phải câu hỏi của Tô Thùy Yên trong bài Chiều trên phá Tam Giang vẫn mãi là ngón tay tra vấn gỏ hoài lên tấm cửa định mệnh cứ đóng bít bùng

 

                                                                                                                Nghĩ cho cùng, nghĩ cho cùng
                                                                                                Ví dầu các việc ngươi làm, các việc ta làm
                                                                                                                             Có cùng gom góp lại
                                                                                                     Mặt đất này đổi khác được bao nhiêu
 

 

Câu hỏi đẩy sự bất lực của bậc vương-tôn-miền-trí-tuệ đến chỗ cực cùng trước nỗi hung hãn bất kể của thiên-địa-bất-nhân. Hay chính là lời tán thán ai oán của kẻ sĩ  trước thứ bạo lực mù quáng của Ác tính đội lốt con người. 

Đọc lại nữa coi, Nguyễn Bắc Sơn, kẻ-sĩ-xuân-thu đầu thai nhầm lúc nên đi đánh giặc mà như đi rong thuyết khách, giận-đời-ghê-những-bàn-tay-bẩn-đưa-đẩy-ngươi-trong-cát-bụi-mù. Làm sao, làm sao giữa thời buổi bom đạn hỗn mang và lòng người nhiễm độc đó mà thơ thoát ra, lau lách như khói hương và hiền lành như tâm Phật

 

                                                                                                        Một ngày chúa nhật phơi giày trận
                                                                                                             Ta bỗng tìm ra một vết thương
                                                                                                           Vết thương bàng bạc như là khói
                                                                                                           Ngưng đọng nhà ai ở cuối đường
                                                                                                                                                    NBS

 

Vết-thương-như-là-khói.  Ẩn dụ bao nhiêu, bao dung bấy nhiêu. Vết thương không còn là dấu tích của thù hận. Vết thương thành khói bay đi phải chăng chính là niềm ao ước xóa bỏ hận thù ngay từ lúc hận thù còn được tận dụng như  vũ khí của chiến tranh. Ước vọng đó có thật trong lòng người miền Nam ngay trước khi bại trận. Phải chi lịch sử đổi ngược lại chắc khỏi phải kêu rêu ra rả tới bây giờ. 

Kêu ra rả tới bây giờ như tiếng quạ gọi âm hồn dội động u u giữa vòm đêm lịch sử mà vẫn không xóa được nỗi oan khiên của một dân tộc bị lường gạt.

                                                                                                                        Lũ quạ trốn đi từ dạo ấy
                                                                                                            Để giờ đây kêu động rừng phong
                                                                                                          Quạ gọi bầy tháng năm tháng bảy
                                                                                                          Sao ta gọi bầy thăm thẳm mù tăm
                                                                                                                                                     THT

 

Làm thơ là đem tấm lòng thiên cổ đọ với nhân gian. Thì sá chi chuyện chim sẻ mà làm bợn lòng hồng hộc.

 

Chiến tranh dẫu ba mươi, năm mươi năm vẫn là giai đoạn. Đánh giặc là chuyện đoản kỳ. Làm thơ mới là chuyện mai hậu. Sống trong thời buổi chiến tranh, làm thơ hẵn không tránh khỏi lòng thòng phe kia phái nọ. 
Mà điều để cho thơ mang tiếng bất nhân âu cũng là điều bất nhân lắm vậy. 

Cũng may, ngay trong thời súng đạn, còn có những bài thơ làm với mấy tấm lòng đã sống vượt qua cái thời giặc giã. 

 

 Cao vị khanh

* Thơ văn chỉ là phù hoa. Chớ cái biển oan khiên của người bại trận có tát đến ... khuya cũng không cạn được giọt nào! 

 

____________________________
 

 

 

 

 

 

 

lục bát cao vi khanh__________________

VÌ EM, LỤC BÁT SỤT SÙI

VÌ EM, LỤC BÁT DẬP VÙI BIỀN DÂU

 

ĐẠO NGỘ GIỮA ĐƯỜNG

Chào em conm ắt người dưng

Con tim ngoan cố rưng rưng ngươi tình

Con đường trở chứng điêu linh

Tình in như có mà hình như không.

 

CÕI TRONG

Ơi nhân gian, cõi vô cùng

Trống trơn cõi có, bít bùng cõi không

Trong ta cõi đặc chập chùng

Trong em, khe hở, cõi chung, não nùng.

 

VỊ TÌNH

Giùm anh nếm chút miếng ngon

So đôi đủa lẻ môi còn rượng môi

Miếng buồn trộn với miếng vui

Chấm thêm miếng nhớ nuốt trôi vị tình

 

YÊU CHẾT

Mốt mai mắt lệ có đầ y

Con tim xây xát có trầy trật yêu

Ruột đau c ó đứt chín chiề u

Người ơi nối sợi tơ điều, buộc thêm

 

THƯ GIẢN

Ví dầu thư giản, thảng dư

Gặp nhau trong cõi cộng trừ tử sinh

Thì xin chia cái thình lình

Để trăm năm khỏi giựt mình, tủi thân.

 

TÌNH HỜ

Xa nhau chăn chiếu lạnh giường

Tay trơn lạnh nhớ, mình suông lạnh thèm

Đau tình, trăng bệnh, buồn thêm

Thơ đau kêu tiếng, thịt mềm đau im

Lập lờ ngọn sáp đau chìm

Phần em, em giữ. Tôi ghìm phận tôi.

Tình hờ, đau nỗi chẻ đôi! *

 

Lục bát để lại cho em

L à thơ? Hay chỉ ... từng đêm ngậm ngùi!

C A O V Ị K H A N H

 

VÍ DẦU, LỤC BÁT ..

CÂU SẦU

Nửa trăng, gối chiếc gợi hình

Nghiêng vai gợi nhớ, trở mình gợi nhau

Tóc mai gợi mấy câu sầu

ăn-cơm-chẳng-đặng-ăn -trầu-giải-khuây *

 

TÓC MAI

Vẻ duyên thì cũng một thời

Chính chuyên thì cũng một đời, chiêm bao

Câu vui ai đổi câu sầu

Áo xưa còn nhớ qua - cầu -gió -bay

Ví dầu em chốn trang đài

Cũng xin mấy sợi tóc-mai-vắn-dài

Lỡ sau trínhớ tàn phai

Cũng còn biết chỗ thương -hoài-ngàn -năm *

 

* ca dao

 

ƠN EM

Ơn em ngọt suối ngọt đồi

Ngọt sông, ngọt nước, ngọt trời biển tôi

Ngọt ngày tháng đã mù khơi

Ngọt sầu hận cũ, ngọt lời oán than

Ngọt niềm lo, nỗi hoang mang

Ngọt chia cách, ngọt tình lang mỏi m òn

Ơn em, ngọt xớt môi son .

 

RU EM

Trong ta, em ngủ giấc nồng

Trong ta, bờ bến không cùng đâu em

Trong ta cỏ mịn nhung mềm

Trong ta rả thịt lót êm chỗ nằm

Trong ta còn giọt lệ câm

Từ thiên cổ lụy lâm râm mưa về

Này em, tim dựa gần kề

Ngủ ngoan đi nhé, ta lê cuộc đời .

 

KIM CHỈ

Tay em xe sợi chỉ điều

Sợi phăng mối cũ, sợi lần gút xa

Sợi cào thịt, sợi xước da

Sợi đau rối chỉ, sợi tà mũi kim

Sợi nào xỏ cũng luồn tim .

 

KÝ THÁC

Ví dầu lục b át lao xao

Gởi cho em, giữ bể dâu chuyện mình

Rủi mai, lỡ có làm thinh

Xa nhau còn biết chỗ mình … chiêm bao!

 C A O V Ị K H A N H

 

CHỖ TRĂM NĂM ĐỌNG NỬA TA ... NỬA MÌNH

RỦ

Mời anh sông núi suối nguồn

Rong chơi cuối bải đầu cồn thiết tha

Đi về những chỗ lá hoa

Chỗ trăm năm đọng, nửa ta nửa mình.

 

DỤ

Như trời dụ đất ra cây

Như trăng dụ gió, như mây dụ mùa

Như sương dụ nắng về mưa

Như anh dụ bướm về đùa quanh em .

 

YÊU CHẾT

Cho nhau tới cái tận cùng

Cho nhau quá cái não nùng thịt da

Cho nhau từ cái xuýt xoa

C ái rên rỉ, cái h ít hà bậm môi

Cho nhau từ giọt mồ hôi

C ái xuôi thuận thảo, cái trồ̀̀̀i ngược ngang

Cái cong nhánh liễu sẽ sàng

Cái sâu thấu tận, cái ràn rụa đau

Cái vật vã của tình sầ̀̀̀ u

Nửa trong -nước - mắt, nửa ngầu - đục -mê .

 

TAN CHẢY

 Đã trong nhau, đến sát cùng

Đã tận tuyệt đến vở bùng trăng sao

Đã siết chặt đến nghẹn ngà o

Đã tan thành nước chảy vào thiên thu.

 

SỢ

Rờ tay em cái sợ mòn

Ướm môi em cái sợ son phai hường

Yêu em sợ nát chiếu giường

Không yêu bỏ cái vô thường, tội ghê!

 

CÕI TÌNH

Trăm năm trong cõi lộn vòng

Kẻ xuôi người ngược phập phồng xôn xao

Trăm năm trăm cách lộn vèo

Cách nào cũng chỉ nôn nao một gò!

C A O V Ị K H A N H

____________________________

CÓ MỘT THỜI THỦ ĐỨC

        Thơ Trần Bang Thạch & Cao Vị Khanh                                     

cvk_giaysaut.JPG

trần bang thạch

VIẾT TỪ KBC 4100

THƯ CHO HỌC TRÒ Ở CHÂU ĐỐC

Thanh gươm cật ngựa lên đồi

Từ đây thầy đã thành người đao cung

Những đêm ứng chiến mịt mùng

Mưa Tăng Nhơn, nhớ nước nguồn Thất Sơn

 

THƯ CHO VỢ CON Ở CẦN THƠ

Một mai trả súng lại đời

Ta về ngủ thiếp bên người tình chung

Bên ta con ngủ an lành

Bên ta vợ bỗng trở mình, gọi : Anh

 

THƯ CHO SƠN Ở HỘI AN

Mầy còn ở đó không Sơn

Mả mồ mày chắc cỏ non úa vàng?

Tao ngồi đây giữa chiều tàn

Nhìn quanh quanh thấy hàng hàng mộ bia!

 

THƯ CHO NGƯỜI TÌNH PHỤ Ở ĐẠI HỌC XÁ TRẦN QUÍ CÁP

Con đường còn xanh lá me

Em còn kẹp tóc còn che dù điều

Trời còn làm gió hắt hiu

Ta còn ngồi nhớ thật nhiều dáng em

 

T R Ầ N B A N G T H Ạ C H

cvk_ThuDuc.JPG

cao vị khanh

CHÀO THỦ ĐỨC

 

Theo mưa Thủ Đức ta về

Chào Tăng Nhơn Phú chào bè bạn xưa

Chào hàng bã đậu, lá thưa

Chào nắng ngày lửa, chào mưa đêm mù

Chào ba-lẻ-một, cơm tù

Theo em nhảy phố đền bù trúc mai

Ngôn-ngữ-tình, dấu-đôi-tay (*)

Lời yêu chưa kịp đã ngầy ngật xa

Chào ly rượu nếp bê tha

Bốn giờ sáng đứng la đà điểm danh

Chào Phú Nhuận chào Hàng Xanh

Chào chị-em-mới chào anh-dẫn-đường

Chào tuổi trẻ, đường chiến binh

Chào mày-đã-chết-mà-tình-còn-đây

 .............................

Chào Thủ Đức, cuối chân mây

Chào nhau con mắt ... đã lầy vết thương

Chào sỏi đá vũ đình trường

Chào hồn sông núi còn vương ... nỗi niềm

 

C A O V Ị K H A N H

(*) Chữ Trúc Phương

_________________________-

CVK_RachGia.JPG
NguyetMai_Tavenhinlai.JPG

Thơ Cao Vị Khanh - Trần Thị Nguyệt Mai              

 

RẠCH GIÁ

 

Nếu có lần người về qua Rạch Gíá

Ghé giùm tôi dãy phố cũ sậm màu

Bước giùm tôi hè đá lở thấp cao

Dẫm lại nhịp bước xuân thời phiêu lãng?

 

Có một thuở trời miền Nam rực nắng

Áo dài bay thổi gió suốt lòng trai

Tuổi đương thì hừng hực tưởng chừng say

Áo phanh ngực hứng đầy hương gió bạn

 

Nếu có lần người về qua Bến Cảng

Tìm giùm tôi chiếc cầu đá vẹo xiêu

Ngồi giùm tôi góc quán nhỏ vắng thiu

Còn vết khắc tên người xưa bạc phận?

 

Nếu có dịp người về qua một bận

Ghé giùm tôi ngôi trường cũ xanh rêu

Nhìn giùm tôi hàng khuynh diệp liêu xiêu

Có sót dấu chim bầy xưa, tứ tán?

 

Thương quá đỗi bóng mùa đi lãng đãng

Chút nắng vàng, chút khói nhẹ, chút sương bay

Chút gì say hong má đỏ hây hây

Nghe trong gió có chút gì lãng vãng

 

Ôi thương nhớ lúc năm cùng tháng tận

Lạnh xóm nghèo ngõ hẹp tối buồn hiu

Ngọn đèn treo không đủ ấm cơm chiều

Nghe áo mỏng nhắc chừng cơn bấc hẹn

 

Người có về xin cho tôi được nhắn

Cho gởi lời thương nhớ dẫu xa xôi

Góc đường quen phố thuộc, nửa môi cười

Và chút gió gợn tóc ai nhuộm nắng

 

Nếu người về lỡ ai tìm hỏi bạn

Cho gởi lời tạ lỗi dẫu muộn màng

Chén trà khuya, hơi thuốc đẫm thâm ân

Và tay chuốc rượu nồng đâu đã cạn

 

Người có nhắn, chắc chỉ toàn u ẩn!

Bao nhiêu sông, ngàn con nước chìm sâu.

Có ai còn ngồi khóc dưới chân cầu

Đời đã muộn cho những lòng lận đận!

 

C A O V Ị K H A N H

________________________

TA VỀ NHÌN LẠI

Kính tặng anh Trần Bang Thạch

 

Ta về nhìn lại muôn nơi

chẳng còn đâu nữa bóng người ngày xưa

khuất xa mấy nẻo đò đưa

sông buồn bến lặng nắng mưa vỗ về...

 

T R Ầ N T H Ị N G U Y Ệ T M A I

______________________

CVK_TuyButThangTu.JPG

Giả sử bắt chước Thanh Tịnh ...

... Hằng năm cứ vào cuối thu, khi lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm hoang mang của  buổi tựu trường ...

mà viết lại ...

... Hằng năm cứ vào đầu xuân khi lá ngoài đường trổ xanh và trên không bỗng bay về những bầy chim trốn tuyết, lòng tôi lại xốn xang những kỷ niệm bàng hoàng của buổi tan trường ... năm đó.

 

Nghĩ ra mà thấy ông Thanh Tịnh may mắn hơn chúng ta. Ông giữ lại mãi trong trí nhớ ông hình ảnh một kỷ niệm ôi-thương-làm-sao của buổi tựu trường đầu tiên trong đời. Đứa bé lên năm lên bảy, tóc tai chẻ thẳng đường ngôi, quần áo tươm tất hơn mọi khi, vai đeo cặp hay tay cầm sách vở, tay nắm tay mẹ hay cha, đi những bước chân nhún nhảy như chim sẻ, buổi sáng đầu tiên đi học. Có thể nó sẽ học đến nơi đến chốn. Có thể không, lở dở nửa chừng. Nhưng hề gì, điều quan trọng là nó đã được sống thứ giờ khắc hiếm hoi mà người ta chỉ bắt gặp một lần trong một đời. Y như Thanh Tịnh đã viết thêm. Con đường này tôi đã đi lại lắm lần nhưng lần này tôi thấy lạ. Và ông khẳng định ngon ơ. Thấy lạ vì ... Tôi đi học. 

 

Ờ có những chuyện người ta hay quên. Cũng như có những chuyện người ta cứ nhớ ... Nhớ, quên là những thuộc tính tiên thiên của con người. Có điều người ta có thể chọn lựa giữa nhớ hay quên hay cũng chỉ là những ngẫu nhiên như những tình cờ ngẫu nhỉ, nói theo điệu ông Bùi Giáng. 

 

Vậy đó, có những chuyện muốn nhớ lại cứ quên. Ngược lại, nhiều chuyện đáng quên lại cứ nhớ.

... Hằng năm cứ vào đầu xuân khi lá ngoài đường trổ xanh và trên không bỗng bay về những bầy chim trốn tuyết, lòng tôi lại xốn xang những kỷ niệm bàng hoàng của một ngày tháng tư ... năm đó.

Dĩ nhiên, chuyện đáng quên mà cứ nhớ của tôi hay của hằng triệu người miền Nam Việt Nam vốn dĩ là những kỷ niệm nhuộm đầy máu và nước mắt và uất hận. Máu thì đóng vảy rồi tróc mất. Nước mắt khóc cho cùng rồi cũng cạn khô. Sao lòng ta vẫn cứ tức tưởi như u ẩn hoài một oan ức không thôi. Chuyện xảy ra, đã 46 năm, thêm ba bốn năm nữa là đã trọn một nửa vòng thế kỷ. Nếu được đúc khuôn thành tượng đồng kỷ niệm, hẵn đã đóng mờ không biết bao nhiêu là lớp bụi thời gian. Khổ nổi, muốn gói lại, giấu kín, chôn sâu mà sao lại cứ y như Tú Xương khi con sông Nam Định ở quê ông bị lấp kín, cứ đêm nghe hoài ... tiếng ếch bên tai, giật mình lại tưởng tiếng ai gọi đò. 

Chuyện con sông với cái bến đò nào đó, một khi bị dẹp bỏ, đâu phải chỉ có riêng ông là chịu thiệt thòi. Hẵn, bao nhiêu người qua lại mỗi ngày, ai chắc cũng có đôi điều tưởng tiếc. Nhưng đôi ba ngày, đôi ba tháng ... rồi thôi. Sao riêng ông, ông cứ thấy ngậm ngùi !

Tại người hay tại mình cứ chuốc lấy cho mình mọi điều phiền não. Chuyện đất nước, tai họa là tai họa chung. Ai nấy đều có phần. Hẵn nhiên chia đều cũng là điều không tưởng. Tuy nhiên, sao lại giành chịu cái phận hẩm hiu. 

 

Những năm 80, khi mới bỏ xứ trôi dạt tới xứ người, tình cờ đọc được đâu đó mấy câu thơ của Thanh Nam, người văn thi sĩ vốn là tay phong lưu tài tử một thời, cũng đã bỏ Sài-gòn và đang lưu lạc đâu đó trên dãy lục địa mênh mông ...

 

Biền biệt thời gian mòn mõi đợi

Rối bời tâm sự tuyết đan tơ

Một năm người có mười hai tháng 

Ta chỉ năm dài một tháng tư (*)

 

Đọc thơ người mà lấy làm cảm thán phận mình. Nhưng rồi lại nghĩ đó là ... thơ. Mà thơ thì đôi khi hay bốc lên như khi diều gặp gió. Người làm thơ lắm khi vì vần điệu, đôi khi chữ nghĩa lại ra tuồng ẩn dụ ... nhiều khi ý tại ngôn ngoại ... v.v... và v.v... Nghĩ vậy rồi thôi. Rồi chúi đầu vọc tay vào ba cái chuyện kiếm miếng ăn mà ... tìm quên. Nhưng không. Không !

Không phải vậy. Ông Thanh Nam làm thơ mà nói thiệt. Ta-chỉ-năm-dài-một-tháng-tư.

 

Một năm qua. Hai năm qua. Ba ... Bốn ...

Mỗi cái tết tha hương đến, lòng lại nhớ cha, nhớ mẹ, nhớ anh em ruột thịt, nhớ lan đến cả bè bạn thân sơ. Nhớ mùi hương khói đêm ba mươi trừ tịch, cả nhà quây quần cúng rước ông bà. Mà riết rồi cũng chẳng phải đợi đến tết nhứt. Bữa nào cũng nhớ. Đi chợ tây lại nhớ phố xá thứ bảy chiều Lê Lợ̣i. Húp miếng súp đậu lợn cợn thịt thà lại nhớ phở Pasteur. Gặm miếng pizza mà nhớ khúc bánh mì thịt nguội Dakao thay bữa cơm cuối tháng. Táo tây, nho Mỹ, cam Maroc, khóm Mễ Tây Cơ ... gì cũng mặc. Cắn miếng nào nhớ miếng nấy. Từ miếng khóm ngọt lịm khi xe qua cầu Bến Lức tới giỏ mận hồng đào khi đợi phà Mỹ Thuận qua sông. Nhớ hơi nồng ly rượu đế Đường Xuồng đưa cay bằng hớp canh chua cá bông lau Rạch Giá ... Nhớ thê nhớ thiết nhớ riết rồi quanh đi quẩn lại nhớ thơ Thanh Nam. Ơi hởi quê hương bè bạn cũ. Những ai còn ai mất giữa sa mù. Mất nhau từ buổi tàn xuân đó. Không một tin nhà một cánh thư (*). Rồi chém chết cũng lại Một năm người có mười hai tháng. Ta chỉ năm dài một tháng tư (*) !!!

 

Mỗi tháng qua, cộng trừ nhơn chia, chuyện vui, chuyện buồn, chuyện xăng nhớt thịt cá, cà-phê thuốc lá, văn thơ phim ảnh, thuế má v.v... và v.v ... , tính tới tính lui, cái còn lại, cái còn lại là một khoảng trống không bờ không bến, rộng đến bơ vơ, cái còn lại là một sự hụt hẩng triền miên năm này qua năm khác. Là ...công cha nghĩa mẹ ơn thầy, phố đêm Lê Lợi đường ngày Tự Do, là bến nước cầu ao, là bụi tre khẳng khiu gốc chuối xơ xác, là lộ đá khấp khểnh cầu khỉ lêu khêu ...  là ... là ... Y như người thi sĩ dày dạn phong trần đã nói ... Ta chỉ năm dài một tháng tư !!! Y chang. Đúng phóc. 

Xa quê rồi là thiếu mọi thứ mọi điều. Mà nguyên nhân rốt lại cũng chỉ từ một tháng tư. Tháng tư, năm đó !

Tháng tư vì vậy trong câu thơ không còn để gọi ngày kêu tháng, tháng tư ở đây là biểu hiện của một sự mất mát thường xuyên, một sự thất thoát miên trường. Hóa ra câu thơ là một lời tiên tri thấu thị. Ta chỉ năm dài một tháng tư. Hóa ra tháng tư là biểu hiện của một thứ hố-đen thăm thẳm, đã hút mất dìm sâu trong đó tất cả Sài-gòn, Huế, Nha Trang, Quảng Nam, Quảng Ngải, Phan Thiết, Phan Rang, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Cần Thơ, Sa Đéc, Rạch Giá, Cà Mau ... đã lấp kín vùi sâu trong đó hết mọi nơi chốn ta đã sanh ra, đã lớn lên trong tay cha mẹ bế bồng, đã trưởng thành với ruộng lúa trổ đòng đòng, với tép tôm thịt cá ê hề, với gói xôi lá cẩm, viên chè xôi nước, ơ cá kho khô, dĩa tép rang muối ... với lễ phép dạ-thưa, kính trên nhường dưới, với lời căn dặn lá-lành-đùm-lá-rách, với câu ca dao ngọt xớt, bài vọng cỗ mùi rệu, điệu hát huê tình mộc mạc mà lẳng lơ hết mức lẫn trong tiếng ầu ơ êm ái như tiếng lá tre xao xác ngoài hiên ... Còn nữa, còn cả một nền giáo dục nhân bản và khai phóng, dù chưa hẵn là hoàn mỹ, vẫn đủ chắp cánh cho tuổi trẻ miền Nam bay suốt những vùng trời kỳ ảo mà nhân loại đã nối tay khai mở, chẳng bù với lớp tuổi đồng lứa ở phía Bắc, bị bịt tai che mắt suốt hơn hai mươi mấy năm trời ... Còn nụ hôn đầu vụng về lén lút, núp sau gốc me già ... Còn nữa ... Còn mớ sách vở từ ông bà rồi cha mẹ để lại mà trên từng trang giấy in đầy chữ nghĩa như thêu hoa kết bướm, chắt lọc từ bao nhiêu tinh hoa của dân tộc, sau bao nhiêu thăng trầm của lịch sử... Mà làm sao kể hết, làm sao tính hết những của cải vật chất và tinh thần bị cướp giựt ngay từ khi giặc mới tràn về. Rồi làm sao nhớ hết những bỏ quên, những mất mát, những rơi rớt dọc theo bao dặm đường lưu lạc ... kể từ sau cái tháng tư quái ác như trận nổ hồng hoang, xóa sạch hết mọi truyền thống nghĩa nhân từ thuở 18 đời vua Hùng lập quốc ... 

 

Và cứ như vậy, năm này qua năm khác. Năm khác nữa ...

 

Tháng tư như một vết sẹo gần

Tưởng quên rồi lại bồi hồi nhớ

Khi máu trong tim vụt trở trăn ...

 

Không phải không muốn quên mà sao cứ nhớ. Nhớ đêm thứ ba 29 tháng 4 còn ngủ vật vờ trong góc lớp trường xưa. Sáng thứ tư, ngày 30 bật dậy đời đã quay ngược, lộn đầu lộn đuôi, tốt hóa xấu, đúng thành sai, phải thành trái ... Mọi chuyện y như một vở bi hài kịch mà tên đạo diển bất tài, bất lực bỏ mặc cho đào kép sắm tuồng tùy tiện.

Không phải không muốn quên mà sao cứ nhớ. Nhớ phố xá bỗng đỏ lờm cờ máu, loa phóng thanh eo éo, kêu réo ỏm tỏi như quảng cáo cao đơn hoàn tán của mấy gánh sơn đông mãi võ, súng dài súng ngắn, nghễnh ngãng đầu đường xó chợ rồi chui tuốt vô nhà dân bất kể giàu nghèo sang hèn, thầy chú hay khố rách áo ôm ...

Không phải không muốn quên mà sao cứ nhớ. Trọn bộ một nền văn hóa gia-tài-của-mẹ bị tom góp, hốt chụp tống lên xe cây đem chụm cho lửa-cách-mạng cháy phừng phừng. Hay để xứng đáng là đỉnh-cao-trí-tuệ bèn hè nhau chia chác cân ký bán ra chợ đời gói cá gói thịt ...

Không phải không muốn quên mà sao cứ nhớ. Nhớ những trại tù mọc lên như nấm dại. Nhớ bàn tay trần rướm máu cào đất xẻ kinh. Nhớ đôi vai trần thay trâu thay bò kéo cày kéo trục. Nhớ những cơn bệnh ngặt nghèo không một viên thuốc đỡ đần. Nhớ những rào kẻm gai vắt vẻo xác người tù trẻ ...

Không phải không muốn quên mà sao cứ nhớ. Nhớ sự nhỏ nhen hèn mạt của lũ người cùng máu đỏ da vàng, nuôi căm thù lẫn với ganh tị đem trút lên đồng chủng đã buông súng vì một lời hứa hẹn ... hòa bình. 

Nhớ bao nhiêu nữa cho vừa, những thứ chẳng có gì đáng nhớ.

.........

.........

Ờ mà cái bộ nhớ kỳ cục, toàn làm chuyện trái cựa. Chuyện ép nhớ thì không. Chuyện không nên thì nhớ. Y như lúc trong trại tù cải tạo. Người ta lặn lội từ Bắc vô Nam, dạy dỗ o ép đủ kiểu đủ cách, lắm khi hăm he hù dọa trói-tay-còng-chân-nhốt-conex đủ trò, cốt để biểu quên cho được cái đạo-làm-người, nhớ cho kỹ mấy lời bác-hồ-dạy ... mà cái đầu cứ trơ trơ ra như gỗ đá. Quản giáo ngồi chồm hổm trên ghế đẩu, gân cổ như con két ba điều bốn chuyện về ba-giòng-thác-cách-mạng đang làm nổ tung quả địa cầu mà cái đầu mình thì cứ hết so đo với Đem Tâm Tình Viết Lịch Sử của Nguyễn Mạnh Côn, rồi lại quay qua lơ mơ với Mười Đêm Ngà Ngọc của Mai Thảo. Kỳ thiệt há. 

Chắc tại vậy mà bốn mươi sáu năm rồi, chuyện cũ cứ y nguyên không chịu mờ đi một nét, dù thiệt tình có muốn nhớ làm chi.  Cứ y nguyên nỗi phẫn hận vì sự bội phản của đồng minh. Cứ y nguyên nỗi ê chề của thân phận nhược tiểu. Cứ y nguyên niềm uất ức vì sự nhẹ dạ của hai mươi mấy triệu người cùng một lúc đút đầu vào thòng lọng. Cứ y nguyên sự hổ thẹn của một kẻ thất phu suốt mấy năm trời gần như đứng bên lề cuộc chiến, cứ an nhiên trèo lên bục giảng để ê a mấy cái chuyện trên trời dưới đất trong khi súng đạn, mã tấu, dao găm, mìn bẫy tù ngục ... đang kề sát tận cổ. Cứ y nguyên hình ảnh thịt xương máu me be bét của bầy em nhỏ trường tiểu học Cai Lậy, sáng sớm đến trường lảnh nguyên mấy trái đạn súng cối của đám du kích bắn xong rồi bỏ chạy. Cứ y nguyên con đường quốc lộ số 1 -đại lộ kinh hoàng- từng đám dân miền Trung khốn khổ, dắt díu nhau tay ẳm tay bồng, chạy trối chết xuôi Nam trong khi pháo chùm pháo chụp của những người lính Bắc Việt nả trên đầu họ từng tràng đạn bất kể. Cứ y nguyên hình ảnh người mẹ chạy giặc, cứ mãi miết đút vú cho con bú móm khi đứa con xác đã lạnh từ hồi nào. Cứ y nguyên ... Cứ y nguyên ... Y nguyên ...

 

Thiên hạ đã bỏ công đếm tới đếm lui số người chết vì bom đạn trong suốt cuộc chiến bắt đầu ngay khi chữ ký hòa bình chưa khô mực ở Genève năm 1954. Người ta cũng bỏ lòng tính số người chết mất xác trên biển từ năm 1975 sau khi chữ ký hòa bình còn mới nguyên ở Paris năm 1973. Cộng trừ nhơn chia san qua sớt lại đã có đáng đủ chưa để dựng lên một đất nước kỳ quái như hôm nay mà nhân phẩm của con người bị coi như đồ xa xỉ, mà quyền sống của con người như món hàng mặc cả theo lợi lộc riêng tư của đám quyền thế, mà nhà cửa ruộng vườn của con dân bị cướp giựt bất kể tiếng kêu gào khóc lóc như mưa, mà sông hồ ao biển của tổ tiên dày công gầy dựng bằng mấy ngàn năm xương máu bị ngoại bang lấn chiếm mà chẳng dám một tiếng kêu ca ... Mà ... Mà ... !!!!!!

 

Vậy đó biểu làm sao quên, biểu làm sao không nhớ ngày đó tháng đó, làm sao không nguyền rủa cái chuyện bày trò xương máu, giành giựt cho được mảnh đất quê mẹ vốn đã rách bươm để rồi thẳng tay cấu xé, chia chác, thẳng chân chà đạp, dày xéo cho tới nỗi mang danh là một quốc gia độc lập mà thiệt tình nếu gọi là độc ... địa chắc chẳng sai chút nào. Nhất là cái điều mà không có một thống kê nào kiểm chứng được, đó là cái hồn tính dân tộc thể hiện trong từng tiếng dạ- thưa nề nếp, từng nếp văn hóa cổ truyền của một dân tộc đã chọn nhân nghĩa làm đầu, từng dấu phẩy dấu chấm trong câu văn câu nói đã thành tựu sau bao nhiêu vật vã thăng trầm, đến lối sống giản dị, chân thành, nặng tính cưu mang của xóm giềng lan rộng ra khuôn phép đạo đức ngoài xả hội ... thử xét lại có còn phải là khuôn mẫu Việt Nam !

 

Cỡ này, lắm khi do vô tình hay sẩy tay bấm nút, thấy trên màn hình những tòa nhà cao ngất ngưởng, những đường xá người qua kẻ lại chen lấn với xe cộ dập dìu, những quần áo lụa là kiểu cách tới độ hổng chừng đào kép ci-nê bên Tây bên Mỹ cũng nghệch mặt chào thua ... xen lẫn với cách nói năng dẫu bằng chính thứ tiếng mẹ đẻ mà nghe ra lại ngờ ngợ như lỡ trệch đường vào một xứ nào lạ hoắc ! 

 

Sự giàu có của một quốc gia có chỉ tính trên nhà lầu chục từng, đường lộ chi chít, tượng đài ngàn tỷ, những con số thống kê ngụy tạo, những kế hoạch, báo cáo, chỉ tiêu đọc lên nghe dòn tan như bắp rang ... hay là chính trên niềm tin và hy vọng vào tương lai của từng người dân và sự phân bổ đồng đều khả năng thực hiện hy vọng và niềm tin đó của từng cá nhân ? (**) .Hỏi, nhưng câu trả lời hẵn đã nằm sẵn trong mỗi tình cảnh hẩm hiu của đám dân đen bị dồn ra bên lề của con đường tiến lên thứ chủ nghĩa xả hội quái đản mà đám cầm quyền và bè đảng vẫn ra rả rêu rao.

 

Bởi vậy, 46 năm rồi, sao không quên đi cho thư thả. Lịch sử nhân loại cũng đã thay trang không biết bao nhiêu lần. Hiền nhân cứ hay khuyên bảo phải biết chấp nhận. Nhất là để cho yên ổn chính lòng mình. Được không ? Bỗng nhiên mang máng nhớ câu nói của một ông tây nào đó. Đại khái người ta có thể xóa dấu một tội ác, nhưng không bao giờ xóa sạch được vết tích tội ác đó trong trí nhớ của con người.(***)

 

Phải vậy không ? 

Sẽ đến một ngày, mọi lấp liếm rồi sẽ bị phơi trần dưới ánh sáng của công tâm. Như mặt trời làm tan hết mọi lớp băng, khi mùa xuân trở lại.

 

Ôi, tháng tư ...

 

Cao vị khanh

 

(*) Thơ xuân đất khách- Thanh Nam 

(**) Kinh tế gia người Ấn đoạt giải Nobel năm 1998 là Amartya Sen. Một cách tổng quát, Sen chủ trương đời sống của người dân không đo lường bằng tài sản mà bằng bất bình đẳng (inégalité) và khả năng hành động (capabilité). Một quốc gia, dù cho giàu có, phong phú tài nguyên mà người dân vẫn cảm nhận nghèo khổ, thiếu thốn, nếu sống trong một môi trường bất bình đẳng, bất an. Trái lại người dân một quốc gia kém tài nguyên mà vẫn có thể hưởng được một cuộc sống khả quan nếu chính phủ biết sử dụng khéo léo tài nguyên và nhân lực.

(***) -JF Sliwinski "Pardonner c'est pouvoir cicatriser une plaie mais la cicatrice ne s' oublie jamais car on la voit chaque jour sur son âme"  Tạm dịch : Tha thứ, là làm lành một vết thương nhưng vết sẹo còn đó mãi mãi vì người ta thấy nó hằng ngày trong lòng mình.

___________________________________________

CVK_Nguoibanvongnien_PHV.JPG

Tháng 6 năm 1970 khi tôi xếp bút nghiên để sửa soạn cầm thước gỏ thì anh đã gỏ-đầu-trẻ đâu đó lâu lắm rồi. Nếu xếp về thứ bậc và tuổi tác, hổng chừng tôi phải gọi anh là thầy nữa là khác. Anh ra trường dạy dỗ đã lâu, có lúc nghe nói đã từng leo lên leo xuống mấy con dốc mà có lần nhà thơ Vũ Hữu Định đã kể lể ... phố núi cao phố núi đầy sương, anh khách lạ đi lên đi xuống .... Học trò cũ của anh có người tròm trèm tuổi tôi. Vậy mà hổng biết sao, ngay khi vừa gặp nhau, ngay giữa chỗ mà người ta thường nghiêm mặt lên giọng gọi là cửa Khổng sân Trình, giữa anh và tôi đã như quen biết lâu rồi ... Ngộ lắm.  Cái gì đó ... cũng chẳng rõ là cái gì. Chỉ biết làm như có chỗ rất tương đồng. Ngặt cái, dù kể ra là đồng nghiệp mà cái chỗ tương đồng thì chẳng ăn nhằm gì hết với cái nghiệp mà đời đã đưa đẩy chúng tôi đến gặp nhau. Dù xuất thân từ chung một lò, được dạy dỗ uốn nắn mấy năm trường gần như cùng chung một sách, vậy mà khi gặp nhau, chúng tôi lại thấy giống nhau ở cái chỗ không ... có sách nào dạy. Thời đó, từ nhà trường đến xả hội, hai cái chữ dù không được sơn son thếp vàng đóng khung treo trong đình trong miểu nhưng vẫn coi như treo lủng lẳng một cách vô hình trên đầu quí vị làm nghề ... dạy học. Từ dạy con nít mới bập bẹ i tờ tới con trẻ đã đọc ro ro chữ quốc ngữ. Dạy gì không biết, chỉ biết mỗi ngày đóng bộ vận vô ra trường lớp là phải ... mô phạm. Y như quí vị sư sải ni cô là lúc nào cũng phải chắp tay ... mô ... phật vậy đó. 

Vậy mà, vừa khi gặp nhau, chúng tôi đã nhận ra nhau ở cái chỗ hao hao đó. Kiểu như hồi xưa người ta nói ... đồng thanh tương ứng. Giống nhau ở cái chỗ không giống ai giữa cái chỗ ai cũng giống nhau. Mô ... phạm. 

 

Tôi thì mới hai mươi ba, ngựa non háu đá. Anh thì đã dầy công hãn mã, trường ốc cũng đã mấy phen chìm nổi. Tôi, dân nam-kỳ-lục tỉnh. Anh, gốc Bắc 54, nghe đâu chung khóa với ông thứ trưởng giáo dục thời đó. – người ta ở thủ đô thăng quan tiến chức nghe mà ham, còn anh thì cứ tà tà hết cao nguyên sỏi đá tới đồng bằng mé mé rừng tràm, vô ra trường giảng Kiều với lại oán khúc cung phi cho em út. Tôi gọi anh là ... anh. Anh gọi lại tôi là ... ông. “Ông” không phải tại chức cao quyền trọng, không phải tại lớn tuổi ... Gọi là “ông” vì không biết gọi là gì cho xứng hợp. Phải chi tôi quê miền Bắc thì chắc anh gọi tôi là anh như cung cách xưng hô phải đạo của người ngoài ấy. Anh Chị dù đáng tuổi em út. Đằng này, tôi người Nam, sanh đẻ chưa tới tận cùng Cà Mau nhưng cũng đã xém xém miệt dưới. Dĩ nhiên, tiếng  “ông” anh gọi tôi không kiểu cách, cũng chẳng ra điều trịnh trọng. Anh gọi tôi là  “ông”, mà lại nghe gần gũi, chiều chuộng, nam-kỳ-quốc như là gọi ... chú em vậy đó.

Ờ, thân mật lắm. Giữa anh và tôi. 

5 năm, cùng dưới một mái trường trung học, anh và tôi như hai người đồng nghiệp chí thân. Nữa ! Lại đồng nghiệp ! Không, không phải đồng nghiệp. Đồng nghiệp nghe ra ... mô phạm lắm. Nếu cần, thêm vào một chữ nữa thì không chừng ... vẹn vẽ hơn. Đồng nghiệp ... chướng ! Kiểu như Bạch Cư Dị khi bị đày xuống Giang Nam rồi tình cờ gặp nàng ca kỷ trên bến Tầm Dương mà phán rằng cùng-một-lứa-bên-trời-lận-đận-gặp-gỡ-nhau-chẳng-lọ-quen-nhau vậy đó. Chúng tôi thân nhau không phải vì cùng nghề cùng nghiệp. Chúng tôi thân nhau vì cả hai đều lăm le muốn ... phá cái rào của nghề nghiệp. Thứ rào cản người ta đặt ra cho chúng tôi như cái khuôn bánh bông lan. Bột đổ vô rồi khuôn nào ra bánh nấy. Dĩ nhiên không đến nỗi ngây ngô như cái lối bảy-bước-lên-lớp từ ngày bác-hồ vô Nam cách cái mạng dân miền Nam. Nhưng mà cũng ba điều bốn chuyện lắm. Rằng thì là làm-thầy thì phải làm gương cho học trò. Học trò thì đồng phục áo trắng quần xanh, đầu tóc phải gọn gàng, hổng hớt cua thì cũng phải bảy ba cho vén khéo. Học trò đã vậy thì thầy cũng không được để tóc ... thề phủ ót. Học trò áo sơ-mi trắng ngắn tay, thầy áo sơ-mi tay khỏi ngắn mà điều khuy nút phải cài. Dài ra dài, không có cái lối tay dài mà xăn lên cho ngắn. Đi đứng phải chửng chạc, không có cái lối ngả ngả nghiêng nghiêng. Nói năng chi phải chừng mực, đâu ra đó. Nhất là quan hệ thầy trò thì dẫu đã hạ bệ rồi cái khung quân-sư-phụ nhưng trong nhà ngoài ngõ vẫn trao tráo những cặp mắt dõi soi. Còn bài vở thì khỏi nói, chương trình biểu sao nghe vậy. Sách giáo khoa in sẵn, cứ y theo đó mà ... trả bài ! Quí vị đồng nghiệp cao niên của tôi như những tấm gương sáng bóng, cứ soi bóng mình trong gương sáng đó mà hành đạo. 

Chẳng vậy, mà mới gặp nhau, tôi với anh như hai kẻ lạc dòng, bỗng nhiên tìm ra cái bóng của chính mình, đang cùng lội lạc cái dòng mà mọi người chung quanh đang lội ... vòng vòng. Nghe đâu, những bài giảng của anh lắm khi cũng hay bốc tới cõi ... trời-trăng-mây-nước. Y như tôi, dạy Chinh Phụ Ngâm của bà Đoàn thị Điểm mà cứ lạc vô lục bát của Lê Thị Ý ngày-mai-đi-nhận-xác-chồng. Chẳng vậy mà chuyện phải đến đã đến. Chúng tôi như tìm được nhau ở cái chỗ không ai tìm đến. Bên ngoài trường lớp, những ly xây-chừng đen ngòm ở mấy cái tiệm nước của chú ba, pha đậm thêm bằng vài câu Đường Thi xa tít mù xa, vài hơi thuốc Capstan lơ lửng chút khói sương ở cái xứ mằn mặn mùi muối biển, trộn lộn với hơi giọng khàn khàn khi Lệ-Thu ngậm ngùi nắng-chia-nửa-bãi. Có khi ngồi lặng nhìn nhau nghe tin dữ từ một trận đánh đâu ở gần Miệt Thứ, những chuyển động chính trị phe nhóm ở Sài-gòn, những cò kè trả giá bốn bên hai phía ở Paris ... Rồi những chuyến rong chơi cuối tuần qua mấy khu vườn dừa, rẩy khóm ... Lắm khi xúi bẩy nhau bỏ lớp, có giang ghe xịp ghe cào tắp vô mấy hòn đảo hoang ngoài khơi ... đêm nằm trần trên những bãi cát vắng chân người, lắng nghe sóng vổ miên man vào lòng thiên cổ. Và vổ ngay vào chốn thăm thẳm của lòng mình. Rồi cùng cảm thán cái mênh mông vũ trụ, cái dằng dặc thời gian và cái vô nghĩa phận người ... từ đó, cùng tìm ra cái thân thiết vô ngôn dù tuổi tác chênh lệch. Anh thì đã vợ con đề huề, tôi thì vẫn còn ... sầu-lẻ-bóng. Mỗi lần ghé nhà, nhìn anh giữa một bầy con tíu tít, tôi cứ băn khoăn làm sao anh có thể hòa đồng được cái đầu thường vẫn lơ lửng giữa trăng sao với cái bổn phận làm chồng làm cha. Khó dữ đa. Vậy mà ngày tháng qua, anh vẫn đi lại giữa đời một cách an nhiên tự tại. Người ta có thể sống hai đời trong một kiếp ? Cạnh đó, cái khung mô phạm dựng sừng sững trước mặt, anh vẫn thản nhiên tới lui, thản nhiên không một chút e dè, nhẹ nhàng, lãng lướt không thua gì bộ pháp Lăng Ba Vi Bộ của Đoàn Dự trong Lục Mạch Thần Kiếm.

Dẫu vậy, giữa cuộc phong trần, cũng không làm sao mà không trầy trụa. Đã có lúc, với tất cả mọi bẩn chật của một xả hội đang giãy giụa giữa hai lằn đạn của một cuộc chiến tranh ý thức hệ, anh cũng không thoát khỏi những va chạm, lắm lúc dù không đổ máu, cũng không thể còn lành lặn. Tôi biết, đã có lúc anh cũng phân vân chao đảo như không ít người trí thức thời đó. Bom đạn, chết chóc trên những bản tin chiến sự hằng ngày, cùng với những tệ nạn xả hội như hậu quả tất nhiên của một thời loạn lạc ... hẵn đã có lúc cũng làm anh băn khoăn về cái vị trí của mình giữa sự dằn co của hai chủ thuyết ... Cùng lúc với những va chạm vụn vặt hằng ngày giữa một bên là kẻ nắm chức vụ có bổn phận duy trì những giáo điều của trường lớp với một bên là người cứ chực chờ phá vở cái khung hẹp đó, dẫu không cố ý. Đã nhiều lần, giữa hai giờ lên lớp, lúc nghỉ xả hơi, trong cái phòng giáo sư hẹp té, anh ném ly tách vở tung lên bốn phía tường vách. Ai hiểu được gì những dày vò trong cái đầu vốn dĩ hay lẩn quẩn giữa cõi trăng sao mà cứ bị giữ rịt lại giữa nhỏ nhoi trần thế !

Một buổi chiều thứ năm, giữa mùa học năm nào, không biết có ai còn nhớ? Anh đăng đàn, thuyết giảng thơ Phạm Thiên Thư. Cả hội trường vài trăm người gồm bạn đồng nghiệp và học trò gần như có lúc cũng mê hoảng theo cơn mê hoảng của anh, không còn là một người làm thơ nói về một người làm thơ khác, không còn là một giáo sư văn chương nói về một dòng thơ lục bát, không còn là một Phạm Huy Viên nói về Phạm Thiên Thư. Mọi thứ, có lúc như ảo hóa, buổi chiều không còn là lúc ngày sắp tắt, hội trường không còn là chỗ hợp mặt thầy trò, thơ không còn là mớ chữ sáu tám nối kết nhau theo bằng trắc ... Tất cả đã hóa thân, đã hòa nhập, đã trộn lộn ... đến độ không còn biết đâu là thật đâu là giả, đâu là thực đâu là mộng, đâu là Phạm Thiên Thư đâu là Phạm Huy Viên ... Không. Không còn cõi đời cõi mộng. Trước mặt mọi người, trong lòng trong đầu mọi người lúc đó chỉ còn một ... gã-từ-quan-lên-non-tìm-động-hoa-vàng-ngủ-say ! (*)

 

Các bạn mến ! Các em mến ! Hôm nay, một ngày đẹp trời của Rạch giá.Tôi lạnh lùng nói tới Phạm Thiên Thư. Tôi say sưa trôi về thơ Phạm Thiên Thư với ngàn con sông, ngàn ngọn suối hoa vàng bập bùng trôi trong vô thức khi thế gian còn sáng chói tình yêu. Khi thế gian toàn là mai mơ với đỉnh núi trăng vần, với vực sâu trăng té, tà áo em trăng thõng thượt và mái tóc em trăng ngủ vùi. Từ chim thuở núi xa xưa, về đây rớt lại hạt mơ cuối rừng, từ em khép nép hài xanh, về qua giục nở hồn anh đoá sầu. Ừ ! Thì mình ngại mưa mau, cũng đưa anh đến bên cầu nước xuôi, sông này chảy một giòng thôi, mây đầu sông thẫm tóc người cuối sông. ! (**)

 

Những năm 70 đó, thơ Phạm Thiên Thư đang là cái mode. Ai nấy, không nhiều thì ít, trên môi cũng lẩm nhẩm được vài ba câu lục bát Động Hoa Vàng. Buổi chiều đó, anh đã đem thơ xuống đời. Và nâng đời lên cõi thơ tuyệt đỉnh. Anh đã rao giảng thứ tình yêu Hoa Không có có không không cũng như không không mà có có. Tuyệt lắm. 

Người quen, kẻ lạ, sau buổi chiều đó  ... có ai nhìn ra được một Phạm Huy Viên, kẻ lãng tử sinh không nhằm lúc nhằm nơi !!!

Ít lâu sau, vì một lý do không ai rõ nhưng ai cũng biết, anh bị đổi đi một trường khác, ở đâu miệt Phụng Hiệp, Cần Thơ. Liên lạc trở thành thưa thớt. Cho đến đâu khoảng một tuần trước ngày 30 tháng 4 năm 75, anh bỏ nhiệm sở quay về Rạch Giá, ghé tìm tôi một đêm. Vài câu thăm hỏi thông lệ. Và một kết luận. Mọi chuyện đã an bày. 

Những ngày đầu tháng 5 bi phẫn đó, người ta thấy anh lăng xăng theo những đoàn học sinh đi ... tiếp quản những cơ quan chính quyền cũ. Có người xì xào. Nhưng tôi, tôi biết, vốn dĩ anh là một người lý tưởng. Thứ lý tưởng trong sáng đến độ gần như ... ngây thơ, tin rằng ở bên kia tấm vách núi sừng sững có đầy hoa thơm cỏ lạ. Y như không ít những người trí thức miền Nam thuở đó. 

Còn tôi, thì vốn dĩ biết rõ gốc gác mình, tôi chờ lệnh ... tập-trung-học-tập-cải-tạo.

Tháng 7, bừng-con-mắt-dậy thấy mình đứng giữa Khám Lớn Rạch Giá cùng với vài chục đồng nghiệp và đồng loại, chờ được xếp hạng phân hệ ... đưa đi học đào mương, gánh đất, gở rào, dọn đường ... hầu trở thành con-người-mới-xhcn. Năm ba bữa qua, chưa thấy nhúc nhích lệnh lạc, một buổi sáng giữa nhà giam, bỗng thấy công an gác tù đưa anh vào nhập bọn. Cả đám xôn xao. Hóa ra anh vừa trải qua một hoàn cảnh dở khóc dở cười trong chính sách bắt lầm hơn thả lầm của cộng sản. Do một ngộ nhận, đám công an đòi bắt giam chị khi chị đang bụng mang dạ chữa. Chẳng đặng đừng, anh đứng ra nhận thay cho chị. Vì vậy, khi không, anh lại vô tù nhập bọn cùng tôi. Dù cả hai, xét về lý lịch chẳng có chút nào tương đồng. Từ đó, chúng tôi lại có dịp sống gần nhau, dĩ nhiên trong một hoàn cảnh không lấy gì làm dễ chịu. Tuy vậy, giống như mọi thứ nhà tù trên mặt đất này, người ta có thể giam giữ thể xác tù nhân nhưng không kềm hãm được tinh thần của họ. Mặc cho mọi hò hét, hù dọa rồi dụ dỗ, đâu vẫn hoàn đó, cái đám tù cải tạo. Và riêng tôi, tôi thêm dịp sống gần anh, thêm lắm điều đồng điệu.

Hơn năm trời trôi qua, trong nhà giam được mỹ hóa là trại cải tạo, rõ ràng anh là hiện thân của nhân vật Moritz  trong tiểu thuyết Giờ thứ 25 của Virgil Gheorghiu. Người ta đi tù vì hoặc là sĩ quan hoặc chức tước của chế độ cũ. Anh không là sĩ quan. Anh cũng không chức tước ngoài cái danh xưng giáo sư trung học đệ nhị cấp có tiếng mà không có miếng. Anh chỉ là người đi dạy học. Dạy học thì khỏi đi tù. Mà anh thì đi tù cho được. Vậy nên khi vào tù, anh không thuộc loại nào hết sau khi người ta đã phân chia đủ thứ loại hạng. Bởi vậy, anh sống tấp vô đám tụi tôi với danh nghĩa là sĩ quan biệt phái mà gốc gác thì chẳng có một ngày thâm niên quân vụ. Vậy mà vẫn an nhiên ... ở tù chung với cái đám-tù-không-bản-án, và không-biết-ngày-ra. Chẳng vậy, mà qua đó, tôi được anh chỉ dẩn cho lắm điều mà không có trường lớp nào giảng dạy. Ngay trong góc tối mù của lòng thù hận, anh vẫn tìm ra niềm tin để giữ mình thong dong chịu đựng giữa vòng dây kềm kẹp. Biết bao nhiêu chuyện có thể kể ra những ngày tù tội dưới mấy cặp mắt cú vọ của cái đám gọi là quản huấn với lại quản giáo từ ngoài Bắc viện trợ vô. Mà thôi, ông Hà Thúc Sinh đã kể ra gần đủ trong bộ sách Đại Học Máu của ông rồi. 

Chỉ biết là trong hơn năm trời, ngủ chung trên những tấm thiếc lợp nhà được gở ra từ những trại gia binh cho đến ăn chung trong những lon sửa guigoz được chế biến thành chén dĩa cũng như bếp lò nồi niêu xoang chảo, anh lại còn tỏ lộ ra vẻ trải đời và đa tài rất mực. Vẫn với một thái độ ung dung của thi nhân-triết gia, anh nhận chịu mọi đày đọa bằng một thái độ ung dung tự tại. Chẳng vậy, ngay đến những chuyện chế-biến-nấu-nướng-đàn-bà anh cũng thông thạo một cách huê dạng. Bữa đó, gạo tù chắc được tịch thu trong các vựa lẫm của quí vị xì-thẩu, cá mắm thì là loại cá liệt, bị loại  bỏ từ các ghe cào ghe xịp cặp bến mỗi chiều. Cứ như vậy ngày này qua tháng khác. Anh đâu chịu vậy. Mỗi bữa cơm, sau một ngày lao-động-vinh-quang, bằng mấy cái lon sửa guigoz đã được cắt gọt uốn ép thành bếp núc với lại nồi chảo, anh chế biến món này món nọ một cách tài tình. Anh chỉ dạy tôi cách cắt gọt rau cải, lượm lặt được ngoài ruộng rẫy bỏ hoang, đun nước nấu canh, chế biến thêm thắt cho bữa ăn có thêm chút mặn mà. Anh làm một cách nhẩn nha, từ tốn như đang sửa soạn cao lương mỹ vị. Tôi học được ở anh một bài học vô giá, sự thích ứng với hoàn cảnh !

Vậy rồi tới lúc, thả tù. Dĩ nhiên, nhốt thì dễ mà thả thì khó. Lùa vô tù thì dễ như lùa vịt vô chuồng. Nhưng khi thả tù thì kỹ lưỡng rất mực. Họ lọc lựa, xét nét, từng loại, từng đợt mà họ gọi là hệ. Tới phiên cái đám gọi là hệ biệt phái như tôi được thả ra thì anh lại lọt sổ. Mà tới khi cái đám gọi là nợ-máu-với-nhân-dân, kẻ bị đày vô U Minh người bị đưa ra tận ngoài Bắc, cũng không có tên anh. Vậy là anh ở lại tiếp tục ... làm người tù không danh số. 

... Nhưng mà nhốt hoài chắc cũng thấy ... vô duyên, đến một lúc anh lại được thả ra cũng không có lý do như khi bị bắt vô –hoặc có lý do mà chắc chỉ có mấy cái túi vàng của đám cán bộ thời đó mới biết rõ. 

Ra khỏi cái rọ nhỏ của trại giam, nhập vào cái rọ lớn của đời sống bên ngoài đang tới hồi bon chen manh mún kịch liệt để kiếm miếng ăn, anh vẫn an nhiên tự tại như cái ngày đứng trên bục giảng mà kể lể chuyện kiều nhi thanh lâu hai lượt thanh y hai lần. 

Tù về, phủi tay cái một, anh vác cuốc đi làm rẫy. Mà làm cũng thong dong, điệu nghệ không kém gì làm lãng tử. Khoanh đất nhỏ nằm cạnh bờ vịnh, có nắng lửa nhưng cũng có gió mát, có mồ hôi nhưng cũng có những mầm xanh, anh chăm sóc mấy bụi chuối lão, mấy luống rau thơm, mấy con gà con vịt ... không thua gì lúc chăm chút mấy cái vần bằng vần trắc. 

Có lúc hết việc, tạt qua thăm, anh đãi tôi ly trà nóng, vấn điếu thuốc rê phì phà hơi khét lẹt, kể tôi nghe chuyện thời Chiến quốc rồi cười khinh khỉnh chuyện thay chúa đổi ngôi. 

Có hôm tình cờ gặp người học trò cũ bứng cho bụi bông súng, tôi than với anh không biết lội nên không dám lặn xuống ao nhà để cắm rễ xuống đáy. Tốt bụng như tự bao giờ, anh đạp xe tới nơi xắn quần nhảy ùm xuống nước, lặn sâu hai ba thước trồng cho được bụi bông súng quê mùa.

......................

Ngày tháng qua đi, ục ịch hay thoăn thoắt, đánh-tư-sản-mại-bản hay đốt sách văn-hóa-đồi-trụy, kinh-tế-mới hay cải-tạo-công-thương-nghiệp, dẹp khờ-me-đỏ hay chống bọn-bành-trướng-phương-Bắc, anh và tôi vẫn có dịp qua lại gặp nhau, năm ba bữa nửa tháng. Có khi anh đạp xe lọc cọc tìm tôi, có khi tôi lếch thếch lội bộ tìm anh, gặp nhau vẫn thân thiết như bao giờ dù thời buổi đó ai nấy cũng hay giữ lòng giữ kẽ. Khoảng thời gian đó, hẵn cũng như nhiều người nội trợ khác, trước mức sống bị tụt xuống đến mức thảm hại, chị đã dấn thân ra .. chợ trời. Chắc nhờ vậy, anh lại vung tay hào sảng như hồi cách-mạng chưa thành công. Đầu ngõ vào nhà, có một tiệm nước. Chị mở cho anh một trương mục ở đó. Nói là trương mục cho có vẻ hiện đại. Chớ hồi đó, gọi là ghi sổ. Ăn uống gì xong, thì búng tay gọi chủ. Chủ tiệm cứ mở sổ ra ghi, cuối tháng chị tạt ngang, sẽ thanh toán một lần. 

Năm lần bảy lượt, anh hay rủ rôi ghé tiệm, gọi hai cái xây-chừng, vài ba điếu thuốc lá lẻ, rồi hai anh em phì phà tâm sự, chuyện đầu trên xóm dưới, chuyện cá chậu chim lồng ... Thuở đó tôi nghèo sát ván. Đi tù về, tay chân vác mướn cơm cháo còn chưa đủ nuôi thân nói gì cà phê cà pháo. Nhờ có anh mà tôi có lại chút hơi hướm ngày xưa ... Tính ra ân tình lấy gì đong cho hết !

Vậy đó, rồi mấy năm sau, nhờ may mắn được người quen cho có giang vượt biển. Tôi bỏ đi, cũng y như hàng triệu người miền Nam bỏ nước ra đi không kịp một lời từ giả.

Ở xa, dặm trường đã xa mà cảnh tình càng xa lăm lắm. Bạn bè sống hai đời đối nghịch nhau. Bên nây ngày thì bên kia đêm. Chính trị thì như đêm với ngày. Vã lại, tôi còn nợ một lời nguyền với chính tôi. Tại vậy, mà xa rồi là xa luôn. Không còn dịp gặp lại. Anh sống đời anh. Tôi đời tôi. Nắng mưa, đói no, bệnh hoạn mạnh ai nấy chịu. Lòng băn khoăn mà cứ chừng như thời gian vẫn đợi ...

Hai mươi, rồi ba mươi, rồi bốn mươi năm. Chớp mắt.

 

Thứ sáu rồi, 26-3-2021, hồi 8 giờ 8 phút sáng, ngụm cà-phê đầu ngày còn nửa chừng trong miệng, điện thư của người quen báo tin anh mất, quê nhà. Một chút sững sờ. Một tiếng chắc lưỡi. Rồi thôi. Tôi làm gì đây khi dòng đời thì chảy xuôi ... Và chúng ta cũng trôi xuôi theo cái dòng chảy không ngừng nghĩ đó. Thệ giả như tư phù bất xả trú dạ.

Thêm một chút ngậm ngùi cho cái số nghiệt ngã của phận mình, phận anh phận tôi, chung cùng trong một phận nước.

Dẫu không liên lạc, nhiều năm nay, đôi khi tôi mơ hồ biết chút tin anh. Đôi khi một bài thơ, đôi khi một bài nghiên cứu về lịch sử, địa dư, một giai thoại văn chương ... với một bút hiệu lạ nhưng cũng là anh, nửa ẩn nửa hiện. 

Bốn mươi năm. Nhắm mắt tôi còn hình dung ra anh, cao, gầy, giọng Bắc đã pha ít nhiều phù sa sông Cữu, ăn nói từ tốn nhưng không kém phần uyên bác. 

Bốn mươi năm. Đủ để xóa nhòa hết mọi di tích một thể chế. Nhưng trong tôi, anh vẫn nguyên vẹn tiếng nói-giọng cười-dáng đi và nhất là mớ kỷ niệm chung của một thời có hoa có bướm, lẫn lẫn đâu sau mấy vạt áo tơ dài, thõng thượt(**) như câu thơ nửa chừng ... bỏ lửng.

 

... Rồi người cũng bỏ đi xa

Bỏ trăng gió úa, bỏ hoa mộng tàn

Câu thơ bỏ lỡ, ngỡ ngàng !

Về tìm lại Động Hoa Vàng ngủ say

Nối thêm cho đủ mộng dài ...

 

Yên nghĩ anh há !

 

C A O V Ị K H A N H

 

(*) thơ Phạm Thiên Thư (**) trích bài nói chuyện về thơ Phạm Thiên Thư của Phạm Huy Viên  (***) chữ của PHV

THƠ HỌC TRÒ

Trần Bang Thạch, Hoàng Xuân Sơn, Cao Vị Khanh 

Nguồn: Blog: caovikhanh.com

CVK_tho hoc tro.jpg
CVK_Saucau.jpg
cvk_onceuponatime.JPG

                                                                            sao câu vọng cổ buồn đứt ruột 

                                                                            phải oán tiền khiên xúi đoạn trường 

Đã có lần, đâu đó nơi một thành phố cực bắc còn lạ hoắc lạ huơ, trời cuối năm  co quắp dưới chục lần độ đông, tê cứng. Phòng ấp xóm nghèo cửa nẻo đóng  chặt vẫn để lọt tiếng rít rợn người của âm phong trắng. Quanh tấm vải trải càng  giữa phòng khách, chai lọ ngổn ngang, bảy tám tên đàn ông mới xa quê nằm  ngồi ngất ngưởng. Giữa mâm, rượu thịt đã nguội tanh và trong lòng người, đã có niềm hiu quạnh. Bữa tiệc kéo dài đã quá lâu. Hai ba người khật khưởng bỏ ra về

... Bỗng dưng ... bỗng dưng từ một góc khuất có tiếng ai hát lầm thầm, lúc đầu  có vẻ rụt rè rồi càng lúc càng tỏ bộ quyết chắc khi thấy cả đám đông đang ồn ào  bỗng nhiên im phắc ... đâu như cái bài hát mà ông Út Trà Ôn đã làm người ta  chảy nước mắt những năm sáu mươi bảy mươi ở Sài gòn và lòng vòng mấy  miệt lục tỉnh, nghe sao là lạ quen quen ... Giọng khàn pha trong hơi rượu ẩm làm  bài ca như tươm ra cái nỗi buồn ướp sẵn ... nhứt là mỗi lần tôi thấ́́́y bông ô môi mới  điể̉̉̉m hồng trong gió chướng. Mỗi lần nghe tiếng quết bánh phồng rộn rã đón xuân sang.  Mỗi lần có dịp về Vĩnh Long đi ngang Tân Ngải thấy nhà chợ Trường An là mỗi lần tôi nhớ mùa xuân của đầu năm binh lửa. Nhớ tới dáng người vợ nhỏ chèo xuồng qua sông Mỹ 

Thuận để đưa tôi rời (ời) ... tỉnh (inh ...ỉnh) ... Long ... (ong ... ong .... ong) ... Hồ ... (ồ ... ồ ...  ồ)  

 

Tôi về̀̀̀ Mỹ Tho để lo đùm bọc cho mẹ con bà ... 

Nay đã ngót hai mươi năm dâu bể tôi không hề được tin tức của người xưa, mẹ con của nó còn hay đã chế́́́t, bởi vậy đêm đêm tôi nằm trằn trọc một mình đối diện với  lương tâm, phải đâu khi xuồng vừa tách bến sông là tôi ... đã chấm dứt tì̀̀̀nh thâm phụ (ư ...  ư) tử (ư ... ư ... ) (*) 

Tên bạn trẻ dứt câu một ngon ơ, lại còn ráng bắt chước đúng điệu ông cò-quận-chín nói lối rành mạch từng tiếng một, thiếu điều muốn đánh vần từng  chữ cái như để lột trần cái vỏ chữ sù sì ra cho người nghe, nghe và hiểu và cảm  đúng y bon cái ý cái tình của người trong cuộc. Tới chừng vô-sáu-câu đến chữ “rời” (vần bằng trầm bình thanh) làn hơi chợt đùn xuống y thể như lực sĩ nhảy  cao rùng mình lấy trớn phóng vọt lên chụp lấy chữ “tỉnh” (vần trắc) lắt léo ở trên cao. Chừng chụp được rồi lại ngậm hơi đong đưa ở đó như kẻ treo mình trên  miệng vực để chồm qua níu cho bằng được cái chữ “long” (vần bằng phù bình  thanh) treo lúc lắc ở bên kia bờ chênh vênh ... làm cho ai nấy cũng phải trân  mình nín thở đu theo cho đến khi hắn xuống hò ngon ơ cái chữ “hồ” , mọi người  như thở phào ra ... nhẹ nhỏm. Không ai đưa tay kịp phựt một ánh đèn màu (? )  mà rồi chỉ có những ngón tay đưa lên len lén quẹt nước mắt ... giấu lại. ( Bề gì cũng ̣đàn ông ai mà yếu xìu “dậy” cha nội, tụi nó cười chết. Nhất là ... chỉ tại cái  câu vọng cổ ... quê mùa ! ) 

 

Ở Bi-đông cuối những năm 70, cái hòn đảo nhỏ xíu không ai biết tới bỗng dưng  trở thành cái bến đỗ của hàng triệu người chạy chết. Ở đó, giữa những đêm  rừng mù mịt, khi những vết cắt đoạn lìa còn nguyên si máu mủ, khuất lấp dưới  những chòi trại che dựng sơ sài đã có hơn một người mủi lòng ôm mặt khóc  ngang xương khi ai đó vô tình rỉ rả mấy câu vọng cổ của Nguyệt Ánh. Ai ra đi mà 

không nhớ về người nơi chốn cũ, ai đã ra đi mà không ngậm ngùi đau xót khi con tàu đêm  rời bỏ quê ... nhà. 

 

Ai đã ra đi một chuyế́́́n không về. 

Có nhớ gì chăng những con đường mòn vắng, nhớ tiếng chuông chùa rộn rã lúc  hoàng hôn, nhớ bóng ai quảy gánh đầ̀̀̀u làng, nhớ tiếng ai rao hàng giữa chợ hay nhớ vườn cau xanh ngắt một màu, nhớ miếng trầ̀̀̀u cay hay nhớ màu vôi thắm.  

... Bạn trăm năm vẫn đêm ngày trông ngóng, mơ bóng người đi biền biệt phương  trời. Đâu biết một lần đi là ngàn năm chia cách nhau rồi. Thôi cũng đành muôn đời vĩnh  biệt, chỉ̉̉̉ xin người đừng quên vội quê hương. Đám em khờ còn mỏi mắt chờ mong, cha  già yếu mẹ mù lòa tàn tật. Em lớn khôn bị lưu đày phương bắc, chắc xanh rồ̀̀̀i mồ không  khói không nhang ... (**)

Cũng y cái tiếng ̣đàn vừa bấm nốt vừa nhấn nhấn trên những phím đã được móc  sâu cho âm thanh rung rung như tiếng khóc rưng rưng ... 

Cũng y cái lối hát phanh phui chữ nghĩa như móc ruột ra mà giải bày ... (còn nhớ không em, những tiếng khóc thút thít trong đêm, những con mắt ráo hoảnh ngó trao tráo vào cõi lòng trống hoác như mới vừa thấy lại được tận mắt cái chỗ trống trơn bỏ lại ở một xó quê nhà, như sờ được tận tay cái tan hoang của một  

cơn thất tán) 

 

Dẫu không có ý so sánh về giá trị của từng loại âm nhạc, chắc cũng khó có một  bài tân nhạc nào - dù không phải không hay – đã làm chảy được nước mắt  người nghe nhiều đến như mấy điệu vọng cổ trong cuộc tang thương đó. Dường  như chính cái lối ngân nga luyến láy qua nhiều âm vực khác nhau của cùng một  cung bậc làm độ rung của tiếng đàn thêm áo não, làm âm sắc của lời ca thêm nỉ 

non. Cái khéo của vọng cổ là đã chọn khoảng thang âm đúng phóc ngay cái mức  độ xúc cảm của con người. Không cao quá không thấp quá mà ngang tầm với  cái độ rung của tơ lòng. Thành ra y như cái kiểu đồng thanh tương ứng vậy.  Chổ xuống-hò mà người ta hay gọi là xuống-vọng-cổ là một tính toán tuyệt diệu  của sự phối âm. Thử tưởng như lòng người là một mặt nước phẳng lờ, âm thanh  là những viên đá cuội, xuống-vọng-cổ là ném đá phá sự yên tĩnh đó. Cao quá,  độ rớt quá mạnh, đá rơi tỏm và chìm lĩm. Thấp quá, độ rớt quá nhẹ, nước chỉ vừa cau mặt, không đủ lao xao. Xuống-hò là thả cho tiếng hát vút lên tới một độ cao vừa đúng mức thì buông mình hạ xuống như một cánh én liệng vòng. Âm  thanh rớt xuống như viên sỏi ném lên mặt hồ đúng độ làm dư ba càng lúc càng  sâu lắng, sâu lắng tới tận đáy những cõi lòng. Người nghe, nghe thấy buồn là sức dội ngược của âm thanh miết sâu vào tâm não-thứ tâm não vốn đầy ắp  những kỷ niệm. Đến chỗ thắt ngặt quá thì vỡ ra thành ... nước mắt.  

 

Người hát vọng cổ hát rõ từng lời một, không nuốt chữ, giọng “nam kỳ” mới đúng  điệu. Cái điệu hát không ra hát, nói không ra nói, mà là vừa hát vừa nói hay hát  bằng cách nói theo đúng âm sắc của từng chữ. Chữ lắm khi có sáo nhưng  không rỗng, vẫn là thứ chữ nằm trên đầu môi hằng ngày nhưng đặt vào đúng nơi  đúng lúc của nó, chữ bỗng có da có thịt, có máu huyết ruột rà, có ý sáng trưng  và có tình nồng nã ... nghĩa là có đầy đủ sức thuyết phục để người ta chấp nhận  và truyền cảm để người ta ... khóc ròng. Cảm tính của chữ ở chỗ nghĩa vừa sâu  vừa sát, vừa gần gũi vừa quen thuộc, vừa nôm na vừa bóng bẩy, làm cái đầu và con tim người nghe hiểu và cảm ngay cùng một lúc như tia chớp của trực giác,  không phải qua một trung gian nghĩ ngợi lôi thôi, vừa chậm trễ vừa so le. Cái độ sát phạt của âm thanh và chữ nghĩa vì vậy trở nên mạnh như một cú đấm direct  vào ngay bụng dạ con người làm rụng rún như chơi.  

 

Như vậy đã có lúc không có gì làm vừa ý vừa lòng vừa thân vừa phận nhất  (hổng vậy sao chảy nước mắt) bằng chính mấy câu vọng cổ 32 nhịp đó. Mà sao phải đợi đến cái lúc bỏ nhà bỏ xứ bỏ cha bỏ mẹ đi biệt rồi mới thấy thấm qua da  thịt tới xương tủy cái âm điệu ngai ngái mùi sình lầy úng thủy miệt sông Tiền  sông Hậu pha lẫn cái hơi oán của giọng Hời đau cố thổ. Bộ vọng cổ chỉ hát và nghe được những lúc đời tuyệt tận thôi sao. Mà điều không chừng cũng phải  vậy. Vọng cổ chỉ nên hát điệu tình buồn tình sầu tình đau tình lỡ tình trách tình  hờn. Vọng cổ là để kể lể, để than thở, để trách móc, để ủ ê, để tê tái và cùng lắm  là để bi phẩn. Tự bản chất đã nỉ non ai oán thì nài hoa ép liễu làm chi mà bắt  phải cười cợt khôi hài. Ép như vậy chẳng khác nào bắt Bao Tự bỏ cái mặt sầu bi  nên mười phần đã hư hết chín rưởi. Từ khi người ta bày đặt ra cái gọi là vọng cổ-hài-hước, ai vui đâu không biết chớ còn vọng cổ chắc chỉ thấy buồn thôi ! Lại thêm cái trò tân cổ giao duyên hai cái duyên vốn không nợ nần gì nhau thành  ra nghe cứ như ép duyên ép nợ. Cho nên chỉ thấy hục hặc giống như cái cảnh  đồng sàng mà dị mộng.  

 

Thật ra không phải đợi đến chừng đó, sáu câu vọng cổ mới đục phá ruột gan  người ta dữ vậy. Nó mùi rệu đâu từ hồi xưa hồi xửa, từ cái thời ông Sáu Lầu  buồn chuyện vợ chồng xách đờn ra che trại ngoài đồng trống, rồi dùng ngũ âm  của cổ nhạc để viết nên điệu Dạ cổ hoài lang. Từ mộ̣t bài nhạc hát riêng một nỗi  buồn riêng chẳng mấy chốc trở thành cái điệu buồn chung của cả một phần đất  phía nam. Người ta thi nhau thêm thắt sửa chửa đặt lời ca mới ... Những cô Tư  Sạng, cô ba Trà Vinh, ông Tư Chơi, ông Tám Thưa ... đã ngân nga cái điệu buồn  lê thê hò-xự-xang-xê-cống vào lòng người miền nam vốn dĩ là dân tứ xứ. Hồn  lưu lạc đó, chắc là tìm được trong cái âm giai buồn bã đó, từng nỗi niềm chung  chạ. Cho nên chính vọng cổ chớ không là gì khác đã trở thành một thuộc tính  của người miền nam như miếng mắm lóc, con khô cá sặt ... hay tô cháo lòng  hoặc nồi thịt kho dưa giá ... Và cũng chính điệu vọng cổ chớ không là gì khác đã thể hiện đúng nhất cho tinh thần khai phá của đám người đi mở xứ. Người ta  đàn hát như đùa giỡn với nhịp điệu và chữ nghĩa. Dù vẫn phải giữ cho đúng nhịp  ở cuối câu, người đàn và hát vẫn có thể mặc tình rong chơi ngón đàn hay bay  bướm lời ca ở giữa lưng chừng hai nhịp. Đâu có cái lối đờn-ca-xướng-hát nào  mà để cho người nghệ sĩ tự do đến vậy. Điều đó hẵn nhiên đã không ít thì nhiều  giúp cho người trình diễn có cơ hội bộc lộ thả dàn mọi xúc cảm mà không cần  phải gò ép sít sao như trong âm nhạc cải cách mà mỗi nốt nhạc là chỉ để diễn tả cho một từ (lời). Cộng thêm đó là cái nết tài hoa địa phương tự do đóng góp  thêm nét độc sáng của mỗi miền làm giàu có thêm điệu nhạc vốn dĩ cũng đơn  giản buổi đầu. Mỗi người một cách mỗi nơi một điệu. Đến nỗi chỉ nội cái giây tơ  mà ôi thôi cũng đủ loại. Nào là giây tứ nguyệt, giây ngân giang, giây Rạch giá,  giây lai giây hò ... rồi nhịp thì 16 rồi 64 rồi 32 … Cái lối chơi nhạc Flamenco có điểm gì tương đồng không vậy ? 

Lần lữa, những Phùng Há, Năm Phỉ, Bảy Nhiêu, Năm Châu, Năm Nghĩa, Bảy  Cao ... Rồi Út Trà Ôn, Hữu Phước, Thành Được, Thanh Nga, Út Bạch Lan,  Phượng Liên, Thanh Sang, Thanh Hải, Ngọc Giàu, Bạch Tuyết ... ôi thôi kể ra không xiết những giọng kim giọng thổ, giọng nam giọng bắc, thứ ngọt lịm như  mía lùi, thứ bùi bùi như khoai lang vùi lửa than chín tới ... với Chín Trích đờn  tranh, Sáu Tửng đờn kìm, Văn Giỏi đờn sách, Bảy Bá đờn cò và đặc biệt Văn Vĩ với cây độc huyền huyển hoặc. Những soạn giả như Trần Huyền Trang, Viễn  Châu, Thu An, Quy Sắc, Hà Triều Hoa Phượng, Hoàng Khâm, Loan Thảo ... và biết bao nhiêu soạn giả ẩn danh hay vô danh khác đã không ngừng đặt lời cho  điệu nhạc duy nhất đó mà mỗi người một ý, mỗi người một cách thức sáng tạo  đã đưa vọng cổ đi suốt con đường trầm luân của nó.  

 

Thử tính coi trên đời này có một điệu nhạc nào, độc nhất có một điệu, mà lại có không biết cơ man nào mà kể những đoạn lời. Đề tài nào ráp vô cũng được,  cũng mùi mẩn. Cũng bấy nhiêu âm khúc đó mà tình nào lời nấy, không ngượng  ngập hay khiên cưỡng. Cũng bấy nhiêu cung bậc đó mà người nghe nghe tới  nghe lui hết lời này đến lời khác mà có kêu rêu than phiền gì đâu. Kể ra cũng  ngộ. Ông bà cha mẹ đã nghe. Chú bác cô dì đã nghe. Rồi con cháu cũng nghe.  Hồi đó nghe bây giờ nghe mà hổng chừng mai sau rồi cũng nghe y vậy. Nghe  vọng cổ mà như nghe thiên cổ ! 

Đã có thời trên những cánh đồng trầm thủy buồn đến mênh mông, điệu vọng cổ đã là cái nguồn giải sầu (?) vô tận. Chẳng vậy mà luồn theo nhịp sóng thương  hồ, giữa hai hồi mỏi mê chèo chống, còn gì bằng tụm năm tụm bảy, làm bậy vài  xị đế với miếng khô cá sặt đưa cay, vửa khi sông nước tươm khói rưng rưng, nổi  hứng hò chơi vài điệu huê tình rồi bắt trớn làm một hơi sáu câu Sầu vương biên  ải ... Có cây lục huyền cầm tích tịch tình tang cũng tốt, mà không thì đôi đủa tre  hay cái muổng thiếc gỉả nhịp song lang lắc cắc cũng đủ thấy đời ... vui dù hát  vọng cổ mười lần thì đã hết chín lần thấy hiu hiu buồn lại. Người miền nam già 

trẻ lớn bé người nào mà không thuộc lỏm bỏm một vài câu ... Hát đúng nhịp  cũng tốt mà sai cũng không sao. Ai hơi đâu mà bắt bẻ cơn hứng tình bất tử.  “Dui” thôi mà. Tôi với em là gió là mây là hoa là bướm. Ôi gió thoảng mây bay hoa tàn  bướm lượn, mới yêu nhau mà đã gọi cố nhân ... rồi. (***) 

Dĩ nhiên không phải cổ nhạc miền nam chỉ rặt có một điệu vọng cổ thôi đâu. Còn  nhiều bài bản lắm. Những là ba nam sáu bắc, xàng xê, kim tiền, lý con sáo, sơn  đông hướng mã, thủ phong nguyệt, rồi khốc hoàng thiên, tây thi ... rồi còn đảo  ngũ cung, tứ đại oán ... gì gì nữa ... mà điều có phải đào kép gì đâu mà phải  rành-sáu-câu dữ vậy... chỉ cần sáu-câu-vọng-cổ là đã đủ đi ăn giỗ dài dài rồi.  Phải không ? 

 

Nghe hung tín nhị ca đà thọ khốn 

Hồng Đào Sơn em phi ngựa trở về đây 

Giữa pháp trường đá chạy cát bay 

Quân đao phủ sắp ra tay hành quyết 

Bớ La Thành ... vậy chớ Đơn nhị ca tội gì mà mày giế́́́t ... Đơn nhị ca ơi, tiền đồng  tịch kim bằng cộng lạc, hậu lâm nguy bất kiế́́́n đệ huynh khiế́́́n cho Tần Quỳnh đây ruột  thắt gan ... bào . (****) 

 

Hổng biết hồi xưa ông Đơn Hùng Tín mặt xanh oan ức ra sao chớ bây giờ quanh  mâm giỗ, cái câu hát nửa chữ nửa nôm đó âm vang rổn rảng như một cáo bạch  bi tráng về hai chữ thủy chung, nghe mà khoái đến vểnh râu dựng tóc ! Sẵn vậy  ngửa cổ nốc ực một hơi cái ly đế còn ngần ngại, há không sướng lắm ru ! 

Vậy mà sao có thời vọng cổ bị xếp hạng với nhà quê, như một thứ nghệ thuật  hạng nhì, theo kiểu cải lương hát rạp bình dân. Có phải sự gán ghép, đồng hóa  vọng cổ với cải lương là cái số đoạn trường của nó dù thật ra vọng cổ cũng chỉ là một bài bản trong nhiều bài bản mà người ta đã dùng để dựng tuồng. Hiểu  theo nghĩa những tuồng tích lai căng, dễ dãi, tạp nhạp, từ cách dựng chuyện đến  lối phân cảnh, diễn xuất, ca hát hết sức cường điệu chìu theo thị hiếu của khán  giả khi trình độ thưởng thức còn ở mức phôi thai. Dĩ nhiên ở đây phải hết sức  thận trọng để phân biệt với những công trình làm mới của ông Năm Châu từ vở 

 

Sân khấu về khuya và sau đó với nhóm Hà Triều Hoa Phượng hay Hoàng Khâm  hay ... Nhưng mà dẫu mới dẫu cũ, cải cách hay canh tân, gì thì gì, tuồng tích dù hấp dẩn hay lảng nhách, xả hội hay hương xa, đánh kiếm hay bắn súng, đào kép  điệu nghệ hay dở òm, bao giờ cũng vậy, vọng cổ luôn là cái bài bản đã được  dành sẵn cho những lúc gay cấn nhất, những hồi lâm ly nhất, những khi trầm  trọng nhất, những cảnh “ăn khách” nhất của một vở tuồng. Ngay đúng lúc đó, vô  sáu câu, (phựt đèn màu !) ... là bảo đảm ăn chắc, trăm lần như một, không có cái  vụ trả giấy đòi tiền lại bao giờ.  

 

Nghĩ thêm chút nữa, rồi có phải vọng cổ cũng chỉ là nạn nhân của sự phổ thông  quá mức của chính mình. Tại người ta yêu thích quá nên người ta gán ghép cho  nó những vai trò mà lắm khi nên tránh bớt. Nhưng biết nói sao bây giờ khi số phận của vọng cổ là số phận của những “siêu-sao” ! 

Vậy sao không trả lại cho vọng cổ cái vòng hoa nguyệt quế của nó. 

Và sao không thử hát lên để nghe lại một lần ... một lần nào đó, bỗng thấy mình  lang thang dọc một bờ sông rất lạ mà lại nhắc đến một bờ nước rất quen, hát lên  đi để nghe thử cái âm vang buồn kỳ cục dội lao xao như sóng vổ vào một bờ bến đã mù ... 

 

... tôi đứng đây mà tưởng chừng đứng trên bờ sông Mỹ Thuận, khi mình quay  xuồng tách bến để trở lại với hai con. 

Bờ cây xa mờ nhuộm khói hoàng hôn. Con nước lớn lục bình trôi rời rạc. Chiề̀̀̀u đã xuô ́́ng mặt trường giang bát ngát mà bóng người thương lẫ̃̃̃n khuất giữa  sông ... đầy. 

Tôi liên tưởng đế́́́n ngày sau mình cũng lận đận trên dòng đời ... (*****)

 

Nghe lại chưa, cái tiếng đoạn trường đó ... 

 

Cao vị khanh 

(*) (*****) Tuyệt tình ca-Hoa Phượng Ngọc Điệp 

(**) Nguyệt Ánh 

(***) (****) Không rõ tác giả 

. tranh Picasso 

-Tuyệt tình ca 

https://www.youtube.com/watch?v=Cri88N0X57M 

-Tần Quỳnh khóc bạn 

https://www.youtube.com/watch?v=_ABBLSsAgfc

cvk_camta.jpg
cvk_Moinamhoadaono.JPG

                                                      Mỗi năm hoa đào nở...

 

... câu thơ gỏ từng chữ vào lòng như ngón tay gỏ vào từng phím nhớ của một bản hoài cảm đã được dạo đi dạo lại nhiều lần, hằng năm một, và sẽ còn được dạo lại thêm những lần nào nữa? Câu thơ như nhản hiệu một sản phẩm đãđược-cầu-chứng-tại-tòa, không thể đánh tráo, không thể lầm lẫn, không thể gian lận vào đâu được.

 

Mỗi năm hoa đào nở...

 

...ờ ở đâu mà bỗng bay về những tấm giấy hồng điều lấp láy lớp kim nhủ mới tinh trên sợi giây giăng ngang hai đầu một tường vôi lở ... ờ có cơn gió sớm làm gây gây lạnh trên chút da để hở thổi lại từ hướng nào ... dường như từ hướng bờ sông cái theo con đường lớn có hai hàng me già mới thay lá non xèo ... ờ chiếc áo dài đen cũ rích tới sờn bâu có in hình mấy chữ thọ, chiếc khăn đóng chít hình chữ nhân ngay giữa trán, mấy ngón tay thuông xương xẩu, chòm râu bạc lốm đốm và đôi mắt, đôi mắt đục lờ có một vẻ gì vừa kiêu hảnh vừa nhẩn nhịn ... Ngoài trời mưa bụi bay ...

 

Vậy đó. Hễ cứ mỗi năm hoa đào nở là ... là lại thấy ông đồ già ... là ... là cứ y như ... tết đến.

 

Hiển nhiên như một phản ứng hóa học, không sai chạy một ly tử, và gọn gàng như một cái búng tay, câu thơ gọi về những hồn xưa đã tản lạc, dựng dậy những cảnh cũ còn trầm tích dưới mấy lớp nhớ hư hao, làm nở lại một bông hoa vàng đã héo, lay dậy một hơi gió đã mỏi, dựng dậy một góc phố một lề đường một ngã tư một hẻm chợ ... rồi là những mặt người những dáng dấp ... rồi tiếng nói tiếng cười tiếng kêu tiếng la tiếng o bế tiếng cự nự tiếng gà vịt đập cánh phành phạch tiếng heo con ăng ẳng tiếng heo nái ủng ỉnh tiếng chuông xe đạp leng keng tiếng bố thắng xích-lô ken két tiếng quần lãnh sột soạt tiếng trẻ nít rượt đuổi tiếng con trai chọc gái tiếng cô hai cô ba xì xò nguýt háy tiếng cô tư cô năm đỏng đảnh làm duyên tiếng chệt-hàng-xén ngọng nghệu tiếng chú-bảy-chà-và lơ lớ tiếng trả giá cò kè tiếng nài nỉ thêm bớt ... rồi là cái mùi hăng hắt của rau cải úng nước, mốc meo của vải vóc ủ kho, tanh tanh của thịt cá ế thiu, nồng nặc của cống rảnh ứ đọng, của mồ hôi đúng ngọ, của bả trầu xế trưa, của dầu thơm rẻ tiền, của bi-giăng-tin bóng lưởn, của ... của một-ngàn-lẻ-một thứ vật thực trần gian đã ứ đọng ở đó từ bao nhiêu đời, cộng thêm một-ngàn-lẻ-một thứ vật thực y như vậy nhưng còn mới nguyên, cộng thêm cái mùi thơm phức ngọt bùi béo ngậy của mứt dừa-mứt bí-thèo lèo-cứt chuột-nội địa của chà là-hồng khô-nhập cảng một-năm-mới-có-một-lần họp lại thành một thứ mùi ... rất-chợ-tết. Cái hoạt cảnh cứ diển ra hàng năm mà mỗi năm cứ mỗi mới mỗi vui ... người qua lại vội vã mua sắm, những sạp hàng bày vội chen lấn ra mặt đường đã cấm xe từ sau ngày đưa ông táo, chưng dọn mớ trái cây bánh mứt, rượu tây, trà tàu... như cả năm chưa bao giờ được chưng dọn như vậy... những hình ảnh vụn vặt những âm thanh tứ tán đó bỗng chấp chới tụ về, chắp chắp nối nối... để ráp lại nguyên hình một mùa xuân trong quá khứ, một cái tết nhất định ở một nơi nhất định - một cái tết sẽ không đầy đủ nếu đâu đó trên cái bối cảnh hỗn tạp đó không có chấm phá mấy nét thiệt tiêu sơ ...

 

... ở một góc rất khuất, khiêm nhường như chính cái mặt hàng được móc treo trên mấy sợi giây nhỏ xíu, những nét chấm phá ngang dọc dù có bay lượn rồng rắn cũng không làm vui hơn cái dáng điệu buồn rầu của ông hàng chữ cuối mùa ... Người thuê viết nay đâu. Giấy đỏ buồn không thắm. Mực đọng trong nghiên sầu. Mãi về sau nữa, lâu lắm, dù đã ở một nơi rất trái mùa. Mỗi năm hoa đào nở. Sắt son như một lời hẹn. Câu thơ làm con én đưa tin. Người ta thấy lại bằng con mắt tâm linh ông đồ già bày mực tàu giấy đỏ ... Người ta ngửi lại mùi xuân bằng cái mũi hồi ức ... Và rồi người ta đón tết, vơi vơi kỷ niệm...

 

Ở một tỉnh nhỏ nằm chen giữa hai nhánh sông lớn của miền Nam, trời mưa nắng hai mùa, mỗi năm không có hoa đào nở mà chỉ có hoa mận, hoa bưởi, hoa cam ... chỉ có hoa mai mà lại còn phải lặt lá từ rằm tháng chạp... Trời đất đâu có gởi tới một dấu hiệu riêng nào ngoài một chút gió bấc làm lạnh se da những buổi sáng thức sớm theo cha ra tỉa kiểng. Thành ra lớn lên đi học rồi cứ theo ông đồ của Vũ Ðình Liên mà đón tết. Bài học đâu từ cái thời tiểu học vậy mà làm nhớ dai nhớ dẳng. Lớn lên rồi trèo lên trung học đại học vẫn còn nhớ hoài nhớ hũy cái hình ảnh gợi tết rất ngậm ngùi đó. Mỗi năm, dù đang ở đâu, cứ vừa nghe trời đất rậm rật trở mình là câu thơ bật nhớ... mặc kệ những tất tả của tháng cuối năm. Mỗi năm hoa đào nở. Cứ vậy đó, mỗi năm, hằng năm, năm này sang năm khác ... theo cái nhịp quay rất đều tay của thời gian lại thấy ông đồ già bày mực tàu giấy đỏ trên phố đông người qua ... để cho tết đến. Rồi năm nào như năm nấy cũng thấy lại ... y nguyên cái dãy phố tàu chưng dọn se sua một cách lộn xộn như... phố tàu, nhà lồng chợ cũ kỷ được che thêm trại dựng thêm rạp làm đã vốn luộm thuộm càng thêm lộn xộn, bạn hàng đi đi lại lại chộn rộn ra vẻ còn chộn rộn hơn trong năm, cái bến nước nằm kề khu chợ cá bỗng dưng tấp nập ghe xuồng, chúc mũi đổ lên bờ những người khách xa đâu từ những thôn ấp hẻo lánh rủ nhau đi chợ tết. Chợ tưng bừng sinh khí mới. Và vẫn vậy...

 

... vẫn vậy... ở một góc phố khiêm nhường nhất, cũng lại cái hình ảnh lặng lẽ nhất mà lại mang lòng nguyên đán nhất lại nhẫn nại xuất hiện, chậm rãi trải chiếu trải khăn, khoan thai mài mực tàu trịnh trọng phơi giấy đỏ ... rồi vén áo gò lưng ngạo nghễ phóng tay phác những nét phượng múa rồng bay mặc kệ cái dửng dưng vô tình nhất của người thiên hạ... Ngoài trời mưa bụi bay.

 

Rồi là những chữ thảo, chữ triện, chữ chân phương ... thi nhau xổ móc tung hoành, những lời chúc, lời cầu, lời xin thi nhau bay lượn. Ba cái chữ phước- lộcthọ thì tròn trịa như chính sự sung mãn, những câu thơ chữ Hán quen thuộc năm-nào-như-năm-nấy-từ-đã-mấy-ngàn-năm. Thiên tăng tuế nguyệt, nhân tăng thọ. Xuân mãn càn khôn, phúc mãn gia ... đọc lên nghe rổn rảng cứ y như là phường tuồng. Vậy mà vui lắm. Mà chí tình lắm. Ðủ để người ta nghe hớn hở, nghe náo nức, nghe rộn ràng, nghe hy vọng dù có đang chạy chết để lo ba bữa tế t... Vậy chớ mùa xuân không phải là mùa hy vọng sao, tết không phải là hy vọng sao. Cho nên bỏ ra vài đồng bạc để mua về tấm giấy đỏ treo nhà cũng được, mà không mua cũng không sao, lời chúc lành đã bay đầy trời đó .... Ai cũng được hưởng phước lây...

 

Rõ ràng là ăn-tết ăn gì cũng được, nem, bì, bánh tét, bánh ít, thịt kho dưa giá xàbần, bánh phồng tôm, bánh phồng-mì-va-ni-nước-cốt-dừa-đường-cát-trắng... gì gì cũng được. Nhưng cái không thiếu được là mấy tấm giấy đỏ chữ đen mang một lời chúc lành không biết có ứng kịp hay không trong năm. Mà điều ứng hay không lại là chuyện khác. Chuyện ở đây là cái vẻ tết mà ông đồ và mớ giấy đỏ của ông đã tạo nên trong sinh hoạt dân gian. Làm như cả hai, ông đồ và ngày tết, đã được gắn liền vào nhau bất khả phân ly. Nói như vậy không có nghĩa là phụ bạc cái công đóng góp rất khoái khẩu của dưa hấu, của hột dưa -ôi cái miệng cắn hột dưa kêu lách tách còn trây trét lại trên môi dấu đỏ xinh xắn như một vết răng cắn phạm !-, của hột sen, của chuối ngào gừng, của bánh mứt, của la de tôm khô củ kiệu ... Nói như vậy chẳng qua là ngầm hảnh diện cái tánh trọng văn của người Việt. Bởi vì làm như ba cái thứ đồ ăn thức uống đó mới chỉ là da là thịt của tết. Còn chính mấy tấm liễn đỏ của ông đồ già mới là cái phần hồn làm nên phong vị. Dĩ nhiên cái nào có phần nấy, không có kỳ thị gì hết. Tuy nhiên mấy chục năm rồi, ở đâu đó trên mặt đất này, ngoại trừ cái chỗ chúng ta đã sinh ra và “ăn tết” trước khi bỏ trốn, những cái tết qua đi nếu không lãng nhách thì cũng lãng òm mặc dầu thì cũng thịt kho dưa giá, khổ qua dồn thịt, rượu tây rượu tàu ... chính là vì có còn cái phong vị đó đâu. Chẳng phải chỉ riêng cái đó làm nên tết đâu, mà là một tổng thể còn nhiều thứ khác nữa, nhưng thiếu gì thì thiếu mà thiếu cái hình ảnh lãng đãng đó nên mọi cái khác có đó mà như mất hồn ...

 

Người ở xa, xa tăm tắp quê hương, không những chỉ quan san ngoài sông núi, mà quan san ngay chính giữa lòng mình. Biển xanh thì cứ y nguyên dặm trường mà lòng người thì tang thương đã quá độ. Trí nhớ thì cứ như một người tình khó tánh, nay vầy mai khác, cái muốn nhớ thì quên, cái muốn quên thì lại nhớ. Ai đời đã xa ơi là xa trời đất đó, khí hậu đã lộn lạo, mùa màng đã sang đàng mà mỗi năm cứ gở tới tờ lịch Tam tông miếu cuối (ấn bản hải ngoại) là lòng cứ thấy băn khoăn rồi năm nay sẽ ăn tết ra sao. Hỏi thì cứ hỏi chớ câu trả lời thì đã sẵn đâu từ hồi mới bỏ xứ mà đi. Ở đây có tết đâu mà ăn. Mà có ăn thì cũng trệu trạo ba cái món cam-giang-nam-đem-trồng qua-giang-bắc cũng chỉ thấy nhạt phèo. Chỉa đủa gắp miếng thịt đọng mở đục ngầu là cái bụng lại ớn ngược nhớ miếng thịt phay trụng nước sôi trong vắt. Nhai miếng dưa-cải-bọc-ny-lon-made-in-Thailand là cái răng tê tái nhớ miếng dưa-cải-má-muối-trong-khạp-đậy-bằng-lá-chuối-sauvườn ... Còn ba cái hội xuân chợ tết cũng phải kéo nhau vào trốn lạnh trong những hội trường cửa nẻo kín bưng tới nỗi áo dài người xưa tha thướt đến vậy mà bây giờ hai vạt cũng đành buông thỏng ngây đơ đến tội tình. Ôi ! Áo màu không gió cũng thôi vàng. Trong ta còn lại đìu hiu vắng ...

 

Nói vậy rồi ngẫm nghĩ lại mà thấy băn khoăn. Hóa ra cái ăn cái mặc của người ta coi vậy mà quan trọng hết sức. Người lưu vong ở xứ người ăn uống đủ thứ thập vật. Nhất là ở những xứ gọi là họp chủng đa văn hóa này, thực phẩm là cái món được chủ trương cho sống chung hòa bình nhất. Từ cái món cầm tay " to go " đơn giản nhất tới cái món nấu nướng cầu kỳ nhất, từ cái kiểu ngồi bệt ăn bốc ăn hốt đến cái kiểu ngồi thẳng lưng ăn ly tách dao nỉa lỉnh kỉnh nhất ... phải nói là không thiếu cái chi. Thử, nếm, chấm, mút ... ôi thôi tha hồ. Thiếu điều riết rồi có khi phải tự đặt cho mình những kỷ luật kiêng cữ còn nghiêm nhặt hơn kỷ luật nhà binh nữa. Vậy mà xét ra chưa đủ. Bởi vì như đã nói ăn gì thì ăn lang bang được mà ăn tết lạ chỗ thì không được. Ăn tết ở xứ người trăm phần không thấy ngon. Muốn ngon miệng phải về ăn tết tận quê tận nơi tận chỗ. Phải ăn tết với tất cả cái phụ tùng cần thiết của nó. Một nhánh mai, một cành đào, một chậu thủy tiên, một đòn bánh tét nấu đêm giao thừa bằng nồi đất chụm lửa củi, một miếng bánh phồng nướng lửa than ... một bao thơ đỏ, một tấm liễn hồng điều ... và nếu được đôi ba chùm pháo chuột lại càng vui như ... tết.

 

Chẳng vậy mà mới nghe phong phanh tết đến đã không ít người vội vã chầu chực, chạy chọt, xin xỏ cho được cái visa (dù mình về quê mình) để ... ăn tết. Tin trong một tờ báo ở đây năm nay có đâu khoảng 300.000 việt kiều hồi hương ăn tết. Nghe mà thương nhưng buồn. Hóa ra hằng năm dù ở đậu nhưng cũng ăn nhờ không biết bao nhiêu lễ lạc lớn nhỏ của người ta, từ tạ ơn đến giáng sinh, từ halloween đến tết tây... vẫn là chưa đủ. Lòng việt kiều vẫn muốn khều cành nam. Ðồng đô la xanh vẫn mạnh hơn đồng đô la vàng. Và nhờ đó, tết nhứt lại có chiều nhứt dạ đế vương (không giương cũng uổng !!! )

 

Trách ai bây giờ. Người ta về quê ăn tết cũng là hợp với cái luận lý nước chảy về nguồn, dù cái nguồn đó có đôi khi làm người ta tá hỏa tam tinh như Từ Thức về trần. Thì thôi ăn tết ở đâu cũng vậy, ăn tết ở quê nhà ... nhà nước cám ơn.

 

Chỉ đáng đời cho cái đám thân đã quy Tào mà hồn còn Từ Thứ, bắt chước Bá Di với lại Thúc Tề, cứ ráng gồng mình chịu rét làm cái thân thông suông đuột đứng giữa trời mà kêu réo, đến ngày tư ngày tết trùm khăn trùm áo, mang ủng lội tuyết đi đón xuân ở một nơi chưa tới kỳ xuân, làm bộ ăn tết ở một chỗ không có gì là tết. Chừng không thấy tết ở đâu thì buồn mà khi có người dổ ngọt về quê thì dẩy nẩy như đạp phải đinh chong tẩm độc...

 

Mà điều nói thì nói vậy, chớ ngó trước ngó sau rồi càng lúc càng thưa thớt những tấm lòng lạc điệu đó. Mỗi một năm một vắng... chẳng khác gì cái ông đồ già trong thơ Vũ Ðình Liên ... Nhưng mỗi năm mỗi vắng ...

 

Ông đồ vẫn ngồi đây

Qua đường không ai hay

 

Qua đường không ai hay !!!

 

Caovị khanh

 

* tựa và chữ in đậm, trích thơ của Vũ Ðình Liên

____________________________________________

CVK_cuoinamdocNB.JPG

Nguyễn Bính đã có lần từ Bắc vào Nam. Con đường xe lửa xuyên Việt thời đó kể đã là thiên lý. Bỏ xứ đi xa đằng đẳng như vậy thì làm hành là phải lắm. Hành Phương Nam.

 

Đôi ta lưu lạc phương nam này.

Trải mấy mùa qua én nhạn bay

Xuân đến...(*)

 

Tâm cảnh đã không yên thì xuân đến hay xuân đi cũng chỉ là cái cớ. Lòng đã ở ngoài đó thì trời nước trong này chỉ là một dãy bơ vơ. Đầu năm hay cuối năm có khác gì nhau khi thời gian chỉ là thứ dấu mốc cắm chia những đoạn đời hồi ức.

Ta đã làm gì đời ta. Ý nối ý quấn quít, chữ níu chữ không rời làm thơ tuôn ra như bầy ngựa sút cương, xổ bờm mà chạy. Hành. Đọc lên thấy bồi hồi xốn dạ...

Xuân đến khắp trời hoa rượu nở.

Riêng ta với ngươi buồn vậy thay

Lòng đắng sá gì muôn hớp rượu

Mà không uống cạn mà không say (*)

 

Say. Uống cạn. Mà chắc gì uống cạn rồi say. Khi ruột đã đau-chín-chiều thì uống bao nhiêu cho cạn nhớ. Túy đảo túy điên sầu tự sầu.

Cuối năm. Đất khách. Thơ ai không nhớ lại nhớ thơ ông. Lại nhớ đúng cái bài hành ông đã làm khi lưu lạc trong nam, lúc năm cùng tháng tận.

Hành.

Những bài thơ dài như không muốn hết. Những ý tình lơ lửng như không biết bám vào đâu. Những câu thơ bảy chữ âm vận mang mang như nỗi lòng sấp ngửa.

Hành. Trăm mối ngổn ngang. Chữ nghĩa ba đào dậy từ lòng lữ thứ.

Đôi ta lưu lạc phương nam này

Trải mấy mùa qua én nhạn bay(*)

 

Phương Nam. Trời Nam ngàn dặm thẳm, mây nước một màu sương. Nguyễn Bá Trác.

Đọc hành rồi biết ông ở nam mà nhớ bắc nên lòng tôi lại cứ chực chờ đổ ngược mà xuôi nam.

Miền nam. Quê tôi đó. Miền nam, Sài-gòn, lục tỉnh. Miền nam, Vĩnh long, Rạch giá... Miền nam, cái miền đất mưa nắng hai mùa chán phèo, không gợn chút heo may để làm nhớ, không thấm chút mưa phùn để vướng lạnh vai ai. Vậy mà tôi cũng nhớ lắm như ông nhớ quê ông vậy. Xuân đến khắp trời hoa rượu nở. Riêng ta với ngươi buồn vậy thay.

Ông bỏ đất bắc vào nam có non ngàn cây số đã coi là lưu lạc. Tôi ở đất trích mịt mù san dã chắc phải nói là lưu lạc tới chục lần. Ông xa quê vì lý do nào không rõ nhưng dù cay đắng cách mấy ông vẫn còn có chỗ để quay về. Chớ còn tôi bỏ quê vì một lý do rất rõ nên không còn nơi để trở lại. Ông làm thơ giọng điệu cao kỳ ngất ngưởng mà nghe ra sao cứ thấy ngậm ngùi... Ngươi sang bên ấy sao mà lạnh. Nhịp trúc ta về lạnh mấy mươi. Tôi đọc thơ ông rồi cũng ngậm ngùi theo. Lúc năm cùng tháng tận, tôi thương ông rồi lại thương tôi...

Xuân đến khắp trời hoa rượu nở (*)

Hoa rượu ?

Mà nào tôi có thấy hoa rượu ra sao. Sao không đọc thử lên như giữa lòng tôi, đã thấy.

Xuân đến khắp trời “hoa mận” nở

Xuân đến khắp trời “hoa mận” nở

Hoa mận. Thứ hoa nở thành chùm trắng muốt cứ rung rinh mớ nhụy vàng như để dỗ ong bướm về chơi. Hồi đó hơi sức đâu mà để ý tới cái thứ bông hoa quêmùa kiểu lòng mương ý rạch. Vậy mà bây giờ sao lại nhớ ơi là nhớ. Nhớ con đường số 4 chạy miệt mài qua những vườn mận Trung lương Bến Lức. Nhớ lớp đất đen vét mương vun gốc bốc dậy mùi sình non sỗ sàng. Nhớ giỏ mận hồng  đào mịn mướt như má con gái dậy thì chất đống hai bên bờ bắc Mỹ thuận. Nhớ cây mận lão đầu nhà cháy nám đạn bom vẫn thủy chung ngọt lịm. Nhớ bầy kiến vàng kiên nhẫn bò ra bò vô nếm mút tranh kình với đàn ong đám bướm. Hồi đó. Cả một giồng đất phù sa từ miệt Cái bè Cai lậy đổ dài tới Sa đéc Vĩnh long bỗng trở mình thơm ngát khi gió cuối năm chớm lạnh làm nở bừng từng chùm hoa mận trắng tươi. Tinh sương, hương đã dậy đồng, bay qua vườn qua rẩy, len qua mấy cánh cửa lá sách, chui vô mấy cánh mũi phập phồng như để chọc ghẹo cái khứu giác còn ngái ngủ. Xuân đến khắp trời hoa mận nở. Một trời bông mận nở.

Quê tôi bừng dậy náo nức theo nhịp mùa sang. Năm sắp hết. Lúa mới phơi giữa sân. Sau nhà đã nghe tiếng chày quết bánh phồng inh ỏi... Rồi Tết đến, rồi...

Chút vậy thôi “hoa rượu” của ông đã làm dậy cả trong tôi mùa màng thời tiết cây trái của một vùng đất thân quen đã bắt đầu lạ lẫm. Chút vậy thôi “hoa mận” của tôi bỗng làm nhớ đến cả những con người ở đó, đã có lúc keo sơn gắn bó giờ thì xa đến ngăn ngắt một biển dâu. Người còn sống, thắc thỏm. Người đã chết, uất hận. Và sự sai chạy của một hẹn thề.

Lời thề buổi ấy cầu Tư Mã

Mà áo khinh cừu chưa ai may

Ngươi giam chí lớn vòng cơm áo

Ta trói thân vào lụy nước mây

 

Ai biết thương nhau từ buổi trước

Bây giờ gặp nhau trong phút giây

Nợ thế trả chưa tròn một món

Sòng đời thua trắng đến hai tay(*)

 

Ta có làm gì đời ta. Hay ta chỉ bội phản đời ta. Đã có lần nào ngồi lại, ngó ngược ngó xuôi, tính lui tính tới để thấy ta đã làm gì đời ta. Bỏ nước ra đi đâu phải để cầu tư mã. Vậy mà đôi năm đã nhụt chí sờn tâm. Vậy mà mươi năm chuyện nước non đã trơn trớt ngoài đầu môi chót lưỡi. Quanh đi quẩn lại phường tuồng vẫn còn đó, chỉ có cái chữ sắt son là thua thiệt.

Tâm giao mấy kẻ thì phương bắc

Ly tán vì cơn gió bụi này

Người ơi, buồn lắm mà không khóc

Mà vẫn cười qua chén rượu đầy(*)

 

Ngày Kinh Kha ngược sóng sang Tần, mấy ngàn con dân nước Yên đầu chit khăn trắng vòng tay tiễn ra tận bờ sông Dịch. Việc không thành nhưng ít nữa cũng không phụ lòng Phàn Ô Kỳ tặng đầu và mỹ nữ đã hiến tay-chuốc-chén.

Hỡi ơi Nhiếp Chính mà băm mặt

Giữa chợ ai người khóc nhận thây

Kinh Kha quán lạnh sầu nghiêng chén

Ai kẻ dâng vàng kẻ biếu tay(*)

 

Ông Nguyễn Bính ơi, ông nói chuyện ông mà lồng chuyện đời chiến quốc, cái thuở có những hào sĩ mài dao trủy thủ, ngậm than, rạch mặt, nằm giường gai, nếm mật đắng ... để giữ một lời thề...

Lời thề. Lời nguyền. Rồi ra chỉ là cố sự.

Cuối năm, đọc tới đọc lui mới thấy thơ ông làm mấy chục năm trước mà vẫn còn mới nguyên tới bây giờ. Đời nào con mắt thế nhân cũng trắng dã. Tâm của ông là tâm kẻ thất chí mà thơ của ông là thơ kẻ ngang tàng. Giọng tha thiết kêu rêu mà vang âm lạnh lẽo có khác gì tiếng cười gằn, khinh bạc. Cái kiểu nói cười sang sảng mà bụng dạ rầu rĩ đã quắt queo. Sao không một lần vung tay cho huê dạng.

Vẫn dám tiêu hoang cho đến hết.

Ngày mai ra sao rồi hãy hay(*)

 

Ném tới đồng bạc chót vào cuộc chơi. Hay xả thân tới cùng cho một lý tưởng.

Nhìn từ một góc độ nào đó, cả hai có khác gì nhau. Dẫu sao cũng còn tiếng taychơi-thứ-thiệt. Chẳng hơn cái đám mày râu nhẳn nhụi, sĩ-khí-rụt-rè-gà-phải-cáo, hai con mắt láo liên chỉ chực chờ đón hướng gió mà náu thân. Hai chữ hão hớn, rồi ra, chỉ còn để gọi cho đám yên hùng ngoài bến nước.

Ông có điều khó nói mượn chuyện xưa mà cay đắng chuyện nay. Tôi đọc ông mà thấy nguyên hình kẻ thất thế, bó tay đành đoạn. Giày cỏ, gươm cùn, ta đi đây. Đi đâu? Chẳng qua cũng chỉ để dối lòng. Còn chỗ nào để tới khi cái chỗ phải về đã bít lối, chỉ còn qượn từng đám mây trắng tha hồ, khi ngoảnh lại.

Mây trắng. Vân hoành Tần lĩnh gia hà tại.

Ở đây không có núi nên không có mây vắt ngang đầu núi. Tôi lại đâu có được cái nghênh ngang như ông tướng tàu nào đó mà chỉ tay cảm thán. Vậy mà đọc thơ ông vẫn thấy mây bay cuồn cuộn về nam. Về Nam.

... trời Nam mù mịt. Hồ trường. Sao lại nhớ Nguyễn Bá Trác. Trai trẻ bao lâu mà đầu bạc, trăm năm thân thế bóng tà dương. (**)

Ta đã làm chi đời ta !

Người ơi buồn lắm mà không khóc !

 

Cao vị khanh

(*) thơ Nguyễn Bính (**) thơ Nguyễn Bá Trác

________________________________

CVK_Su thi.JPG

SỬ THI

 

HUYỀN TRÂN

em ngồi con-mắt-huyền-trân

tôi qua cửa lớp không dưng ... buồn buồn!

em buồn điệu quá ải quan

tôi buồn cái điệu tướng Trần, ngậm cay.

 

NGUYỆT NGA

em ngồi con-mắt-nguyệt-nga

cái môi cắn chỉ như "tha" bả trầu

nhỏ ơi thương nhỏ mà rầu

lỡ làm quân tử hảo cầu sao đang.

 

MỊ NƯƠNG

em ngồi con-mắt-mị-nương

tay che nửa mặt điệu buồn cổ thi

từ em, tiếng ấy thầm thì

tim tôi chén ngọc Trương Chi…vỡ òa.

 

GIÁNG KIỀU

em ngồi con-mắt-giáng-kiều

tôi rao Kỳ ngộ thiếu điều ruột đau

làm sao về lại Bích Câu

khi em áo lỡ qua-cầu-gió-bay.

cao vị khanh

_____________

CVK_và rồi những cuộc chia tay.JPG

Có lần tin đến muộn, rất muộn, nhưng dẫu sớm hơn cũng chẳng níu giữ được ai, họa sĩ Chóe tức Nguyễn Hải Chí vừa từ giã cõi đời. Những nét minh họa bén như dao khắc trên tuần báo Khởi Hành những năm 60-70 đã từng làm sửng sốt hơn một người xem.

 

Trước đó tin ca sĩ Duy Khánh qua đời. Tiếng hát trúc trắc của miền Trung trục trặc dẫu thích hay không vẫn rất thân quen trong cái sinh hoạt văn nghệ rất mực trăm-hoa-đua-nở của miền Nam ngay từ lúc bom đạn còn đương mù mịt. Chừng đâu tháng trước nữa, ở Úc, điêu khắc gia Lê Bá Ðảng cũng bỏ đồng bỏ đá bỏ dao cọ mà đi...

 

Dẫu trước hay sau rồi cũng lần lượt bỏ đi, nhà văn Mai Thảo, nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên ... lâu hơn nữa những Việt Hùng kép đẹp của Ðầu xanh vương khổ hận, Hùng Cường kép mùi của Tướng cướp Bạch Hải Ðường, nhà văn kịch tác gia Vũ Khắc Khoan của Thần tháp rùa, nhạc sĩ Phạm Ðình Chương của Mộng dưới hoa, nhạc sĩ Trúc Phương mà ai đã có lần qua cổng một trung tâm nhập ngũ nào đó lại không nhớ thứ ngôn ngữ tình đặc biệt làm bằng dấu đôi tay, nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng với cái phát giác rụng rời ta nghiêng vai nghe lại cuộc đời thì hãi hùng hoàng hôn trờ tới, rồi Nguyên Sa của nắng Sài gòn anh đi mà chợt mát, rồi còn Lê Uyên Phương và Vũng lầy của chúng ta, rồi ở tận bên nhà Út Trà Ôn ôngcòquận-chín, lâu lâu hơn nữa nhà thơ nhà báo Thanh Nam của Bài hành bốn mươi... Bao nhiêu tên tuổi của một thời đã lần lượt bỏ cuộc chơi mà đi mất... Và còn ai nữa... còn ai nữa...

Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ

Thử địa không dư hoàng hạc lâu

 

Cái mặt đất này rồi đến lúc trơ trụi như cái lầu hoàng hạc và ánh chiều tà của một ngày xa xứ sẽ đìu hiu biết bao nhiêu...

 

Có những tên tuổi rất quen và còn bao nhiêu tên tuổi không quen biết, đã đến rồi đi, giữa cơn trường hận này...

 

Hơn ba mươi mấy năm trước, giựt mình bỏ chạy, có mấy người liệu được ngày gởi thây đất khách. Vậy mà ngày về rồi xa lắc xa lơ... Rồi tuổi tác, rồi bệnh hoạn, rồi gói mộng mà đi...

 

Cái chuyện người nhắm mắt xuôi tay cũng thường như cái chuyện người mở mắt chào đời, hằng hà sa số, ai hơi đâu mà kể lể. Có họa chăng mấy kẻ thân thích hoặc khóc hoặc cười... Mà điều, trong cái hoàn cảnh dở khóc dở cười của tôi, của anh của chị, của những người nửa đời nửa đoạn sao nghe ra cứ thấy ... ngậm ngùi. Có một cái gì đó đã qua đi, đang qua đi và sẽ qua đi mất... Cái gì đó là cái thời của chúng ta liền với một khoảnh đất, dù vinh quang hay tủi nhục, vẫn là suốt một thời chúng ta đã góp mặt, cùng khóc cười theo vận nước nổi trôi.

Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ

Cô chu nhất hệ cố viên tâm.

Giọt nước mắt ngày nào. Tấm lòng vườn cũ. Chữ của Đỗ-Phủ-lưu-lạc đôi khi mới thoáng nhớ đã nghe như nước mắt chực chờ ! Tội tình chi đeo đẳng khi đã cuối một đoạn trường ...

 

Xứ người gần bốn mươi năm vẫn thấy lạ trời lạ đất. Làm sao không lạ lẫm những tấm lòng. Còn lại chút quen-hơi-bén-tiếng dẫu không thân thích vẫn nghe ra rất ruột rà. Chút tơ-lòng-đã-cũ cứ làm nhớ triệu điều tha thiết cũ. Ở đây đôi khi nghe lại một tiếng hát một đoạn nhạc đã nghe từ khi còn ở quê lòng bỗng bồi hồi như thấy lại mình một ngày nào ở đó, đọc một câu thơ một bài văn của một người mình đã mến mộ từ khi chưa đi xa lòng bỗng thấy như thâu ngắn lại được chút nào cái khoảng cách trời cách biển. Làm như có một cái gì đó lẫn lộn giữa quê hương và người nghệ sĩ, kẻ thừa tự đầu tiên và cuối cùng mọi ân phước cũng như oan khiên của đất nước. Trong một liên hệ nhân quả nào đó, có phải nghệ sĩ là kẻ đã thừa hưởng cái tài hoa của dân tộc, ân huệ của đất đai thổ trạch, của sông ngòi kinh rạch, của mùa màng thời tiết nơi họ đã được sanh ra, lớn lên và un đúc nên vóc nên tài. Có phải chỉ chút gió lạnh đổi chiều đã làm lòng họ sang thu. Có phải hoa mới ngập ngừng đơm nụ mà hồn họ đã vô vàn cánh bướm. Họ hưởng trước ai hết và trả sau ai hết cả vốn lẫn lời từ hạnh phúc đến khổ đau của một dân tộc. Họ đã và đang làm cái kiếp con tằm cố trả hết nợ cho dâu. Có phải trọn hết cái hồn hậu của phù sa mấy miệt lục tỉnh đã trộn lộn lại cho mình ên ông Út ở Trà Ôn cái hơi vọng cỗ nghe mùi đến tận mạng. Có phải thi sĩ là kẻ đã thở cùng hơi với hương đồng cỏ nội hai bên bờ Cữu Long bát ngát, đã nhịp cùng mạch với nhấp nhô núi cả đèo cao suốt dọc dãi Trường Sơn ... Từ đó, tiếng họ ru hời có lẫn tiếng à ơi của mẹ già bỏ lại. Tiếng họ thở than có tiếng rên siết của quê hương tù đày, nghe họ hát hò, viết văn làm thơ, vẽ khắc ... làm sao không thấy lại cả một trời quê hương được dựng lại. Dẫu có mông lung.

Ờ, họ dính liền với quê hương như một. Nghe họ là nghe quê hương lên tiếng. Ðọc họ như thấy chính quê hương tâm sự. Trong một lúc. Vào một thời. Có ta ở đó. Mấy chục năm nay cứ bám víu vào họ mà sống, mà buồn vui... mà tự nhủ còn đó, còn đó... cái thời của chúng ta.

 

Có nhớ không chính những nét vẽ của Chóe đã làm nôn nao người thầy trẻ mỗi tuần chờ báo Khởi Hành trong một tiệm sách nhỏ dưới gốc cây me già ở một tỉnh miền tây. Những năm 70. Không khí tỉnh lẻ. Cái gì cũng chừng chừng phải phải. Ông thầy trẻ hai mươi mấy tuổi lại cứ thích để tóc dài, quần jean bạc thếch áo phạch banh nút ngực... thả lang ngoài phố như một tên du đảng.. Ờ nét vẻ của Choé ngang tàng trái cựa y hệt như một tuổi thanh niên cứ muốn thách đố với đời.

 

Vài năm trước nữa, những ngày thứ bảy lượn dài trên hè phố Lê Lợi, đợi nắng xuống chiều lên khi mấy cây me già vừa thả lá, kéo nhau vào quán Cái Chùa, gọi tách cà phê hay cốc rượu ngọt, đốt điếu Gitane thả khói loanh quanh rồi nghe Joe Marcel hát Phạm Ðình Chương bằng cái giọng rất lừng khừng chưa gặp em tôi đã biết rằng có người thiếu nữ đẹp như trăng... ... Ờ sao mà quên được, quên làm sao được, Sài gòn thuở đó thở nồng hơi nhiệt đới, má ửng hồng mà chẳng chút phấn son, tóc mai quến mấy giọt mồ hôi thoang thoáng, lưng áo vải tetoron vô ý mà hữu tình, ai mà không thích Lê Uyên Phương, khi có lần từ một căn gác trọ bước theo em xuống phố trưa nay mà đang còn nhức mỏi đôi vai...

 

Vâng những người nghệ sĩ đó họ đã nói giùm ta điều ta nghĩ -mà nói rất điệu, vào một lúc nào đó, ở một chỗ nào đó... Và như vậy, họ chính là ta vào lúc ấy, ở chỗ ấy... Cái lúc cái chỗ ở riết thành quen mà xa rồi là nhớ ơi là nhớ. Cái chỗ người ta nói tiếng Việt Nam, hát tiếng Việt Nam, làm thơ viết văn bằng tiếng Việt Nam, yêu nhau bằng tiếng Việt Nam và gây gổ chửi rủa bằng tiếng Việt Nam ... Họ là tiếng nói của một thời, là nhân dáng của một thuở. Nghe họ thấy họ làm như còn thấy lại một mảnh giang sơn đã rách bươm, từ lúc bỏ đi ... Ðọc họ nhìn họ như còn thấy lại cái góc vườn-cũ, của lần gặp đầu, của buổi chia tay, đường quen phố thuộc, chòm xóm thân quen, những giòng sông hẹn, những bến đò đưa... Những ca nhạc sĩ của một thời, những văn thi sĩ, những họa sĩ đã rung lòng theo nhịp rung của thời đại, những năm giặc giã, những năm chia lìa, bây giờ đang lần lượt ra đi, mang theo với họ sợi dây chằng giữ con thuyền lưu lạc với cái bến cũ đìu hiu.

 

Họ bỏ đi, chúng ta mất thêm lần nữa, quê hương.

 

Và nhất là nhìn từ một góc nào đó, họ còn là hình ảnh của sự tái tạo từ tro than, của sự phục sinh từ cơn bức tử. Hay nói cách khác, của một giấc mơ vĩnh cữu về một cảnh đời tạm bợ.

 

Họ đi rồi, bỏ lại dở dang ta, những hồi mơ xuân hiếm muộn.

 

Jorge Luis Borges. Tâm hồn thi sĩ có bao giờ thôi ước hẹn với thanh xuân.

 

Khi những ngôi sao bắt đầu tắt lửa, vòm trời giống y như một cõi lòng trống trơn.

 

Cao vị khanh

 

* Hơn 10 năm trước, viết với đề tựa Bắt đầu ... Mười mấy năm sau, dẫu không muốn rồi cũng phải sửa lại ... Và rồi ... và rồi những cuộc chia tay vĩnh viễn!

 

viết thêm

 

* Nguyễn Tất Nhiên “ Ngày 3 tháng 8 năm 1992, người ta thấy anh nằm chết trong một xe hơi cũ, đậu dưới bóng cây trong sân chùa tại California ” - Wikipédia. 

Thi sĩ Gởi theo NTN , người thi sĩ bạc mệnh

 

Tôi chắc người buồn từ một thuở

Đất trời còn dậy dáng hoang sơ

Cõi trong chưa tỏ niềm trăn trở

Người hãy còn chơi một cõi mơ

 

Tôi biết người vui chỉ phút giây

Đáy ly rượu cặn chát men say

Những hình hư ảo xoay cuồng vội

Tắt lịm khi trời trắng bóng mây

 

Tôi biết những người khóc lẻ loi *

Lệ nghẽn đường tim chẹn khóe môi

Gởi trả nợ tầm vay lỡ kiếp

Gối vòng nguyệt quế ngủ quên đời *

 

Thanh Tâm Tuyền

* Mai Thảo mất ngày 10 tháng 1 năm 1998 tại Santa Anna, Ca

Rượu khôn cầm

gởi theo Mai Thảo

 

Ta vẫn ngồi yên, đối bóng im

Người đi, chân nhủn có ai kềm

Chén rượu trần gian chừng đã cạn Chần chờ chi nữa, có gì thêm?

Người đi bất chợt thế mà hay

Rượu đã khôn cầm, cứ uống say

Rồi mai đập chén vào hư ảo

Rượu của trần gian trả lại mây

Rượu đỏ như lòng thuở mới yêu

Rót tràn theo mấy bóng đời xiêu Ngoài kia phố thị chiều thay áo

Quán nhỏ người xanh mắt tịch liêu

 

Ta với người chung một tuổi sầu

Dẫu đời kiêu hãnh giấu niềm đau

Đêm say bốc rượu cay tròng mắt Lòng vẫn ngùi thương chuyện bể dâu

 

Hãy giả vờ vui đêm trắng đêm

Tay xuôi oằn mỏi thiếu vai mềm Người đi ngoài cõi mù sương trắng Bãi trống loang dài một vết chim ...

(cuối tháng giêng chín-tám)

- Gởi thêm

Rồi miếu đền xưa cũng vắng tanh

Thơ bay cứ vướng một điệu hành

Hàng hàng xác chữ nằm thoi thóp

Đợi lửa phần thư cháy đoạn đành.

(tháng mười một chín-tám)

-Nhắn người đi ...

Nhắn Mai Thảo viên đạn đồng chữ nổi

Vẫn còn ghim trên chót đỉnh ngọn trời

Bãi cỏ non theo từng tháng giêng tươi

  Hình vẫn sáng giữa miếu đền trung thực

(chữ nổi – trích tựa vài tác phẩm của Mai Thảo)

***

... từ bài viết tới nay, đã thêm bao nhiêu cuộc chia tay, ồn ào hay thầm lặng, thì cũng là những cuộc chia tay ... vĩnh viễn!

Ờ, vĩnh viễn ... vì có bao giờ còn thấy nữa những trang chữ nghĩa tinh tế kiểu chẻ-sợi-tóclàmtư của Võ Phiến, những thao thức cội nguồn của Bình Nguyên Lộc, những hào hoa phóng lãng của Nguyễn Xuân Hoàng, những điên đảo phiêu bồng của Bùi Giáng, những nghênh ngang ngất ngưởng của Phạm Công Thiện, những và những

... Ờ, vĩnh viễn .... vì bên giáo-đường đã im bóng Quỳnh Giao, vì Hà Thanh đã thôi lướt thướt qua những-chiều-mưa-biên-giới, vì “ sầu nữ ” Út Bạch Lan đã tắt nhịp não nùng, vì Đinh Cường đã bỏ màu buông cọ, vì nhạc sĩ Thanh Bình đã bỏ-ta-trong-mưa-bay thì làm sao còn thấy lại được những mùa-thu-vàng-sau-lưng-ta nữa

... Rồi Phạm Ngọc Lư với Biên Cương Hành cũng vừa vượt cương tỏa bỏ tới vô biên...

Rồi ....

     Rồi ...

          Rồi ...

Thì thôi. Đã có đến thì sẽ có đi. Ai đó đã nói cuộc đời như quán trọ và ai nấy cũng chỉ là những người khách qua đường.

Nhưng làm sao quên được! Những vang bóng của một thời!

Cõi người có bao nhiêu

Mà tình sầu vô lượng

Còn chi trong giã tưởng

Hay một vết chim bay

 

* Một vết chim bay?

Hay một câu thơ? Một nét chữ? Một tiếng hát? ... đã làm ai đó vui tai vui mắt vui lòng một giây một phút một giờ một thoáng trong cõi sầu vô lượng này. Xin cám ơn. Và xin an nghĩ.

Còn lại đây ... vẫn đăm đăm cái khoảng trống vô chừng!!!!!!

 

Cao vi ̣khanh

 

(*) Phạm Thiên Thư

 

Tái bút

17- 6 – 2017 Phạm Ngọc Lư

Phạm Ngọc Lư

Chợt tin ... người đã ... thiên thu

Dưng không trời bỗng sa mù quanh tôi

Mươi năm chuốt chữ trau lời

Đan Tâm(*) một tấm gởi đời lệ riêng

Này vui, này muộn, này phiền

Đếm đi đếm lại còn nguyên nỗi mình

Thôi, anh đi! Một chút tình

Vẫn tôi góc biển, khóc mình, lệ chung!

                                 (*) tập thơ của Phạm Ngọc Lư-2004

Tái ... tái bút ...

21-5-2019 Tô Thùy Yên

Từ. Tạ. Tô Thùy Yên

Chợt tin người đã thiên thu

Dưng không trời bỗng sa mù trong tôi

Ôi Trời! Ôi Đất! Ơi

Người! Sao đi để chữ mồ côi, từ rày!

Lại ... tái ... tái bút ....

14-9-2020 Nhật Tiến

 

Giữa khuya đêm qua lại hay tin, Nhật Tiến của Chim hót trong lồng, của Thềm hoang ... đã lại bỏ đi. Tác giả đã góp phần không nhỏ cho sự nghiệp văn học miền Nam trước năm 75 và ngay sau này, khi đã bỏ nước ra đi. Xin gởi theo một nén tâm hương!

 

Lại ... lại tái ... tái ... tái bút ...

 

Lại hay tin, lúc 6:07 tối ngày 22 tháng 12, 2020 tại thành phố Fountain Valley, California, nhạc sĩ Lam Phương, người của Tình anh lính chiến, của Duyên kiếp, của ... của ... của rất nhiều nhạc phẩm được ưa chuộng từ hai ba thế hệ người Việt miền Nam trước năm bảy mươi lăm, và sau này ... khi đã bôn-ba-xứ-người- hay còn kẹt lại trong nước. Ngay từ những nhạc phẩm đầu tay, Tình anh lính chiến, Chuyến đò vĩ tuyến ... cho đến những năm 60-70, với những âm khúc ngọt ngào theo những thể điệu phổ thông và những chữ lời bình dị, hiền lành và ngọt ngào như sông nước miền Nam, nên gần gũi hết sức với tâm tình của người nghe, bất kể giới tính, dạy học, mua bán, lính tráng hay còn tuổi học trò ... Nếu coi chuyện thiên hạ sửa đổi lời ca để diểu cợt lẫn nhau là đáng trách thì cũng phải công nhận qua đó là bằng chứng về sự phổ biến rộng rãi của tác phẩm nghệ thuật ngay trong đời sống hằng ngày. Những người Việt, dù ở bên này hay bên kia biển Thái bình, tuổi tác trên dưới 60, hẵn ai cũng chưa quên những bản nhạc của ông, phổ biến đến nỗi bị-được sửa lời để người ta nghêu ngao một cách vô tội vạ.

Từ “đường về đêm nay vắng tanh, rạt rào hạt mưa rớt nhanh, lạnh lùng mưa xuyên áo tơi, mưa chẳng yêu kiếp sống mong manh ...” của bản Kiếp Nghèo, người ta lại cứ nghêu ngao “đường về đêm nay tối thui, ngập ngừng cô không thấy tui, cô đụng tui cô nói tui đui .... ” Hay là từ “ em ơi nếu mộng không thành thì sao ” của Duyên kiếp mà hổng chừng đây là bài nhạc ăn khách nhất của Lam Phương, thuở đó, ở đâu, đi đâu cũng nghe văng vẳng cái âm điệu nghe đi nghe lại rất êm tai, đến nỗi người ta cứ hát hò thành “em ơi nếu mộng không thành thì sao, mua chai thuốc chuộc uống vô rồi đời ...”

Từ một thanh niên sanh đẻ ở một tỉnh nhỏ rồi bỏ xứ lên Sài-gòn lập nghiệp, mươi năm sau đã là một tên tuổi lẫy lừng trong sinh hoạt ca nhạc rất nhộn nhịp của miền Nam thuở đó, hẵn tài năng ông phải là một loại vàng ròng. Cho đến khi nước mất, người ta bỏ chạy tứ tung, vừa lo kiếm miếng ăn vừa lo nhớ nhà nhớ xứ. Chắc hẵn ai cũng còn nhớ, có một lúc nào đó, khi sầu lữ thứ chưa nguôi trong lòng người Việt bỏ xứ ra đi, những nhạc phẩm mới của ông đã làm không ít người thổn thức những khuya hôm ... chợt nhớ nhà. “ Chiều Tây đô ” với ước mơ thôi mà âm vang đã như một xác quyết. “ Tàu đưa ta đi tàu sẽ đón ta về ... ”. Ông viết như vốn sẵn là một niềm tin bất biến. Ôi tâm hồn nghệ sĩ ai nói chỉ biết đùa hoa giởn nguyệt. Có phải ông đã sống với và trong tận cùng những góc kín nhất của hằng triệu tấm lòng người đồng cảnh để mơ giùm nhau một ngày về. Kể cả cái ý thức vượt thoát khỏi những ràng buộc của tài năng. Có một lúc nào đó, ông viết “ Cho em quên tuổi ngọc ”. Bản nhạc còn được dịch ra lời Pháp đã làm sửng sốt hơn một người nghe từ nhạc đến lời khi nhận ra tài năng đa diện, vượt hẵn lên cái thường hằng của ông. Hẵn cũng có người chắc lưỡi rằng thì là nhạc của Lam Phương nghe ra dễ dãi quá ! Dĩ nhiên có những loại nhạc dành riêng cho quí vị mặc áo đuôi tôm, cổ cồn cao chót vót với cả vài chục thứ nhạc khí hòa-âm-phối-khí rung rinh cả nóc hí trường. Tuy nhiên, thử nghĩ coi, có một trưa hè êm ả nào đó, ở một góc nhỏ quê hương đã xa, một anh con trai mới lớn, xách cây ghi-ta ra ngồi ngoài hàng ba nhà mình ngó qua nhà-người-ta cách cái hàng rào dâm bụt, năm ngón tay bấm nốt, năm ngón tay kia búng khảy sáu sợi dây đồng, và miệng thì lẩm bẩm vu vơ “...Càng nhìn em yêu em hơn và yêu em mãi. Dù phút êm đềm xa xưa nay đã đi vào quên lãng. Trời vào thu Việt Nam buồn lắm em ơi. Mây tím đang dâng cao vời ... ” mà ai đó hoặc nguýt háy hoặc bỗng dưng có ba mươi giây ngơ ngẩn, há đã chẳng là âm nhạc đó sao ! Mấy năm gần đây, thiên hạ bỗng nổi cơn ... đua đòi trí thức bèn đem phân loại âm nhạc thành nhiều hạng mục mà dưới tận cùng chắc là loại âm nhạc được gọi là ... nhạc sến. Dường như ý để chỉ những nhạc phẩm mà nhạc và lời ... bình dị... một cách thái quá. – Mà nếu không bình dị, thử hỏi có mấy người miệng tấm tắc khen ngợi tranh lập thể mà hỏi ngược lại hay ho chỗ nào thì hổng chừng ... ú ớ. Đã có không ít những lời lẽ trong những bản nhạc rất mực thịnh hành thời đó, nghe thì khoái tai không thua gì một lời rao giảng triết học, lắm khi còn vói tới cõi siêu hình, ngân nga luôn miệng mà chừng nghĩ cho ra lẻ đôi khi chẳng thấy nghĩa lý ở đâu. Trong cái bảng-phong-thần-nhạc-sến đó, dù không được biểu hiện một cách rõ rệt, những bản nhạc soạn theo thể điệu boléro, rumba ... kể lể về mấy cái chuyện tình lỡ tình lạc tình lộn tình lầm cũng như chuyện lính tráng, chuyện giặc giã ... trước năm 75 hẵn đã được dọn cho một chỗ ngồi rất rộng rãi, sát dưới đáy của bảng xếp hạng. Tuy nhiên, nghĩ lại coi, chắc là ai đó cũng khó mà phủ nhận được ảnh hưởng của loại nhạc mà người ta gọi là nhạc vàng đối với đại đa số người miền Nam thuở đó. Kể cả ngay sau khi mấy người viết nhạc, sau cơn thất tán, kẻ tù đày, người bỏ trốn đi mất biệt ... trong khi cái đám gọi là bên-chiến-thắng nhào vô rồi quơ quào nghe tới nghe lui mà mê mẩn. Điều đó phải được hiểu như thế nào ngoài cái chuyện chắc phải nhìn nhận rằng, dù sao đi nữa, trái tim thực của con người cứ mềm xèo như bún cho dù có bị nhuộm hồng nhuộm đỏ tới đâu đi nữa. Cho nên khi cấm cản thì người ta nghe lén lút. Mà hể mở cửa ngục thì người ta nghe thả dàn. Hổng tin, gần bốn mươi năm sau, hôm nào thử mở ba cái youtube ra mà coi sinh hoạt ca nhạc thời thượng ở cái xứ vốn đã lấy chuyện bài trừ văn-nghệphản-động với lại đồi-trụy ra mà hô hào xây dựng con-người-mới-xả-hội-chủ-nghĩa. Hổng Anh Bằng thì Lê Minh Bằng, hổng Trúc Phương thì lại Lam Phương. Hay ngược lại. v.v... và v.v.. Nói mà ngậm ngùi. Đó có phải là biểu hiện cho huyền thoại con phượng hoàng tái sinh sau cơn hỏa táng!

 

Trở lại với cái chuyện nhạc cấp cao hay nhạc cấp thấp. Sự phân loại đó có nghe ra khắc khe và trịch thượng quá hay không khi nghệ thuật vốn là để phục vụ nhân sinh. Mà nhân sinh là ai. Nếu không là anh là chị là tôi. Là ông thương gia mà cũng là người thư ký quèn, là ông giáo sư đại học mà cũng là những cô giáo trường làng, những người lính đóng đồn xa chỉ có 24 giờ phép, là anh sinh viên cậu học trò cô nữ sinh trung học con tim mới biết run lẩy bẩy lần đầu, là chị ở mướn đêm đêm xách đòn gánh ra ngồi chầu chực ngoài phông-tên nước, là anh nhân công xưởng máy ... Là những người đã nghe ầu-ơ-ví-dầu từ lúc nằm nôi, ̣đã ê a đánh vần xuôi ngược khi mới chập chửng đến trường rồi yêu-tiếng-nước-tôi từ đó. Và còn yêu mãi tới bây giờ, cho dù ... Là những người ăn ngủ hít thở y như nhau dù có ba chữ i-tờ hay có bằng tiến sĩ cao vòi vọi. Vậy thì âm nhạc đó là nghệ thuật, phải không?

 

Ngày Lam Phương mất đi, ông đã để lại một sự nghiệp âm nhạc đồ sộ -170 tác phẩm kể từ giữa những năm 50, chưa kể đến những nhạc khúc không lời soạn làm nền cho những vở kịch. Dù mặn mòi hay lợt lạt với nhạc Lam Phương, chúng ta cũng có thể đoan chắc rằng chính âm nhạc của ông đã là chìa khóa mở cánh cửa danh vọng cho không ít người làm nghề ca hát. Dĩ nhiên nếu không có những giọng ca thiên phú đã chắp cánh cho âm nhạc bay xa và bay sâu đến tận góc kín nhất của lòng người thưởng ngoạn thì cũng không chắc gì người nghệ sĩ sáng tác được đời mến mộ tới độ ấy. Thật vậy, cả hai vốn dĩ là hai mặt của một niềm đam mê nhất quán. Tuy vậy, vẫn phải thấy rằng, người hát, hát giữa phấn son lộng lẫy, giữa xập xình kèn trống, giữa hằng trăm ánh đèn màu ... lấp lánh như hằng triệu vì sao đêm nhấp nháy. Còn người viết nhạc, có mấy khi viết nhạc với ai khác ngoài cái bóng mình xiêu vẹo một mình mình!

 

Bỗng dưng nhớ mài mại một truyện ngắn, dường như của O.Henry mà người ta đã dịch là Chiếc lá cuối cùng.

Chuyện kể một ông họa sĩ già hình như cũng đang ở vào quãng cuối của đời mình, nhất là vẫn hoài thắc thỏm về chuyện chưa bao giờ vẽ được một tuyệt phẩm như hằng ao ước- hẵn là không gì buồn hơn ! Ông ta chung cùng cư xá với một cô gái mang bệnh phổi đang lúc trở nặng. Trời mùa thu, cô gái đơn chiếc giam mình trong căn phòng hẹp té, ho hen, mệt mỏi, chán chường. Căn bệnh quái ác làm suy sụp tinh thần, sống mà như đếm từng ngày trong khi ngày tháng ngoài trời thì như đang hối hả bỏ đi cho tàn vội hết một năm. Gió cứ thi nhau rứt từng chiếc lá héo vàng trên nhánh dây leo bên ngoài khung cửa sổ. Cô gái xanh mướt, buồn bã, héo hon và tuyệt vọng trở thành hoang tưởng vì căn bệnh trầm kha, cứ đếm theo từng chiếc lá rụng để tính sổ đời mình. Một chiếc lá rụng, cô trừ đi một ngày trong sổ đời còn lại. Cứ như vậy mà ngày này qua ngày khác, lá cứ rụng và cô cứ tiếp tục làm bài toán trừ, mỗi lượt gió lướt thướt bay qua mang đi mất thêm một chiếc lá như rút ngắn thêm một ngày của đời cô còn lại. Cho tới lúc, trên cành chỉ còn sót lại ... chiếc lá cuối cùng. Chiếc lá vụt vặt theo từng hơi gió qượn qua qượn lại. Cô gái lặng nhìn, thấp thỏm chờ đợi ... chờ đợi lá rụng mang theo hồn cô đi mất. Cô chờ ... rồi cô thiêm thiếp ngủ quên.

Biết được bài toán trừ oái ăm đó, người họa sĩ già, thức canh đúng lúc, bắt thang mang sơn cọ trèo lên bức tường đối diện, phóng tay vẽ một chiếc lá vàng. Nét vẽ truyền thần tới độ làm như không phải ông đang vẽ, mà chính là ông đang sống. Từng vết chấm, nét phẩy, bệt màu đã không còn là vết chấm, nét phẩy, bệt màu. Bức tranh không còn là một tĩnh vật, chuyện ông đang làm không còn là hội họa ... mà chính là ông đang sống cái đời sống đang hừng hực vây quanh hay đang lặng lờ rút đi như con nước ròng bỏ sông ra biển. Ông vẽ chiếc lá, chăm chút từng đường gân, sống lá, không, không phải, ông sống cái kiếp sống của từng đường gân, sống lá, ông pha trộn cho ra cái màu vàng, thứ màu vàng trộn lẫn trong đó sự gặm nhắm của thời gian, sự ép uồng của mùa màng, thứ màu vàng đang úa, đang phai, đang run rẩy trước sự phũ phàng của cuộc biến thiên ... Ông vẽ, ông mãi miết vẽ, không, ông sống, sống tận cùng cái thiên chức nghệ sĩ của ông mà quên bẵng mùa thu đã hết, mùa đông đã tới với những cơn gió lạnh đang bào gọt rúc rỉa da thịt ông. Ông quên hết. Ông chỉ sống cái cảm hứng sáng tạo tuyệt vời và hiếm hoi, lần đầu của suốt một đời hiến dâng cho nghệ thuật. Đến nỗi, khi ngưng tay, hình vẽ còn thực hơn cả chiếc lá cuối cùng vừa rứt mình ra khỏi nhánh, bay đi.

Trời hửng sáng, chiếc lá vàng hực trên bức tường xám xịt.

Cô gái chợt dậy, nhìn qua cửa sổ, ủa chiếc lá còn kia ... Cô còn đây. Nghĩa là cô còn sống.

Niềm tin vụt trở lại như hơi lửa ấm thắp sáng lên đêm tối mà cô đã sống mịt mùng.

 

Và người họa sĩ già, người họa sĩ già thì chết cóng. Nhưng cái chết đó có phải là cái sống một lần cho một đời khi ông đã dồn hết sức tàn của mình vào từng nét chấm phá, để kéo ngược lại cái đời sống đang thấp thỏm hơi tàn, mấp mé ở bên nây lằn ranh sinh tử.

 

Câu chuyện đó, có thay được lời đưa tiễn người nhạc sĩ đã hiến cho đời những âm điệu, dù buồn hay vui, bao giờ cũng ngọt ngào, chơn chất, hồn hậu và thân mật như tiếng nói của quê mẹ trước khi bị lem luốt vì mấy lượt phong ba.

 

cvk

 

Bấm vào links để nghe lại ... dư âm

Hà Thanh https://youtu.be/ghv1Dxtte2E

Út Bạch Lan https://youtu.be/EwSIpG_Z6Xk

El Silencio https://youtu.be/LBtIFIIQg-8

Cho em quên tuổi ngọc – C’est Toi - Lam Phương - YouTube

CVK_amphongtrang.JPG

Âm phong trắng

 

Gió. Gió ...

Gió ...

Rồi có lúc gió như một người đàn bà ghen tuông, nổi tam bành thổi tốc váy cô nhân tình trẻ đẹp đang quấn quýt đi bên cạnh chồng mình. Bà phùng mang trợn mắt, chu mỏ thổi liên tu bất tận. Chẳng vậy, như để cho đã nư, bà quay mặt qua bốn phương tám hướng, làm như giận lây cả mấy người khách vô tình đi lẩn quẩn loanh quanh. Thôi thì nào nón nào khăn cứ mặc tình sút sổ, kể cả mấy cái bàn tay đang níu chặt nhau cũng lính quýnh buông nhau ra để kéo sát hai vạt áo khoác ghịt chặt vào mình. Chưa kể đến những hàng cây hai bên đường, thôi thì vật vã đến nỗi như van nài, hết quặt sang đông lại quẹo sang tây, mấy cái nhánh cây gầy như lóng xương khô, vặn vẹo kêu rêu liền miệng. Còn lá khô thì khỏi nói, đám trên hè phố thì bốc lên lao chao như bầy bướm động ổ, cái còn dính trên cành thì run lẫy bẫy, lặt lìa lặt lọi rồi vụt ... buông mình. Cả một góc phố đang lao xao cười nói, một giây, một thoáng bỗng như sựng lại ... ồ, gió mùa tây-bắc ! Cùng lúc, hơi rét liếc qua mặt mủi tay chân bỏ trống, như một lưỡi dao mỏng dánh mà sắc lẻm. Vết cắt không rỉ máu mà lạnh buốt. Người ta rùng mình. Rồi ghịt siết thêm chéo khăn quàng cổ. Rồi chụp sâu thêm chiếc mũ đội đầu. Rồi tình nhân siết chặt thêm vòng tay đã chật. Rồi người bộ hành đơn lẻ, vội cắm đầu rảo bước nhanh thêm ...

 

Mới mấy bữa trước, trời thu đang hồi lộng lẫy, dưng không rồi có gì như sựng lại. Có chút gì đó hao hớt trên cái biển màu mới đây còn lung linh như gấm thêu hoa. Không gian váng vất gì đó mà như có như không. Hỏi người chắc chẳng ai biết. Mà nói không chắc chẳng ai chịu. Trời còn xanh, nắng vẫn vàng hoe. Và trên những bãi trống thành phố, người ta còn tụ năm tụ bảy, chùm nhum từng nhóm nói cười hay lang thang một mình, thơ thẩn. Dẫu vậy, đâu đây, khuất sau những lối vắng, từng nhúm cỏ ... đã vàng lườm như hối hả. Chùm lá đỏ đã hằn sâu mấy vết bầm. Khóm lá vàng đã lấm tấm mấy chấm nâu nâu. Và trên vai những pho tượng trắng thường vẫn nô đùa những cặp chân chim nhỏ xíu, bây giờ chợt hớt hải một tiếng kêu lạc bầy ... Thêm vài hôm nữa, người ta chợt nhận ra ngày như teo tóp lại và đêm, đêm như loảng ra, mỗi lúc một nhoè nhoẹt thêm đến nỗi mới xế trưa, trên mặt người đã mờ mờ nhân ảnh. Mặt trời thì trở mặt như một lão già khó tánh và lười biếng, thập thò thì thụt, uể oải tới lui chẳng sốt sắng chút nào. Mới ló ra đã vội lánh mặt, keo kiệt từng sợi nắng. Cùng lúc, cặp kè với những luồng gió miên man thổi về từ mạn bắc, những cụm mây xám xịt, lắm khi đen đúa, nhăn nhúm như mấy cái bản mặt cau có, lại rủ nhau kéo về nườm nượp.

 

Vậy đó, mùa đông đang lần dò tới. Làm như sợ lỗi hẹn. Mà thật ra, có ai đợi đâu, mùa đông !

 

Vậy mà ... rồi tới lúc mùa thu bỏ đi thiệt sau khi đã lo dọn sạch tới chiếc lá cuối cùng. Gió được gởi tới, từ bốn phương thổi dạt ra tám hướng, xô, đẩy, bứt, giựt tung những chòm lá, những lùm cây, đùn đẩy những tàng cổ thụ, ghịt chằng những dây leo quấn quýt, nói gì tới những chiếc nhánh đen đủi, khẳng khiu, mọi thứ cứ thi nhau mà run rẩy, rơi rụng liên hồi ... Lá vàng lá đỏ bay tứ tung, có chiếc chần chừ như không đành, có chiếc buông xuôi như phó mặc ... Rồi là khắp nơi, mọi đường ngang ngỏ dọc được trải đầy những thảm lá đủ màu khiến mỗi bước chân dẫu có độc hành cũng nghe ra bớt khô khan ... Mùa thu bỏ đi để lại trần gian như một cõi lòng trống trải. Trời càng thấp xuống, đất như càng dãn ra. Phố xá không còn những bóng mát che thân, phơi trần những mái nhà ám bụi, những về tường nứt nẻ, những cửa sổ đóng kín. Ngoài xa, những cánh rừng trở nên trần trụi. Sông suối đầy những xác lá vật vờ. Mọi thứ đều như tìm cách lánh mặt. Kể cả những bầy chim thiên di hợp đoàn như cánh cung, thay nhau ghé lại từng bầy trên những bãi cỏ hoang ... rúc rỉa tìm mồi rồi cũng hè nhau thoắt đi mất dạng ... Có cái gì nằng nặng một niềm nghi ngại ... như chờ chực đâu đây ! Cuối góc vườn nhà, đã có nhiều hơn một người vội vã thu xếp, dọn dẹp những khóm hoa, luống cải ... Cắt bỏ những cụm hoa héo, vun gốc, che chắn những bụi kiểng dị ứng với thời tiết sắp đổi mùa. Và cái chuyện thường hằng như đã là tiền định, quơ, quét, hốt, gom ... từng bựng lá vàng, càng lúc càng rơi ... rơi hoài rơi hủy cho tới khi cành nhánh trơ thân như những cánh tay gầy khô, vói lên xơ xác như một tiếng kêu trời. Dẫu vậy, gió từ cực bắc vẫn thổi về miên man, miên man ... Quả đất quay theo chiều nghiêng của trục, núi rừng ao hồ đồng cỏ phố phường càng lúc càng huốt xa mặt trời. Ngày co rúm lại, đêm quá bước thênh thang. Có hôm, những buổi chiều trốn mất, bỏ mặc cho bóng tối và gió, gió tẩm hơi lạnh buốt xương càng lúc càng suồng sã. Trong nhà, không hẹn mà ai nấy lặng lẽ xếp cất dưới đáy tủ những chiếc áo mỏng tanh, những chiếc quần ngắn củn cởn, những đôi giày gót cao bóng lưởng ... Người ta lôi ra, phủi bụi từng chiếc áo len, áo khoác độn lông chim lông vịt dầy cộm, những chiếc khăn quàng đủ màu sắc, những chiếc mũ nồi, những đôi ủng da cao cổ, những bộ găng tay thô kệch, kể cả những áo lót quần lót ngộ nghĩnh ... đang nằm im trong góc tối dưới hầm nhà hay một ngăn tủ bị bỏ quên ... từ độ xuân rồi. Người ta làm không vội vã cũng chẳng chần chờ. Người ta làm như ... một chuyện phải làm. Năm này qua năm khác. Mỗi năm, khi mùa đông đang lật bật trở lại.

 

Vậy rồi giữa lúc còn đương lơ ngơ với hơi hướm sang mùa ... giựt mình coi lịch ... đã cuối tháng mười. Gió đã thôi bầu bạn. Gió bây giờ làm mặt lạ, cuộn trong

mình thứ khí lạnh đã ủ kín từ ngàn triệu năm cực bắc rồi thổi phà về nam làm cả một dòng sinh hoạt đang hồi nhộn nhịp bỗng chừng như muốn khựng lại ... Mới xế trưa đường phố đã hối hả lên đèn. Từng chùm ánh sáng nhợt nhạt không xuyên nổi thứ hơi lạnh đặc quánh như sương mù. Không đèn thì mờ mịt mà đèn bật lên lại lộ ra cái vẻ hắt hiu. Phố chưa chiều mà như ngái ngủ. Quán xá lộ thiên thì đã xếp cất hết bàn ghế kê nhờ lên lề đường mùa hè năm đó, đôi chỗ còn nấn níu thêm mấy ngày cuối thu ngắn ngủi. Rồi cũng phải dẹp bỏ. Đã thôi những chai bia ướp lạnh ngất ngưởng giữa những bước chân hè rộn rã. Đã hết những tách cà-phê bốc khói xuýt xoa theo mấy lớp lá thu bay. Công viên vắng hoe. Mấy chiếc xích đu thiếu tiếng cười trẻ nhỏ đứng trơ mớ sắt thép vô hồn, buồn như mấy món đồ chơi bỏ quên trong góc khuất. Những lối đi thiếu chân người nằm chết lặng dưới mấy lớp lá khô. Người ta kéo nhau lánh vào những không gian kín, bỏ mặc trời với đất quạnh hiu. Cả đến những cặp tình nhân đã có lúc ríu rít như chim sẻ rồi cũng mất biệt. Lề đường, hè phố chỉ còn những dáng người ... lầm lũi, lùng xùng trong những bộ quần áo chống lạnh, mắt thôi liếc ngang liếc dọc, chân đi như chạy mà rốt lại chỉ để rượt đuổi chính mình. Nhưng rồi mùa màng còn vội vã hơn nữa ... Hơi thu còn chưa tan hẳn trong những mối cảm hoài thì ... mùa đông ụp tới. Có khi sớm vài hôm, có khi trễ vài bữa. Nhưng sớm hay trễ, mùa đông cũng tới. Khi thì dè dặt lắc rắc như một cái khều vai nhắc nhở. Có khi sỗ sàng chẳng chút ngại ngần, mùa đông thổi tới tấp những luồng âm phong trắng và lạnh rát như dao cứa từng sớ thịt.

 

Bữa đó, sáng sớm, giữa trưa, hay chiều tối, vào một lúc nào đó, mùa đông dậm dựt theo mấy đám mây dầy cộm chứa đầy hơi nước trên một độ cao đủ lạnh để kết thành những tinh thể trắng muốt rồi đổ bừa xuống. Líu ríu như muối biển mịn bâng, hay rào rào như từng bụm đường cát trắng ném tới tắp vào mặt người lỡ đường chẳng khác nào những cái tát tay rát buốt đến phũ phàng ... Cách nào thì mùa đông cũng đã tới !

 

Vậy đó rồi từ đèo cao tới lũng thấp, xuyên qua những xóm thôn heo hút hay phố thị sầm uất, những thảo nguyên bạt ngàn, những bãi bờ cô quạnh, không sót một hóc hẻm, chẳng lọt một góc kẹt nào hết ... đâu đâu cũng nhận được những kiểu chào hỏi vồn vã tới ... điếng người đó. Chưa kể đến trên đỉnh cao chót vót của những ngọn núi trẻ vốn đã bạc đầu từ mấy kiếp. Những cơn lốc xoáy từ miền địa cực, vừa quay cuồng vừa thổi dạt xuống phía nam cái hơi lạnh dưới nhiều lần độ âm làm mọi thứ tê cứng lại như để dọn chỗ cho những hột tuyết đầu mùa còn đôi chút rụt rè. Rồi trời đủ lạnh, rồi tuyết rơi mặc tình bám chặt lấy cái chỗ đã dành được, nhấn chìm hết mọi sắc màu dị biệt để còn lại chỉ một màu trắng nguyên sơ. Cây cối trụi lá trơ cành như từng nhúm xương khô mốc thếch. Sông suối ao hồ co rúm lại, trơ trơ dưới mặt nước đóng băng. Mọi bờ bãi, rào chắn ... dần dần bị xóa dấu, tất cả chìm dần vào một cơn đồng thiếp mới. Tất cả rồi còn lại là một sa mạc trắng, lạnh lẽo và lặng lẽ đến mênh mông. Ngó quanh, cảnh vật coi bộ chịu đựng cũng tới lúc buông xuôi, mọi thứ nằm im, bất động dưới mấy tầng tuyết ù lì. Chim chóc trốn đâu mất biệt chẳng rớt lại một tiếng kêu. Lâu lắm, mới thấy một chú thỏ con trắng muốt, nhúc nhích trong một hóc tuyết trắng nhờ nhờ... hẵn là nhắm hướng tìm mồi ... mồi ở đâu giữa một cõi trời đất trắng xóa như nhau !

 

Rồi cuối năm ... Chẳng bao lâu, cả xứ y như một bức tranh sơn dầu với hầu hết là những bệt màu trắng, chỗ dầy chỗ mỏng, có khi trắng tinh, có khi nhem nhúa, sơn phết bất kể, lớp sau nằm đè lên lớp trước của người thợ vẽ vụng tay. Rừng cây, lối mòn, nhà cửa, đường phố, cầu cống ... chỗ nào cũng bê bết những vết cọ trắng, trắng nhách, trắng tươi, trắng phau, trắng ngần, trắng ngà, trắng bệch, trắng nhờ nhờ ... Trắng lênh láng tới độ mới nhìn thôi đã ... lạnh. Thứ lạnh mà từ thế kỷ mười sáu mười bảy, khi những người Âu châu đầu tiên đặt chân xuống vùng đất này đã viết trong nhật ký như sau ... le froid « ne peut être compris que par ceux qui le souffrent ». Dịch tạm : Cái lạnh mà chỉ có những người đã chịu lạnh ở đây mới hiểu thấu được đau khổ thế nào. Cái lạnh đã làm chết cóng 25 thủy thủ trong số 110 người theo Jacques Cartier vượt đại dương tới đây tìm đất mới. Cái lạnh mà năm 1721, một linh mục đã ghi lại « ainsi n'ais-je jamais passé d'hiver dans ce pays, que je n'aie vu apporter à l'hôpital quelqu'un, à qui il fallait couper des bras et des jambes gelés ». Cái lạnh có thể làm cháy da cháy thịt đến nỗi phải cưa bỏ tay chân. Cái lạnh đã khiến người ta xài chữ ngược đời. Phỏng ... lạnh ! Ờ, lạnh lắm ! Lạnh đến nỗi đàn bà con gái xứ này lắm khi không cần son phấn mà gò má vẫn đỏ au. Thêm nữa, mở miệng nói chuyện là y như phà khói thuốc lá, dẫu là người kỵ thuốc tới ghét bỏ kẻ lỡ vàng tay. Vậy đó, cái mùa đông kỳ cục !

Vừa mới qua giêng đã tới độ đông già, hàn thử biểu tụt xuống hoài như xe đổ dốc không phanh. Thử tưởng lắm khi dưới cả chục lần độ đông của nước. Những khi đó thèm nhớ làm sao cái góc nhỏ đã bỏ lại ở bên kia biển lớn với một phần đời nhiệt đới. Nằm cheo leo trên vĩ tuyến 45 độ bắc, thành phố nơi tôi ở sống trọn một mùa đông đúng nghĩa của khí hậu lục địa với độ ẩm cao, bốn mùa rõ rệt. Đã hớn hở khi đón xuân, đã rộn ràng lúc vui hè, đã lơ mơ lãng mạn buổi thu sang thì có rầu rĩ khi mùa đông rúc rỉa thịt xương thì cũng là chuyện chẳng đặng đừng. Chỉ có điều nói thì nói vậy, chớ mùa đông ... Ôi mùa đông ... Những mùa đông dài bất tận. Những mùa đông lạnh trắng đến bạc lòng. Em có thấy gió đồng hoang nổi giận. Thổi muôn trùng xoáy buốt tận tim không!

 

Đúng y như người hai ba trăm năm trước đã nói. Cái lạnh ở đây hẵn chỉ có người đã sống lạnh ở đây mới biết ... lạnh ra sao. Nhất là những khi tuyết góp

gió làm bão. Những cơn lốc xoáy tròn cuốn, quậy rồi thổi những hột tuyết bay cuống cuồng như sợ trễ hẹn với mùa. Tuyết rơi ... Gió vừa hú vừa bắn những hột tuyết trắng tinh chứa trong nó chút bụi li ti bay khắp cùng trời đất. Khi dầy khi mỏng, tấm màn tuyết phủ chụp lên mọi thứ mọi nơi. Tuyết bay thành luồng thổi quét rào rào lên mặt đường trống. Tuyết quay vù vù như bông vụ vổ bên trái dập bên phải, bất kể. Khách đi đường, đầu cúi gập mà mắt có mở to, cố ngó quanh cũng chỉ thấy mịt mù, không phân biệt được đâu là mình đâu là người dù chỉ cách nhau vài thước, chân thấp chân cao lò dò lội từng bước tìm lối đi đã bị xóa dấu. Xe cộ nhem nhuốc như lọ lem, mở đèn giữa ban ngày ban mặt, chạy, lách, tránh ... trợt, có khi nhích từng chút một như đi đưa đám. Tuyết trắng, đèn vàng, đèn đỏ trộn lộn trong gió làm hoạt cảnh cứ lung linh tưởng như ảnh ảo. Gặp mùa lễ cuối năm, tuyết bay qua những dãy đèn xanh đỏ nhấp nha nhấp nháy làm tuyết lấp la lấp lánh như mấy hột kim tuyến rắc đầy trên những tấm thiệp giáng sinh thuở nhỏ. Ờ những tấm thiệp giáng sinh thuở nhỏ ! Những tấm thiệp như một huyền nhiệm rắc tuyết vô đầu đứa nhỏ sinh ra ở mấp mé bên lề xích đạo. Từ một hai tháng trước, những tiệm sách, những quán bán báo đã treo đầy những tấm thiệp Nô-en, cở bằng bàn tay người lớn, rìa cắt rô-đê, tô vẽ những hình ảnh chưa từng có ở đó. Những cây thông xanh mướt, hình dáng như kim tự tháp, chỉa vút ngọn lên trời. Những ngôi nhà mái đỏ phủ tuyết trắng với ống khói lò sưởi loáng thoáng mấy sợi khói xám xanh. Những lối đi ngoằn ngoèo không một vết chân người trên những bình nguyên trắng lạ lẫm. Và đặc biệt là những hột kim tuyến rắc đầy trên hình vẽ đẩy cho cái trí tưởng thấp chủm của đứa trẻ phóng vút tới tận một cõi thần tiên được kể đầy trong các trang truyện cỗ tích phương tây. Cho tới lúc những đêm giáng sinh thuở mới chập chững nhìn theo những chiếc áo dài giấu gió trong hai tà lất phất. Nhà thờ ở cạnh một bờ sông lớn. Đèn ngôi sao treo suốt từ nền đá tới đỉnh tháp chuông, giăng dài theo những lối đi, lấp lánh trong những ánh mắt có đuôi như níu gọi. Máng cỏ có đứa bé sơ sinh trong hang đá. Và nhạc thánh đeo theo những lượn gió đêm lướt thướt, bay dặt dìu như những đôi cánh thiên thần đáp nhẹ lên vành tai người ngoại đạo. Rồi lễ nửa đêm. Chuông hồi rộn rã. Xứ sở không có tuyết, người ta bày đặt ra tuyết, rải bông gòn trắng lên những lối đi, lên mấy nhánh cây còn đầy lá làm hồn trẻ cứ mơ mộng. Gặp đêm gió lớn, lắm khi bông gòn sút sổ thoắt bay lắt rắt cứ tưởng đâu tuyết trắng hiện nguyên hình. Ờ tuyết trắng, tuyết của một cõi viễn mơ, vậy đó mà nhuộm trắng một linh hồn không biên giới ... Vậy rồi cho tới lúc dang mặt hứng những giọt tuyết cùng với thứ gió địa cực mùa đông đầu tiên trên xứ người ! Vậy rồi tới lúc quần áo giày vớ hai ba lớp dang tay xúc từng bựng tuyết lấp đầy lối đi, xúc bựng này tuyết lấp thêm bựng khác ! Vậy rồi tới lúc tuyết đồng nghĩa với mùa đông, những hạt tuyết nhẹ hửng trong mơ bỗng trở thành nặng ì trên tay ! Và rồi những mơ mộng theo những bước chân Sài-gòn lang thang trên hè phố hai mùa mưa nắng, áo chùng đen phủ dài tới chân, cổ áo kéo cao phủ tới ót, khăn quàng cổ đỏ, nón feutre nghiêng vành, miệng ngậm trệch điếu thuốc lá cháy dở, khi Modigliani đi lang thang qua đường phố Montmartre phất phơ bông tuyết mịn bâng bỗng chốc tan nhanh hơn hột tuyết đọng cuối mùa !

 

... Cho tới một lúc tuyết khắn khít với mùa đông còn hơn một người tình kim chỉ, những trận tuyết cứ giành nhau đến rồi đi ... rồi lại đến. Khi lơ thơ. Khi lồng lộn. Khi mịn như một chấm kim thêu. Khi to như từng nhúm bông gòn. Mọi thứ rồi mập mờ nhòa nhoẹt như hình nhân từ cõi âm lộn về, điêu đứng giữa những vòng quay cuống quýt của những cơn lốc tuyết xoáy tròn. Người và cảnh ai lo thân nấy, dập vùi trong cơn thịnh nộ của thiên nhiên. Những cơn bão tuyết mùa đông dữ dằn đến nỗi có lúc tưởng đâu giáng xuống từ một lời sấm rủa. Bao nhiêu giận dữ dồn nén tự lúc nào rồi hè nhau đổ trút xuống. Gió rít như tiếng kêu của trăm ngàn cây mã vĩ cọ lên giây đàn cùng lúc. Tuyết rơi không phương hướng, hột to hột nhỏ bay loạn xạ, bạ đâu tắp đó, bất kể. Còn khí lạnh thì như những mũi kim châm nhọn hoắc, luồn lỏi qua mọi ngỏ ngách, từ những khoảng trống bỏ hoang trên hè phố, từ những nứt nẻ của gạch ngói, những kẻ hở li ti của sớ vải .... để châm chích đục khoét thịt da người buốt thấu tới xương. Mọi thứ trộn lộn nhau như một thứ ẩn ức lâu ngày đến lúc nổ tung ra cho hả cơn kềm chế. Như để trừng phạt cái cõi nhân sinh hẵn đã đầy tội lỗi. Nếu không, cũng là dịp để cho con người đã có lần kêu lên thượng đế đã chết, con người đã lắm lần thách thức với thiên nhiên, nhận ra cái căn phần bọt bèo của mình khi thiên nhiên nổi giận. Ít ra cũng để thấy sự nhỏ nhoi đến tội nghiệp của loài người giữa cái bí hiểm đến khôn lường của vũ trụ !

 

Ngày rồi theo tháng lần lượt qua đi. Tuyết ở lại. Những lớp tuyết lớp sau chồng lên lớp trước. Mỗi lúc một dầy hơn, đầy hơn, cùng khắp hơn, mịt mùng hơn đến nỗi lắm khi tự hỏi mùa đông đang trắng hay chính cõi đời tang trắng ! Lòng không vui cảnh không vui, người ta sống chực hờ với căn bệnh trầm cảm như con gấu vật vờ giữa giấc đông miên. Như chỉ để chờ một ngày ...

Dẫu vậy, rồi cũng có bữa tốt trời, dù hiếm hoi, cũng có khi mùa đông làm bộ vỗ về nhá cho vài tia nắng ban mai, phản chiếu lại mặt tuyết trắng ngần như ngàn triệu sợi thủy tinh lóng lánh. Lòng ủ ê bỗng như có chiều hưng phấn. Nhưng rồi lắm khi mùa màng lại nghịch ngợm như con nít. Người chưa kịp ấm lòng thì trời nhả cho chút mưa ... tuyết. Gặp đúng lúc, tuyết không rơi thành tuyết mà thành ... băng. Chút hơi nước được hơ ấm rơi xuống lắc rắc như mưa, chạm mặt tuyết lạnh ngắt đông lại thành băng. Mái nhà, hàng ba, cột đèn, bảng hiệu ... tới những khóm cây cành nhánh đen đủi bám dầy từng lớp băng trong vắt nhìn xa tựa như cảnh tượng được tạc hình trên từng khối pha lê. Gặp mấy sợi nắng vắt ngang, lộng lẫy như cảnh chuyện thần tiên mà vui chân qua đó thì có té ngửa cũng là chuyện thường tình. Mặt đường dẫu đã dọn sạch tuyết mà đóng băng cũng trở nên trong suốt, láng lẩy và trơn lùi như mặt gương soi. Xe cộ qua lại lắm lúc như không uống rượu mà say. Tay lái bỗng nhẹ hửng. Xe dành quyền đòi làm chủ. Sơ sẩy là kể như chung phận Kiều nhi lúc bán mình cho Mã Giám Sinh, chớp mắt cái là ... một xe trong cõi hồng trần như bay !

 

Kể lể vậy nhưng họa hoằn rồi mùa đông cũng có khi để lại chút ít thi vị cho đời. Giữa khi trời và đất lạnh căm căm, trắng ngần và trong vắt, có những đêm rằm êm ả, con trăng tròn vành vạnh trở màu trăng biêng biếc, rải xuống đời thứ ánh

xanh thăm thẳm mang trong nó những trăn trở của đêm Tây Bá Lợi Á, khi Zhivago trở lại nhà xưa làm thơ nhớ Lara, sau khi đã dập vùi trăm nỗi vì những đọa đày của cuộc cách mạng vô sản ... Màu trăng lạ lắm. Đẹp lặng lẽ đến ... hoang mang ! Ngay lúc ấy, nếu đâu đó bất ngờ vẳng lên mấy nốt nhạc dạo đầu của khúc giao hưởng Chanson de Lara do Maurice Jarre biên soạn, hẵn là cái khắc nghiệt của mùa đông cũng sẽ vơi đi mấy độ ... để cho những niềm hy vọng đâm chồi ... mùa xuân rồi sẽ trở lại.

Mùa đông. Ôi mùa đông của những ngọn âm phong trắng dã và nhọn lểu. Của những hàng cây cụt đầu đứng co ro, những ngõ tắt mất dấu, những giao tình ghẻ lạnh, những chim chóc bặt tăm, những cánh đồng lì mặt, trắng đến mỏi mắt. Của những đêm tĩnh mịch, trắng đến liệm hồn người vào cõi tịnh tâm.

Mùa đông. Mùa của năm cùng tháng tận. Mùa của thiên địa mịt mùng. Của sự nhỏ nhoi của con người trước cơn bạo hành của trời đất. Của sự chống chỏi tồn sinh của loài sâu kiến trước những biến thiên bất-khả-tư-nghị của vũ trụ.

Mùa đông của Jack London viết Le silence blanc với người và vật như bị nuốt chửng trong sự im ỉm huyển hoặc của ngút ngàn tuyết trắng và rối nùi mê cung của lòng người.

 

Mùa đông. Mùa của ngọn lửa cháy bập bùng trong lò sưởi giữa nhà. Mặt người xoay quanh tranh tối tranh sáng để lắm khi lẫn lộn với nhân ảnh của một quá khứ đã mù. Ngoài cửa, đêm trắng tuyết. Khuất trong, hơi ấm vỗ về. Khăn cổ áo len, cốc rượu mạnh sóng sánh màu hổ phách, sau một ngày lặn lội tê cóng mình mẫy, hạnh phúc nhỏ nhoi vậy đó chăng ?

 

Mùa đông. Có phải là dịp để ẩn cư, bó thân nhìn lại mình giữa khi đất trời chao đảo, để ngó lui và định vị lại đời ...

 

Mùa đông. Ôi mùa đông xứ người ! Em có sống lưu vong đầu địa cực. Rượu quan san lạnh nứt đáy hồ trường. Ta mù tối như loài dơi đại vực. Ngủ vùi quên cơn bức tử quê hương!

Caovị khanh

____________________________

CVK_thotinhNTN.JPG

                                  mấy mươi năm sau,

                               đọc lại thơ tình Nguyễn Tất Nhiên!

 

Năm 1992, khi còn đang ra sức ... làm mướn để kiếm ăn, nghe tin Nguyễn Tất Nhiên vừa tự ý thoát đi mà bỏ lại thân xác mình trong một chiếc xe đậu càng đâu đó ở Cali, tôi nhớ dường như có một chút gì động đậy trong tôi, y như vừa hụt một bước chân. Và một thoáng nghĩ ... chắc phải vậy ! Đêm về có làm một bài thơ tựa là Thi sĩ trong tập note rồi bỏ vào tủ khóa kín lại. Thơ chắc chẳng có gì hay lắm nên kết bài tôi có chôm mấy câu thơ của Thanh Tâm Tuyền gọi là dựa hơi ... dĩ nhiên là có ghi chú xuất xứ rõ ràng.

Tôi biết những người khóc lẻ loi

Lệ là những viên đá xanh

Tim rũ rượi.

 

- Tôi không quen biết Nguyễn Tất Nhiên. Nhưng tôi biết có-những-người-khóc-lẻ-loi nên tôi kết bài thơ của tôi như vậy.

Vậy rồi thôi, người đi đã đi khuất, tôi đi làm mướn tiếp tục.

 

Dĩ nhiên, như nhiều người khác đồng lứa, tôi đọc thơ Nguyễn Tất Nhiên đã từ lâu lắm, từ khi còn tuổi hai mươi. Mãi cho đến khi giả làm người lớn đi dạy học, dẫu trái tim trẻ không còn xốc nổi nhưng vẫn chưa tới đỗi lặng lờ. Lắm khi vẫn còn rung động vì một câu thơ hay bất chợt của ai đó. Kể cả những câu thơ tình rất học trò của Nguyễn Tất Nhiên. Với những ẩn dụ rất mới, rất khéo, rất bạo, lắm lúc như muốn lung lay cái khung cũ kỷ đã rêu phong của thi ca truyền thống. Nhưng rồi thôi. Có điều tôi biết chắc học trò của tôi, trên dưới 16, 17 tuổi đôi khi 18 ... nhất là mấy cô áo dài trắng tóc thề đến lê thê, nếu khảo bài hỏi thơ Cao Bá Quát với lại Nguyễn Du thì nhiều phần là ấp úng mà hỏi thơ Nguyễn Tất Nhiên thì hổng chừng là thuộc làu làu. Nói vậy không có nghĩa là khắc khe với học trò cũ. Nói vậy để thấy rằng thơ Nguyễn Tất Nhiên hồi đó rất được ưa chuộng trong giới trẻ, nhất là giới-trẻ-học-trò. Điều đó không có gì khó hiểu. Thơ tình kiểu này thì chỉ có dạ sắt mới ngoảnh mặt làm ngơ đối với mấy cô nàng tâm hồn còn lơ mơ như nắng sớm. Nắng bờ sông như màu trang vở cũ, thuở học trò em làm khổ ai chưa. Hay em hãy đứng trước gương làm dáng, tự khen mình đẹp quá đi em. Rồi anh muốn khóc trong buổi đầu niên học, bởi yêu em nên sầu khổ dịu dàng. Hoặc hai năm tình lận đận, hai đứa cùng xanh xao, em không còn thắt bím, nuôi dưởng thời ngây thơ, anh không còn lính quýnh, giữa sân trường trao thơ. Nhất là những lời thơ dễ thương đó được phổ nhạc rồi tỉ tê trên đài phát thanh hay các tiệm kem hay các quán cà-phê-văn-nghệ nhan nhản ở các tỉnh thành miền Nam thuở đó. Thơ đó, nhạc đó được yêu chuộng song song dù nghịch đảo với nhạc Trịnh Công Sơn. Kể ra, đúng là một thời trăm hoa đua nở dù nở trong khói đạn mịt mù. Vậy mà không biết tại sao hồi đó, thích thì thích nhưng rồi vì nhiều lý do nào đó mà ít khi nhắc đến. Tại quá lứa ? Hăm ba hăm bốn thì đã tới đâu mà tự thấy đã cỗi. Tại nghề nghiệp ? Có thể. Nhưng đâu ai cấm. Miễn đừng đem vô lớp mà rao giảng. Nghĩ tới nghĩ lui lại nhớ lời má la hồi nhỏ cái thằng gì như con lật đật nghĩa là không có chút nào kiên nhẩn, muốn gì là muốn lấy được. Chắc tại vậy mà lớn lên trộng trộng chút rồi là chuyện gì cũng húc dầu thẳng vô, được ăn cả ngã về không, hổng có thích cái chuyện ... chạy vòng vòng. Thấy êm chèo mát mái thì cặp bến mà hổng được thì rẽ xuồng sang bãi khác. Chắc tại vậy, mà mỗi lượt nghe chuyện ta chạy vòng vòng ta chạy mòn chân .... tôi thấy làm như hơi ... oải chân. Cái tánh bê tha đó lớn lên cũng không bỏ. Hồi nhỏ mê hai câu thơ của Đinh Hùng. Làm học trò không sách vở cầm tay. Có tâm sự đem nói cùng cây cỏ. Cho đến khi đời đun đẩy cho đi làm thầy cũng hổng chịu chừa. Lại còn sửa trại ra mà nghêu ngao với bạn bè. Làm thầy giáo không sách vở cầm tay. Có tâm sự đem kể cùng bia lạnh. Cái lối sống như vậy cũng vận tới chuyện văn chương của mình. Thơ tình Nguyễn Tất Nhiên đôi khi nghe hiền quá kể cả khi giận lẫy dù có khi đem cả chúa cả dì tu ra mà kêu ca. So ra thấy như mình đã quá lứa lỡ thời. Lại nữa, đầu những năm 70, cuộc chiến ở đó đã lan vào tới thành phố. Những chuyện làm bận tâm là cái kề bên, cái trước mắt. Là đường liên tỉnh bị đắp mô, cầu cống bị giựt sập. Là tiếng xe cứu thương chiều chiều xả cờ hú còi như la hoảng. Là tiếng đại bác dội vào đêm giới nghiêm như cú đấm cách không vào tim nảo. Là lệnh tổng động viên. Là đứa học trò trai quá tuổi từ giã đi trình diện Trung Tâm Nhập Ngủ số 4... Là ly rượu nếp than ực-cạn-một-hơi đêm tái ngộ bạn bè trở về nguyên vẹn sau cuộc hành quân tuốt dưới miệt U minh lúc nhúc đĩa vắt với hầm chông và B40 và AK 47... Vậy đó, làm sao nói hết cái tâm trạng phức tạp của một người cùng lứa tuổi với bạn bầy lại được ưu đãi cho đứng né bên lề, khi cuộc chiến tới hồi khốc liệt nhất. Và bom đạn thì vô tình. Và sống chết thì bất công hết chỗ nói.

Chắc tại vậy mà thơ Nguyễn Tất Nhiên có làm tôi nghĩ ngợi. Nhưng không đeo đẳng cùng tôi.

Chắc tại vậy, mà bây giờ, mấy chục năm sau, lúc năm sắp cùng tháng đã tận tới chục lần, nhiều khi rổi rảnh, nghĩ nhớ lung tung lại thấy mình đã lơ là quá với một tài thơ không-giống-ai mà cũng không ai giống vậy.

 

Thử trở lại cái thời người thi sĩ ấy chưa kịp tuổi đôi mươi mà thơ thẩn đã chạy vòng vòng trong trái tim của không biết bao nhiêu là người hâm mộ. 14 tuổi làm thơ. 16 tuổi in thơ. Anh hoa phát tiết ra ngoài ...

Có dịp ra vô trường lớp lúc đó, ở bậc trung học, chuyện làm thơ in thơ và nổi tiếng của Nguyễn Tất Nhiên với tôi phải kể là hi hữu. Bên kia bờ bắc sông Bến Hải thì bít bùng, dòm đỏ con mắt cũng chỉ thấy ... mịt mùng. Còn khắp nơi ở miền Nam Việt Nam, từ những năm 60, từ quận lên tỉnh, nơi nào có trường trung học là gần như nơi đó có những ... thi văn đoàn do những người học trò khoác áo văn nghệ lập ra. Những người học trò trung học đó, dĩ nhiên vốn là máu mủ ruột rà của một dân tộc rất sính thơ nên hồn thơ ... phát triển rất sớm. Hay dở chưa kể, mà hay hay dở cũng là một khái niệm rất tương đối, nội cái việc làm thơ mà không giấu diếm, mà kết bạn, mà tô vẻ lên mấy tờ bích báo dán đầy tường, hoặc cặm cuội quay ronéo rồi đem biếu không, phổ biến dù có giới hạn đã là một chuyện hết sức ... không thường. Hơn nữa, thơ vượt ra ngoài giới hạn của nhóm, của địa phương để lan tỏa ra khắp mọi miền đất nước càng là một

chuyện phi thường hơn nữa. Nguyễn Tất Nhiên khi còn rất trẻ, là một người làm thơ trong số người làm thơ phi thường đó.

 

Dĩ nhiên để cho công bằng, hẵn phải nói rõ hơn chút xíu. Thơ Nguyễn Tất Nhiên, dù hẵn là đã hay như ... thơ nhưng để cho được phổ biến rộng rãi đến vậy, một phần cũng là nhờ công phổ nhạc của Nguyễn Đức Quang ngay từ bài đầu tiên Vì tôi là linh mục rồi đến Phạm Duy, Anh Bằng và vài nhạc sĩ khác. Nói vậy không có chút nghĩa gì là hạ giá thơ Nguyễn Tất Nhiên xuống thứ bậc nào hết. Nói vậy để hiểu rõ hơn tình cảnh của người làm thơ trong thời buổi loạn ly. Dĩ nhiên thơ phổ nhạc mà hay thì điều kiện tiên quyết là thơ ... phải hay. Tiếng đàn Bá Nha hẵn là phải đạt đến cung bậc thưởng ngoạn của Tử Kỳ mới thành ra tri âm tri kỷ. Nhưng chuyện phổ biến lại là một chuyện khác. Thử nghĩ coi, trong một xả hội đương hồi giặc giã, cái chuyện ngồi nhẩn nha mở sách ra đọc, lật từng trang giấy in mà săm soi chữ nghĩa lắm khi lại là một chuyện không dễ làm. Ngoài bưng biền thì đạn nổ triền miên, người chết không kịp trăn trối. Trong phố xá thì biểu ngữ, lựu đạn cay mờ mắt, người sống càng lúc càng lao đao. Chợ búa thì giá cả leo thang bất kể làm mâm cơm càng lúc càng teo tóp ... Người có ngồi yên thì lòng cũng chẳng yên mà thơ với thẩn. Sách báo dẫu đầy tràn mà thời gian để nhẩn nha thưởng thức dường như cũng hạn chế. Học trò ở quê lắm khi vừa học đêm vừa canh chừng nhào xuống hầm trốn đạn pháo kích. Lính tráng ngoài mặt trận có khi phải che đèn dưới phòng tuyến mà coi, chữ còn chữ mất. Thành ra, thơ văn dẫu hay cách mấy cũng khó mà tìm người san sẻ. Tại vậy, mà phương tiện truyền thông rộng rãi nhất là mấy cái ra-dô ra rả ngày đêm. Mà ra-dô thì ít khi đọc thơ. Ra-dô thì phát nhạc nghe mệt nghĩ. Ấy là chưa nói đến băng cát-sết bán đầy ngoài chợ trời mà người ta thâu, sang nhạc “ vô tư” bất kể đến bản quyền tác giả. Từ đó, người ta nghe nhạc bất cứ lúc nào và ở đâu. Học hành, tình tự, làm việc, mua bán, hành quân, uống cà phê, nhậu nhẹt ... gì cũng có thể có “phụ diễn tân nhạc” miễn phí.

Tại vậy mà nói nhạc đã góp phần đem thơ Nguyễn Tất Nhiên đến với mọi người rộng rãi hơn. Tại vậy mà gần như ai nấy cũng có lần biết qua cô ... em-hiền-như-ma-soeur hay ông linh mục không-mặc-chiếc-áo-dòng. Kể ra thơ với nhạc đã duyên nợ nhau từ tiền kiếp !

 

Từ những bài thơ đầu tiên sau đó được in lại trong tập Thiên tai, hẵn là ai cũng phải nhận rằng thơ có gì lạ lắm. Không lạ vì cái loại đề tài chuyên khoa thất tình. Mà lạ vì những câu thơ giản dị, chữ nghĩa nhẹ nhàng trơn tru gần như thoát ra tự nhiên ngoài cửa miệng. Không có kiểu cách làm dáng, đua đòi. Vậy mà thấm lòng người còn hơn khăn tay thấm nước mắt.

Thử đọc lại đôi câu, hẵn là một trong những bài tình thứ nhất

Đôi mắt tròn, đen, như búp bê

Cô đã nhìn anh rất... Bắc Kỳ

Anh vái trời cho cô dễ dạy

Để anh đừng uổng mớ tình si 

Hay

Anh vái trời cho cô dửng dưng

Coi như Hà Nội - xứ hoang đường

Để anh còn dắt cô đi dạo

Còn rủ cô vào rạp cải lương

Thơ 7 chữ vốn trịnh trọng mà tỏ tình nghe nhẹ hửng như nói chơi, nói chơi mà ăn thiệt. Thi ảnh chẳng cần vay mượn đâu cho xa. Thi ảnh là cái trước mắt, gần bên, nhan nhản ... Cái đáng nói là làm sao biến cho được những thực thể loanh quanh, lắm khi gần như vô vị thành cái thi vị. Còn rủ cô vào rạp cải lương. Những năm 60, 70 ở miền Nam khi mà người ta còn đang dậm dựt với These boots are made for working với tiếng hát của Nancy Sinatra hoặc nhún nhảy với Poupée de cire, poupée de son qua cái giọng nhí nhảnh của cô nàng France Gall ... chưa kề đến nhạc rumba boléro Việt Nam ê a không biết mệt từ đầu trên xuống tới xóm dưới ... mà dám rủ rê người ta đi coi cải lương thì quả là bạo còn hơn bỏ vô khu ... làm cách mạng. Có thể cũng do cái tánh ngang ngạnh ngược đời. Hoặc một chút nghịch-ngợm-trửng-giỡn-con-nít. Đã gọi người ta là cô em Bắc kỳ nho nhỏ, tóc “demi-garçon” mà rủ đi coi cải lương thì cũng giống như kêu con gái lục tỉnh đi xem chèo cổ. Rủ rê mà làm như chọc ghẹo xỏ xiêng không bằng. Ai mà hổng giận. Nhưng điều đó có nói lên được gì không bản chất của cái loài gọi là ... thi sĩ. Muốn là làm, bất kể. Và lắm khi, ngược đời.

Bài thơ làm cho gái Bắc lại rặt cái giọng Nam kỳ. Trực tiếp, ngay bon chẳng thèm vòng vo chi cho mệt. Mà dễ thương hết mức. Nếu được cho khen một tiếng theo lối nói của mấy ông chuyên làm mai mối hồi xưa là ... không có môi miếng. Ờ, nói thẳng, nói ngay, nói huỵch tẹt .. mà điều bộ dễ lắm sao cái lối nói ... không rào trước đón sau. Chẳng biết, hồi đó, bài thơ có làm xiêu lòng ai không chớ bây giờ đọc lại thấy mấy câu tán tỉnh đó mới duyên dáng làm sao. Chữ nghĩa tuôn ra đâu như có sẵn, chẳng cần phải moi óc nặn tim làm chi cho mệt. Người có thấy ra sự chân thành trong chữ nghĩa đó chăng. Lời lẽ chân thành mà gây ra xúc cảm đến vậy, há chẳng phải là thơ thì là gì ! Thơ làm cho người đọc, nhất là cùng lứa tuổi học trò như thi sĩ, xúc cảm và yêu thích vô cùng. Nhưng xui rủi ( hay may mắn ! ) là dường như người trong cuộc chẳng mảy may xúc động. Có phải chính vì sự từ chối của ai đó nên đời thấm thía thêm được hai năm tình lận đận, mới có màng ta chạy vòng vòng quỳ té dưới chân người, đời mới hoảng vía biết thêm có ông linh mục không mặc áo nhà dòng, mà chỉ biết giảng lời tình nhân gian. Hổng phải sao . HL Mencken có lần đã nói hôn nhân là một cuốn tiểu thuyết mà nhân vật chính đã chết ngay từ chương đầu ! Nếu tình mà nồng thì làm gì đời có những câu thơ tình lạnh ngắt như giọt mưa vở trên tượng đá. Uổng lắm thay !

 

Có một bài thơ làm đâu cũng khoảng đó, lúc vừa 19 tuổi, rồi được phổ nhạc làm người ta mê mãi với âm khúc nhẹ nhàng, những nốt nhạc lên xuống trầm bổng mà âm vực không quá cách biệt làm nghe ra như tiếng thì thầm của những giọt mưa rớt trên tóc, trên vai, trên vạt áo dài ai đó ... Bài hát Em hiền như ma soeur soạn từ bài thơ 5 chữ với cái tựa cụt ngủn Ma soeur. Dì phước, bà phước hay chơi tiếng tây thẳng thừng ... ma soeur. Những danh xưng nghe rất quen tai mà gần gũi thì chừng như không. Nhất là đối với đám con nít mới nứt mắt đã được gởi vào nội trú trong các couvent hay khi phải vô nhà thương ... thí. Là lạ ở bộ áo choàng phùng phình lớp trong lớp ngoài, lắm khi thêm cái mũ trùm đầu với đôi cánh như sắp sửa bay lên trời ... Họ giấu mình trong những nhà tu kín hay xốc vác việc đời trong những bệnh viện, những viện mồ côi, những nhà dưởng lão ... Họ sống trong một thế giới riêng, tách biệt khỏi những xáo động của cái đám đông lố nhố người phàm mắt thịt. Và ít hay nhiều, tự dưng trong xả hội nẩy sinh ra một khoảng cách. Cái khoảng cách giữa tội lỗi và thánh thiện, giữa địa ngục và thiên đàng. Tự dưng rồi như có một cái gì làm e dè khi phải xáp lại gần cái cõi người lẻ ra là thân thiện lắm. Vậy đó, tự nhiên rồi cái thế giới đó trở thành gần như cấm kỵ, đứng xa mà nhìn chớ có trà trộn mà ... vô đạo. Tín đồ, hay ngay cả người lương, hẵn ai cũng có niềm tin như vậy.

Vậy mà, có lúc có chuyện lạ xảy ra ... Người ta chắc có người rủa thầm, có người cười khà. Nhưng thích hay không thích, hẵn đều không khỏi ngạc nhiên khi có kẻ gọi người mình yêu là ... ma soeur ngon ơ, cái danh xưng vốn dĩ mang tính cách tôn nghiêm. Trong chỗ riêng tư thì không nói gì. Đằng này, giữa chỗ đông người ... Cái chuyện đem tình riêng xáp lại gần chùa chiền hay nhà thờ không phải là hiếm. Khi Điệp tìm tới Lan ( **) thì ni cô cắt đứt giây chuông. Khi hoa trắng thôi cài trên áo tím thì anh làm chiến sĩ giữ quê hương ... giữ cả lầu chuông nóc giáo đường ( ***). Vậy thôi, người ta đứng né né bên hông nhà thờ hay ngoài cổng chùa. Chưa có ai xắn xả nhào vô tới trong cấm địa. Vậy mà, bỗng dưng có người gọi đích danh người mình yêu, người mình si là ma-xơ. Gọi mà không sợ phạm thánh. Quả là yêu thương hết dạ. Tuy nhiên gọi được vậy rõ ràng là từ chí tình tới chí lý ! Đinh Hùng có lần cũng tung hô quá mạng. Ta đặt em lên ngai thờ nữ sắc. Trong âm thầm chiêm ngưỡng một làn da. Mà điều Kỳ nữ của Đinh Hùng nghe ra xa xôi quá. Xa như cái thế giới mộng mị mộng hoài rồi cũng chỉ thấy chiêm bao. Đằng này ma-xơ của Nguyễn Tất Nhiên gần gũi hơn nhiều, áo chùng trắng hay xám, thánh giá đeo cổ ... là những hình tượng rất quen thuộc. Chỉ có điều, dù có đó mà khoảng cách đạo đời đã bày ra đó. Vậy mà Nguyễn Tất Nhiên dang tay ra cái một, bất kể luật đời luật đạo. Yêu là vậy phải không ? Phá đổ hết mọi rào cản. Làm cho cái mộng của thi sĩ gần xịt. Gần như trong một vói tay. Và thiệt. Thiệt như ... thơ. Nói theo ngôn ngữ thời thượng, đó là một bước đột phá phải kể là huê dạng.

Ðưa em về dưới mưa

Nói năng chi cũng thừa

Phất phơ đời sương gió

Hồn mình gần nhau chưa?

..........................

Hỡi em cười vô tội

Ðeo thánh giá huy hoàng

Hỡi ta nhiều sám hối

Tính nết vẫn hoang đàng!

...........................

Em hiền như ma soeur

Vết thương ta bốn mùa

Trái tim ta làm mủ

Ma soeur này ma soeur

 

Thơ làm như vậy hỏi những người mười bảy mười tám tuổi kể cả vừa đôi mươi những năm 70 làm sao không thích. Thơ mềm như từng ngón tay vuốt lưng em tóc dài ... Nghe ngọt xớt như nước-đá-chanh-đường và êm như tiếng ai rúc rích sau lưng. Bởi vậy chắc cũng có hơn một người khó chịu nhưng rồi chắc ai cũng nhoẻn miệng cười xòa. Thơ ... “ mi-nhon ” quá mà. Phải không ?

 

Chính những bài thơ tình đầu đó lúc mới 16 ? 17 ? Hay 18 tuổi ?, cái tuổi người ta hay nói ăn-chưa-no-co-chưa-ấm mà lời lời đã như dao nhọn xoáy khoáy vào mắt vào tai vào tim người đọc thơ. Dở lại hết mọi trang tình sử từ xưa thiệt xưa đến nay thiệt nay, từ mấy ông Tàu tới mấy ông Tây xuyên qua mấy ông Việt ta, có ai đã cả gan gọi người trong mộng - dù là mộng vở- là ác quỷ, tay thủ dao găm ... Thất tình, người ta làm thơ nỉ non, trách móc ... là chuyện dĩ nhiên. Và thường thì rất nương tay với ... “ thủ phạm ”, thường giữ giọng tủi hờn biết thân biết phận kể cả khi oán trách. Đằng này ... Nhưng xài tới những ẩn dụ vừa cực kỳ mới mẻ, táo bạo đến độc đáo ... là chuyện không thường. Người từ trăm năm. Về như dao nhọn. Ngọt ngào vết đâm. Ta chết âm thầm. Gác qua bên cái chuyện tình cảm lằng nhằng, nói về thơ chính thị, hẵn phải công nhận rằng người con trai mới lớn, tuổi còn trung học mà thơ sáng tạo như chưa từng. Tính cách mâu thuẩn, nghịch đảo trong ẩn dụ là thi pháp mới lạ gây ấn tượng sâu lắng đến tận niềm riêng của người đọc. Nhất là người đọc còn non xèo như lá cỏ. Người làm thơ thì tuổi đời còn quá trẻ mà tuổi thơ văn đã già gấp mấy tuổi đời.

 

Thêm nữa, một bài thơ khác mà hẵn lúc đó đã gây ít nhiều phiền phức. Và chắc cũng đã làm cho hơn một người buồn lòng. Nhưng khoan ... Đọc lại trọn bài thơ, nếu đoạn đầu có những câu có thể kết tội thì đoạn sau có những câu đủ cho người xá tội. Thơ lắm. Thơ kể cả khi nhắc lại mấy cái chuyện tầm xàm mà miệng đời hay rêu rao. Và thơ hơn nữa khi tụng ca mối tình đã thất thoát của chính mình.

ta sẽ về thương lại nhánh sông xưa

thương lại bóng hình người năm năm trước...

em nhớ giữ tính tình con gái Bắc

nhớ điêu ngoa nhưng giả bộ ngoan hiền

nhớ dịu dàng nhưng thâm ý khoe khoang

nhớ duyên dáng, ngây thơ... mà xảo quyệt!

…………………..

nghe nói em vừa thi rớt Luật

môi trâm anh tàn héo nụ-xa-vời

mắt công nương thầm khép mộng chân trời

xin tội nghiệp lần đầu em thất vọng!

ta - thằng ôm hận tú tài đôi

không biết tìm ai mà kể lể

chim lớn thôi đành cam rớt lệ

ngày ta buồn thần thánh cũng thôi linh!

.....................

em chẳng bao giờ rung động cũ

ta năm năm nghiệt ngã với tình đầu

nên trở về như một con sâu

lê chân mỏng qua những tàn cây rậm

nuôi hy vọng sau ngàn mưa nắng lậm

lá-xanh-em chưa dấu lở loang nào

để ta còn thi sĩ nhất loài sâu

nhìn lá nõn, tiếc, thèm... đâu dám cắn!

nếu vì em mà thiên tài chán sống

thì cũng vì em ta ngại bước xa đời !

Bài thơ với phong cách rất là chững chạc, chữ nghĩa trân trọng và thi ảnh hoa lệ là một lời thú tội chân thành. Chân thành còn hơn Nguyễn Bính tại vì yêu quá đấy mà thôi sau khi đã lên tiếng cấm đoán tình nhân đủ thứ còn hơn cái đám độc tài đảng trị thời nay cấm dân ! Nghĩ đến số tuổi lúc sáng tác mà giựt mình. Người như vậy, tánh tình như vậy, vốn mơ mộng, phóng túng đến ngông nghênh mà xuống nước thủ thỉ những lời tạ tình rất mực như vậy hỏi ai mà không vuốt giận cho đành !!! Còn lời thú nhận nào dễ thương hơn nữa :

nếu vì em mà thiên tài chán sống

thì cũng vì em ta ngại bước xa đời !

 

Thì cũng vì em ta ngại bước xa đời . Nghe ra như cả một bản tuyên ngôn để vinh danh tình yêu vĩnh cữu dù đã bị tình vật đến xất bất xang bang hẵn là còn nhiều lần hơn hai năm lận đận với tình yêu.

Đã hết đâu, cõi thơ của Nguyễn Tất Nhiên mênh mông lắm. Đã đành, lúc đó còn bận bịu với mấy cô yêu nữ tóc dài tóc ngắn, nhưng cái đầu vốn dĩ không có biên giới thì thơ có biên giới nào đâu. Ngay cái lúc tuổi yêu đương đang sung mãn, người thi sĩ ấy đã có những sắc mắc cao vời vợi và sâu thăm thẳm về cái cõi người với thân phận làm dân nhược tiểu. Thử đọc lại một bài thơ làm đâu vào khoảng 1971, năm 19 tuổi. Chiều mệnh danh tổ quốc. Mặc dầu lo yêu đó, lo thất tình đó, lo đủ trăm ngàn thứ lặt vặt của một người còn trong tuổi học trò, cái đầu hẵn sống cõi trăng sao nhiều hơn cõi trần thế, vậy mà cái đầu đó nghĩ ra tựa một bài thơ làm giựt mình. Chiều mệnh danh tổ quốc. Lối dùng chữ đặt câu quả ư là sắc mắc. Thay vì “nhân danh” như thói thường. Không ! “ Mệnh danh ” mới đúng độ. “ Mệnh danh”, dấu nặng âm trắc trục trặc nghe ra như có gì ép uổng, lộ ra sự tiếm danh ( mạo danh) của cái-gọi-là-lý-tưởng, làm liên tưởng đến một sự lạm dụng chữ nghĩa. Từ đó, thơ như một nụ cười nhếch mép, mỉa mai cái sự-thật-phi-lý vẫn được rêu rao dù thơ không kết tội. Thơ chỉ phô bày một sự thật hiển nhiên. Ở phía nào, thì nhân danh một lý tưởng, nhân danh một chủ nghĩa để đòi hỏi một sự hy sinh đánh đổi bằng cái chết cũng đều là vô lý. Bài thơ không cường điệu bằng những danh từ rổn rảng. Hay thảm thiết. Bài thơ kể lể bằng một giọng điệu tự nhiên như vô cảm. Vậy mà âm hưởng làm tiếc thương người trong cuộc, thương lây sang cho cả một lứa trẻ bị bầm dập vì sự xúi biểu của quyền lực ngoại bang và tham vọng mù tối của đám người cuồng tín. Ai biểu thi sĩ nghĩa là ru với gió ! Không, người thi sĩ ấy.

Người yêu tôi khóc ngất

Chiều quân đội nghĩa trang

Rạt rào hơi gió nóng

Cho đau tà áo tang

...........................

Người yêu tôi khóc ngất

Trước quan tài sĩ quan

Trước hai chàng lính đứng

Thao diễn nghỉ lạnh lùng

.........................

 

Đọc tiếp để thấy cái tinh tế của một kiểu đầu óc thường bị rêu rao là cứ lơ mơ nơi những phương trời viễn mộng ...

Người yêu tôi khóc ngất

Trung úy thản nhiên cười

Lồng trong khung ảnh đẹp

Dựng sau bình bông tươi

 

Dự đám tang một người lính tử trận, người thi sĩ chưa tới tuổi hai mươi nghe thấy gì ngoài những hình ảnh quen thuộc trong bất cứ một đám tang lính nào đã xảy ra trong suốt 7000 ngày đêm trên cái xứ sở khốn nạn của chúng ta. Quan tài, vòng hoa, nhang khói, những vành khăn trắng, tiếng khóc, tiếng kèn đồng ai oán v. v... Mọi thứ mà ai cũng thấy. Ở đây lại có một thi ảnh độc đáo mà đã mấy ai nhận ra.

Người yêu tôi khóc ngất.

Trung úy thản nhiên cười.

Người yêu tôi khóc ngất. Trung úy thản nhiên cười. Có thấy ra được sự tương phản độc ác của một hoạt cảnh quen mắt đến gần như không còn làm ai thấy lạ. Thân nhân của người chết khóc ngất. Nhưng trên di ảnh đặt trước đầu quan tài thì hình người cười tươi. Đâu có ai chụp hình người chết bao giờ. Cho nên khi đột ngột mất đi, người ta chỉ còn cách lục tìm những tấm hình cũ, khi còn sống. Khổ nỗi, hình những người chết trẻ được chụp lúc còn sống hẵn cũng trẻ trung làm gì thiếu những nụ cươi đầy sức sống. Cho đến khi, chuyện xảy ra, giữa khi cha mẹ em út bạn bè và góa phụ hay tình nhân khóc lóc thê thiết thì người chết ... cười ! Nụ cười tương phản với tiếng khóc. Sao cả hai xảy ra trước cùng một thảm cảnh. Sự mâu thuẩn làm ra cái bi đát đến tột cùng, được thi hóa một cách thản nhiên như một ngọn gió thoảng nhẹ qua vai mà ai dè thấm lạnh. Chính sự mẩn cảm tuyệt vời của người làm thơ đã phát hiện ra cái nghiệt oan tưởng chừng vô nghĩa đó.

..........................

Sự vinh thăng bất ngờ

Là đem theo nước mắt

Là danh dự xót xa

Là một lần đắp mặt

Một lá cờ quốc gia

.............................

Chiều quân đội nghĩa trang

Chiều mệnh danh tổ quốc

Có muôn ngàn câu kinh 

Có muôn ngàn tiếng khóc

Có chuyến xe nhà binh

Đưa "Thiên Thần" xuống đất

Còn ai, còn ai chăng?

Mua cờ bằng tính mệnh

Cho tôi đừng biết tên

Cho tôi đừng nhận diện

Cho tôi đừng chứng kiến

Xác "thiên thần" rã manh

Người yêu tôi khóc ngất

Chiều quân đội nghĩa trang

Vài dặm bụi lang thang...

 

Cho tôi đừng biết tên. Cho tôi đừng nhận diện. Cho tôi đừng chứng kiến ... là một tiếng kêu thương bi phẩn, biểu lộ một thái độ nhân bản tuyệt vời. Không muốn nhìn, không muốn thấy những tang thương. Mà có được đâu. Tiếng kêu xin trong vô vọng. Cuộc chiến tranh đó là một tai họa mà mọi người đều có phần. Vì vậy, tiếng kêu như một phản kháng bất lực, nghe tội nghiệp làm sao, tâm hồn mềm như lá cỏ của những người mang mệnh thương vay ! Nhưng có phải vậy thôi đâu, người làm thơ còn đẩy tới chập choạng hư vô, những cảm nghĩ sâu từ vô thức ...

Kể chuyện đám tang, rạch ròi như một đoạn phim chiếu lại, với những suy nghĩ cặn cùng để rồi kết luận ngon ơ với hình ảnh chẳng ăn nhằm gì hết với dàn bài đã sẵn. Bài thơ dứt với câu áp chót coi như đã đủ ý. Nhưng không. Còn thêm Vài dặm bụi lang thang. Như nói bâng quơ vậy. Mà điều cạn tình cạn lý. Huyệt mộ lấp kín rồi. Nước mắt lau khô. Nỗi buồn cất lại. Mọi người ra về. Cái còn lại ? Cái còn lại là ... những hạt bụi lang thang bay dài theo chiều tối. Hạt bụi nhẹ lắm, mờ lắm như có như không. Có phải đó là hình ảnh đích thực của mọi thứ giá trị mà cuộc đời này đặt để cho con người. Từ gặp gỡ đến chia ly, từ tiếng cười đến tiếng khóc, từ có đến không, rồi ra ... rốt lại còn có gì đâu ngoài những nhúm bụi vật vờ. Triết gia !

 

Đọc thơ Nguyễn Tất Nhiên, nhất là những bài thơ năm chữ, lắm khi tưởng như không phải là thơ mà chính là ... thơ ... thứ thiệt. Bởi vì thơ là luật là lệ, là câu cú vần điệu. Mà muốn có luật lệ thì phải suy nghĩ, phải cắn bút, đôi khi phải vò đầu, phải ... phải ... Vũ Hoàng Chương có lần than rằng phút-linh-cầu-mãi-không-về, bâng-khuâng-giấy-trắng-chưa-hề-mực-đen. Dẫu chỉ là một cách nói, nhưng ít hay nhiều cũng chứa nhiều phần trăm sự thật. Đằng này, đọc thơ Nguyễn Tất Nhiên có cảm tưởng như thơ phát ra liền tù tì khi người thơ làm thơ. Kiểu như mây thì bay, nước thì chảy, và Nguyễn Tất Nhiên thì ... thơ. Vui cũng thơ mà buồn cũng thơ. Chẳng cần vò đầu nặn óc, chẳng phải o ép vặn vẹo chữ nghĩa. Si tình cũng thơ mà thất tình càng thơ. Đọc lên tưởng là dễ dàng lắm mà thơ không dễ dãi chút nào. Không có chữ nghĩa bóng bẩy, càng không làm bộ làm tịch ra vẻ bí hiểm triết lý cao siêu. Có điều cái bất thường đã ẩn tàng trong cái rất mực bình thường. Hổng chừng nếu lấy biệt hiệu là Hồn Nhiên cũng không có gì là sai chạy !!!

Hai năm tình lận đận 

Hai đứa cùng xanh xao

Mùa đông, hai đứa lạnh

Cùng thở dài như nhau

 

Chuyện lở dở không làm ai vui. Nhất là kiểu người-đó-ta-đây càng như chọc gheọ thêm nỗi buồn.

Hai năm tình lận đận

Hai đứa đành xa nhau

Em vẫn còn mắt liếc

Anh vẫn còn nôn nao

 

Lời thơ đi một mạch êm ru như một tiếng thở dài. Tưởng tình qua như một cơn gió thoảng. Không. Người con trai ở đây nặng lòng hơn nhiều lắm. Bắt quàng chuyện mình qua hình ảnh cây thánh giá trên nóc chuông nhà thờ là một thú nhận tuyệt vời. Có phải muốn xác nhận tình yêu đã đóng đinh mình lên thập giá, như Chúa bị đóng đinh trên đinh đồi Golgotha mặc tình cho thiên hạ ném đá dập vùi. Dẫu vậy Chúa có than phiền gì đâu. Chúa xuống trần là để cứu rỗi nhân gian. Như người tình chịu thua nhưng vẫn sung sướng vì đã có lần tìm được tình yêu.

Anh bây giờ có lẽ

Xin làm người tình thua

Chuông nhà thờ đổ mệt

Tượng Chúa gầy hơn xưa

Chúa bây giờ có lẽ

Rơi xuống trần gian mưa

..........................

Anh bây giờ có lẻ

Thiết tha hơn tín đồ

Nguyện làm cây thánh giá

Trên chót đỉnh nhà thờ

Cô đơn nhìn bụi bậm

Làm phân bón rêu xanh

 

Làm phân bón rêu xanh. Chỉ xin làm phân bón cho rong rêu là thứ loài hạng bét. Ai nói sao không biết. Chớ còn lời nguyện ở đây thì quả là thượng hạng. Làm sao không thương cho đành !

 

Thơ đi sát với cuộc đời nên đi thẳng vào lòng người ngon ơ. Thơ làm như ở với người thơ đâu sẵn, như hơi thở, như nhịp tim, buồn vui giận hờn gì cũng ra thơ ngay trong khoảnh khắc. Vì vậy mà lời thơ trong sáng, nhịp thơ suông sẻ, tiếng thơ nhẹ nhàng, thanh thoát như tiếng nước suối róc rách một buổi đầu xuân khi tuyết đang tan mà ngược lại nghĩa và ý thì nặng trĩu như trời còn đông dưới mấy tầng tuyết phủ. Thơ ở đó mà tình thơ cũng ở đó. Làm thơ như chơi nên người đọc cảm thấy ... chơi vơi.

 

Lần theo những bước đời rất mực chênh vênh của tuổi trẻ đa đoan. Đọc thêm đôi dòng lục bát của Nguyễn Tất Nhiên, thể thơ làm thì dễ ợt mà hay thì khó dàn trời. Đọc thêm để thấy cái tài hoa của người thơ mà tuổi đời vừa chớm hai mươi. Bài Chuyến đò Cữu Long.

Đò qua sông, chuyến đầu ngày

Người qua sông, mặc áo dài suông eo

Sông hiền sóng lạ lùng reo

Trời bao la cũng nhìn theo... ái tình

Người qua sông, qua một mình

Nắng trên sông, nắng vàng hanh mái đầu

Xin em vài sợi tóc nhầu

Trói thân ta với nghìn sầu chung nơi

Mong em gìn lấy ơn trời

Thấy quanh năm, thấy ta đời tai ương!

Người qua sông, mặc áo hường

Nắng dương gian, nắng buồn hơn trước nhiều

 

Lục bát không thèm theo nhịp chẳn như thói thường. Lục bát phóng túng, phá cách như cái tuổi trẻ phá rào. Cấu trúc thơ lắt léo mà thơ nghe ra suông sẻ, êm đềm. Hơi thơ lúc ngắt quảng, lúc xuôi liền một mạch kéo theo mớ hình ảnh buổi sớm mai lóng lánh thứ nắng sớm mịn bâng trên vạt áo hường nhan. Đò ngang qua sông có tượng trưng gì cho một sự ngăn cách. Xử dụng điệp tự (để nhấn mạnh) mà âm vọng lại nhẹ hều. Người qua sông, qua một mình. Nắng trên sông, nắng vàng hanh mái đầu. Cách ngắt câu chẳn lẻ bất thường làm bài thơ trở nên sinh động, phá vở cái cấu trúc quen mắt của lục bát, làm thay đổi hẵn tiết tấu quen tai. Thay vì hoặc hai hoặc bốn, người làm thơ trẻ không ngần ngại cắt nhịp ba-ba hay ba-năm. Nhịp lẻ gợi ra cái trắc trở của cuộc tình. Người qua sông, mặc áo hường. Ngắt câu ba-ba tỏ vẻ dứt khoát, chấp nhận chuyện lẻ đôi. Người qua sông, người đứng lại bên bờ. Đến câu tám, ngắt câu ba-năm, làm thay đổi hẵn âm hưởng của thơ. Đang dứt khoát bỗng nhùn nhằng. Dù chấp nhận nhưng làm sao không buồn. Nỗi buồn sẽ kéo dài cho đến bao giờ ai biết. Nắng dương gian, nắng buồn hơn trước nhiều. Thử đọc lên thành tiếng, tự nhiên chữ “ buồn” -trầm bình thanh- phải hạ giọng xuống, thanh âm như lắng lại rồi ngân dài ra, rồi cao giọng lên với chữ “ hơn ” -phù bình thanh- hiển hiện cái lắt léo của tình cảm. Như xác nhận sẽ còn buồn lâu, buồn sâu, buồn hoài, buồn dài dài ... Thơ điệu vầy ai vui cho nỗi. Có phải trong cái buồn, thơ đã có cái đẹp tự thân.

Rồi lại thêm cái áo dài suông eo. Trời, chữ nghĩa mới điệu làm sao ! Cái kiểu áo dài trắng của nữ sinh những năm 70, hai tà lất phất mà eo thì thả lỏng, không chít cũng không thắt cho dáng đi ra vẻ thõng thượt lụa mềm. Chữ “suông eo” quả là đắc địa. Suông eo vì eo áo đã buông ra, mà buông ra là thả mặc tình cho gió thong thả lắt lay càng ra chiều ẻo lả . Vậy mà sao hồi đó không ai nghĩ ra để cho người con trai mới hai mươi tuổi đầu đã thành nhà ngữ học !

 

Kể ra cũng đã đáng được ngả nón chào thua trong cái chợ thơ rất ư là bát nháo. Tính ngưng rồi bỗng dưng lại nhớ quàng thêm một bài thơ tình khác. Nhưng lần này là loại tình nước tình nhà nên chắc không làm ai giẫy nẩy. Một bài thơ 7 chữ khi đã xa quê. Tình thơ hồn hậu như hàng cau quê cũ, êm đềm như nước đọng dưới cầu ao, xa quê rồi còn vọng mãi theo lòng. Nhớ nội.

Mưa nắng hai mùa trên xứ nội

Vun trồng từng luống mạ vồng khoai 

Mấy dây trầu "lẹt" tươi màu lá

Ôm ấp hàng cau với tháng ngày

.................................

Từ lúc giặc về, con biệt xứ

Nát lòng chim quốc nhớ quê hương

Mấy thu vàng úa đời xa cội

Chẳng biết mộ phần nội có yên?

 

Mấy thu vàng úa đời xa cội. Chẳng biết mộ phần nội có yên ? Trời ơi, ai cảm sao không biết chớ bây giờ đọc lại mà muốn chảy nước mắt. Thơ về quê cũ nghe sao mà êm dịu như muốn vuốt ve cái quê cũ đã bỏ đi. Hỏi mà chắc cũng biết lòng người tàn tệ, sau cuộc tương tàn, cả những núm đất cũng không yên thân. Ai nói thi sĩ chỉ lo chuyện trên trời. Chuyện dưới đất, đã nói thay giùm cho bao nhiêu người hằng đau nỗi đau xa cha xa mẹ, bỏ nước bỏ quê. Mà nói giùm bằng một giọng điệu hiền lành, âu yếm như tiếng thủ thỉ giữa bà cháu, những ngày còn chung ấm lạnh.

 

Thơ còn nhiều lắm. Có khi còn viết cả nhạc. Nhất là cả một dòng thơ sau năm 75, những năm còn kẹt lại ở đó và sau khi đã vượt thoát qua xứ người, với những cảm hứng mới khi con tim đã thôi xốc nổi. Rất nhiều những bài thơ có tựa cùng bắt đầu bằng chữ “ Tâm ... ”, làm như đang dọn đường cho một hướng đi tĩnh lặng, tìm tới một cõi ít tị hiềm hơn cái cõi nhân gian. Nhưng khổ nỗi, mấy khi kẻ tài hoa mà chịu hứa tới bạc đầu !!! Cũng đành !

Mà thôi, nói hoài cũng không hết chuyện. Đã hứa chỉ nhắc lại thơ tình ! Điều cốt yếu là thơ tự lúc đầu đã hiển hiện rốt ráo tài hoa của một thi nhân, thi nhân thứ thiệt không cần nhản hiệu.

 

“ Truyền thuyết ” kể rằng : thi sĩ có yêu một người con gái- bạn đồng trường, mà tình vô vọng nên tình hiển lộng thành thơ. Cái chuyện đó phải kể là một chuyện rất thường-tình-ở-huyện. Trai gái mới lớn phải lòng người khác phái rồi đem kể lể bằng văn xuôi hay văn vần thời nào cũng có. Có người, vốn tánh e dè thì chép tay vô nhật ký rồi giấu kín. Có kẻ gan dạ hơn thì nắn nót rồi gởi cho mấy tờ nhật trình với một bút hiệu kêu như gió thoảng mây bay. Lắm khi được đăng trong mục văn nghệ mầm non hay hoa thơm cỏ lạ gì đó, với hàng chữ nhắn nhủ bài-lai- cảo-xin-đừng-gởi-cho-báo-khác. Có khi, thơ gởi đi rồi đi luôn chẳng thấy hồi âm. Nhưng có sao, miễn là có dịp được trang trải nỗi lòng ra giấy trắng mực đen sau khi đã không dám mở miệng nhắn nhe gì hết với người trong cuộc. Cuộc tình chưa bồi đã lở coi như cũng có phần nào giải tỏa. Vậy rồi thôi. Có khi thôi một cách ngang xương. Cái mộng làm văn thi sĩ rồi cũng ngưng ngang. Trường hợp Nguyễn Tất Nhiên thì lại khác. Người ta nói người thi sĩ ấy vì thất tình mà làm thơ. Dường như không hẵn là vậy. Thất tình chỉ là cái cớ. Nguyễn Tất Nhiên làm thơ ... thất tình vì Nguyễn Tất Nhiên là thi sĩ. Thi sĩ. Tôi chắc người buồn từ một thuở. Đất trời còn dậy dáng hoang sơ. Cõi trong chưa tỏ niềm trăn trở. Người đã buồn vui một cõi mơ. Tôi biết người buồn tự bấy giờ. Mẹ cha vừa kịp nối duyên tơ. Những tinh thể trắng còn dong ruổi. Người đã vùi thân một cõi thơ...

.............................

 

Có người kể có khi trời trưa nắng chang chang mặc cái manteau mua ở khu Dân sinh, mồ hôi nhễ nhại đạp xe chạy vòng vòng ... hay ra đứng sửng giữa ngả tư đường, ngó trời ... (*)

Người ta còn kể, lâu lắm rồi, Rimbaud làm thơ từ năm 15 tuổi, thơ như một thứ tiên tri thấu thị và đời sống như một con tàu say. Le bateau ivre...

Người ta còn kể tiếp, Van Gogh mà mỗi nét vẻ như một vết đau quằn quại ...

Người ta còn nhắc đến Bùi Giáng còn-hai-con-mắt-nhớ-người-một-con ...

v. v ... và v. v...

Nhưng có cần không. Mỗi thi nhân là một thế giới riêng. Riêng với cái nghĩa cực cùng của nó.

 

Từ bài thơ Tình tuyệt vọng Sonnet d’ Arvers mà Khái Hưng dịch ra lục bát Tình tuyệt vọng, nỗi thảm sầu. Mà người gieo thảm như hầu không hay cũng đã có không biết bao nhiêu thơ tình lỡ, tình trễ, tình buồn, tình hận ... nhưng phải nói dường như không có thơ tình lụy nào dễ thương, dễ mến, dễ yêu, dễ nhớ, dễ chịu ... và dễ dàng cho bằng thơ tình của Nguyễn Tất Nhiên. Những câu thơ tình để tán tỉnh hay thở than nghe ra đều hồn nhiên, nhẹ nhỏm như lời thủ thỉ của gió mát với trăng thanh, của hoa xuân với ong bướm, của những cặp tình nhân kiểu Paul et Virginie. Platino amor.

 

Những năm cuối cùng sống ở Cali, xứ Mỹ, nơi có rất nhiều người Việt sống, hẵn là không thiếu người mến mộ cũng như ghét bỏ. Hẵn dường như đã có một chọn lựa. Minh khúc 2. Khi mà, dòng đã xa sông, thì trăng vẫn chiếu buồn trong tháng ngày. Khi mà chim đã xa bay, thì cây vẫn trái tình hoài trông mong. Khi mà mồ cỏ thu đông, thì xuân xanh vẫn phượng hồng hè xưa. Để sau cùng, chọn cái chết tự ý, có phải là lời đáp trả sòng phẳng cho mọi tiếng đời dị nghị. Là cách hoàn trả cả vốn lẫn lời cho thứ ân phước độc dược mà mạng số đã dành riêng. Tài thơ đó, loài thi sĩ đó ngay cả giữa vinh quang, muôn đời rồi vẫn cô đơn, lầm lũi đi giữa thế gian. Ai hiểu, ai san sẻ hạnh phúc, ai sớt bớt tai ương. Hay chỉ toàn ngộ nhận. Những ngộ nhận vốn dĩ là bản chất của cuộc đời. Cười khóc với thế nhân nhưng rồi giữa trùng trùng nhân thế ai là kẻ san sẻ cho hết được những khúc nhôi trong cùng tận của lòng riêng. Người đã đẩy hồn thơ tới tận cùng biên giới của mộng và thực, của thiên đường và địa ng̣ục, của yêu thương và ghét bỏ, của thiên tài và điên loạn.

Phần số của thi sĩ có phải đã từ tiền định. Sẵn rồi. Sẵn đâu từ khi mới phôi thai. Sẵn đâu từ khi người dân thành Athène tuyên bản án chung thẩm cho loài thi sĩ : Hãy đội cho họ vòng nguyệt quế rồi đuổi họ ra khỏi thành phố.

Còn lời kết án nào hùng biện hơn nữa cho cái loài thi sĩ, những người được sinh ra để làm đẹp cho đời. Và làm khổ cho chính mình. Như có lần, chính người thi sĩ ấy đã nói :

Ta phải khổ cho đời ta chết trẻ

Phải ê chề cho tóc bạc với thời gian

Còn lời tự thú nào khinh bạc hơn nữa, người thi sĩ ấy ...

 

                                                                                      Cao vị khanh

 

 

 

 

(*) Thái Thụy Vi ?

(**) Truyện Tắt lửa lòng của Nguyễn Công Hoan.

Lan và Điệp, tuồng cải lương của Trần Hữu Trang

Chuyện tình Lan và Điếp, nhạc của Lê Dinh, Minh Kỳ, Anh Bằng ...

(***) Hoa trắng thôi cài trên áo tim, thơ củ a Kiên Giang

______________________

                  thu, vàng mấy đỗi ...

 

Tự dưng …

... tự dưng rồi trời đổ sương đầy những sớm mai. Sương như hơi thở nấn níu của đêm sắp bỏ đi. Đồi núi, phố xá, cỏ cây lẫn lẫn trong hơi sớm mù mù. Sương bay là là, sương rơi lả lả. Sương từ vạt núi tuôn xuống. Sương từ mặt sông bốc lên. Sương váng vất ngoài đầu ngõ. Sương len lách vào hẻm phố. Sương tràn ngoài xa lộ. Sương thổi từng giòng khói trắng bay lan man vào từng lối tắt đường quanh, vắt lên cái nóc tháp chuông nhà thờ dát bạc, luồn vào khung cửa sổ khép hờ làm ai đó vội kéo góc chăn lên phủ kín bờ vai bỏ hở. Sương lấp lửng trườn lên hàng ghế đá công viên, rồi lặng lờ sà xuống tưới đẩm những luống cỏ rướm vàng. Sương tự trời cao nghiêng xuống hay sương từ đất thấp vói lên mà sương thấm vào vai người bộ hành dậy sớm làm ai đó rùng mình rồi chợt ... một thoáng nghĩ … ờ … vậy mà đã thu rồi!

CVK_lathu.JPG

Hôm kia, mà cũng đâu chắc hôm nào, từ những góc phố khuất, từng bầy chim rủ nhau tụ về vần vũ, bay liệng như thoi đưa, miệng kêu hớt hải vừa như thúc giục vừa như chần chừ trước một chuyến đi xa, xa lắm. Người qua đường bước chân bỗng có hồi như khựng lại, rồi… rảo bước nhanh hơn. Đường phố chợt có khi như ngừng đọng, rồi…vội vã bắt lại cái nhịp vừa để lỡ. Lòng người có một thoáng như ráo hoảnh… Có một cái gì bảng lảng đâu đây. Có một cái gì chực hờ muốn nói ... mà môi không hở được ra lời.

 

Mùa thu trở về, lạ lẫm như mọi khi.

 

Ngày hôm trước nữa, trên bãi đất trống phía tây thành phố, gánh xiệc dạo đã lo cuốn lều hạ rạp, cái vòng quay khổng lồ treo đèn kết tuội đã quay suốt một mùa hè giờ được tháo ra, chất chồng như một đống phế liệu. Mấy cái loa phóng thanh phát rân những bài nhạc vui nhộn cũng đã được gở ra khỏi mấy cọc sắt, vất bừa bãi xộc xệch như những cái miệng mếu máo. Bên những chiếc xe van biến chế làm nơi ăn ngủ, những nghệ nhân hết việc đang vội vã thu xếp đồ nghề vào mấy chiếc rương cũ kỷ. Khuất sau tấm bảng quảng cáo sơn phai nhoè nhoẹt, chú hề quen thuộc, không còn cái áo rằn ri và cái quần thùng đóng bộ, bôi mất lớp phấn son ngây ngô, ngồi một mình, cô đơn và lạt lẽo như một pho tượng cũ bỏ quên.

 

Mùa thu dợm đến, có một lúc mọi sự tưởng chừng như ngừng lại. Một khoảnh khắc nào đó. Một khoảng trống nào đó hay chính là một khắc khoải nào đó. Biết đâu.

Mà có thực. Trời đất cỏ cây và lòng người. Tự dưng rồi thấy một chút bâng khuâng. Một cái gì đó xao xác. Một thứ gì đó không yên. Tự dưng rồi thấy nao nao. Thấy là lạ dù vẫn đất trời đó, sông nước đó, gió mây đó, cỏ cây hoa lá đó. Có điều trời đất đó dưng không ra chiều lãng đãng. Gió mây đó bỗng nằng nặng nỗi niềm. Cũng là cơn gió quen nhưng trưa nay sao thấy hiu hiu. Vẫn là vạt mây đó sao hoàng hôn này lại ngan ngát. Có cái gì đó đang trở dậy, cựa mình, dù đã thúc thủ nằm yên từ lâu lắm trong cái góc khuất nhất của lòng ta.

 

Cái gì đó ? Ai mà biết được. Nhưng rõ ràng nó đang cọ quậy, đang vùng vẩy cho rớt lớp phấn bụi thời gian. Một ấm ức chưa được giải thông ? Một chuyện đôi co chưa ngã ngũ ? Một niềm vui chưa từng ? Một nỗi buồn chưa tỏ ? Hay một dáng người ? Có đôi khi chỉ một tiếng cười ? Rất có thể chỉ một tiếng khóc ? Ngọn đuốc cháy lập loè trên khuôn mặt sinh ly. Giọt nước mắt tử biệt khóc ngoài ngàn dặm. Ánh trăng xanh mướt một đêm mười bảy. Ngón tay ngoéo hờ giữa góc phố trăm năm. Tưởng đã khuất lấp. Tưởng đã chôn vùi dưới tầng tầng tất bật của từng ngày qua, từng đêm tới, tuần tuần, tháng tháng, năm năm…. Vậy mà không. Rõ ràng là không. Nó đang trổi dậy kìa, trong cái cạn sớt và thăm thẳm của lòng ta. Nó theo cái quạnh quẽ của hơi thu mà máy động. Rồi thì là một hoạt cảnh. Hoặc chỉ là một ấn tượng. Có khi chỉ là một cái ngoái nhìn hồi nào mà làm xốn xang lại cả dạ. Có khi chỉ là một trách móc không đâu lại làm trìu trĩu đến bây giờ. Hay khi không rồi một bước chân nhún nhảy của ai đâu một lần nào đó, bỗng làm rộn rã lại đến tội nghiệp con tim đã quá chừng mệt mỏi. Một chút xíu thôi, chút thôi. Nhưng mà quả tình có đó, còn đó.

Lòng ta đã vậy. Trời đất lại mang mang…

Trời đất quả thật là mang mang…

Nắng không ra nắng. Mưa chẳng ra mưa. Không gian cứ ui ui, thời tiết ấm ấm lạnh lạnh. Trời đất như có gì băn khoăn lắm, như cứ ray rứt gì đâu, như muốn bỏ một cái gì mà không nở, muốn giữ một cái gì mà chưa định. Ngày vẫn lên mà chừng như uể oải. Đêm mỏi mòn mỗi lúc một lê thê hơn. Giữa trời và đất như có gì lung linh nối lại, giữa ngày và đêm nấn níu những giờ khắc loảng. Cứ như vậy, giữa những đối cực bỗng nhùn nhằng cái khoảng trống không tên, cái gì không biết là cái gì, mà như sương, như khói, như hiu hắt, như tiêu sơ… Như có đó mà không có đó. Như không có đó mà không là không có đó. Không gian như có dây tơ. Bước đi sẽ đứt động hờ sẽ tiêu… (*)

Vậy đó… vậy đó ...

 

... Rồi một buổi sáng, choàng mắt dậy, có cái gì lốm đốm ngoài vườn, trên hàng phố, xa một chút trong công viên, xa hơn nữa trên sườn núi… một đốm vàng…Ờ, một đốm vàng giữa chòm lá hôm qua còn xanh mướt, một dãy đỏ trên rừng cây hôm kia còn xanh rì. Thu tới thật rồi, tới hồi khuya khi núi còn trầm mặc, sông đương lững lờ, phố xá im ỉm và người, người còn đang chìm nổi giữa chiêm bao. Thu tới như một bất ngờ dù đã từng phen dọ dẩm. Thu tới, e dè một chiếc lá...

… Rồi hai chiếc lá trở màu, rồi ngàn chiếc lá, rồi trăm ngàn, rồi triệu triệu chiếc lá trở màu cùng một lượt. Cái biển lá xanh ngát hôm qua hôm kia còn làm gợi lên sự yên bình rất đỗi, bỗng đâu chen chúc từng vệt màu nóng hổi, đủ hơ ấm cả một tấm lòng đang lạnh. Vàng, vàng vàng, đỏ, đo đỏ, tím, tim tím, nâu, nâu nâu… Xanh chen vàng, chen đỏ, chen tím, chen nâu. Rồi vàng đỏ tím nâu chen xanh. Rồi tới lúc đỏ con mắt mới thấy được một đốm xanh, lẻ mọn.

Chẳng mấy lúc, thu đúng mùa chín rộ, nở bừng ra lộng lẫy. Lộng lẫy tới độ làm lòng người cũng vui lây. Ngó lên núi, cả một núi gấm hoa. Nhìn ra xa, gần, trước, sau, phải, trái, chỗ nào cũng sắc với màu, cũng phấn son của trời đất. Lang thang vào rừng phong một ngày nắng tốt như len lách giữa trùng trùng trái tim còn rất trẻ. Hồng hào. Tươi rói. Mỗi bận gió thổi qua, cả một rừng tim đỏ cùng réo lên cái nhịp thanh xuân.. Vói tay ngắt chiếc lá, cọ nhẹ vào môi nghe mềm mại, mặt lá ửng hồng túa ra li ti những đường gân nhỏ như ngàn mạch máu vân vi trên má ai ngày xưa, nhan sắc.

 

Những ngày nắng, thứ nắng trong vắt và hiền hòa của mùa thu, biển lá còn được dát lên ngân nhủ, nhìn xa như một bức gấm thêu hoa mà bàn tay ngọc ngà đã điểm xuyết thêm đây đó những sợi tơ kim tuyến. Mùa thu đã thay lá thành hoa. Cả một vùng núi non, rừng rậm, ao hồ… biến thành một vườn hoa không rào chắn, thứ hoa không có ong bướm cợt đùa mà chỉ có toàn gió lượn. Có lạc vào rừng thu một ngày trở gió, thấy gió bốc lên cả một khối màu sắc lung linh lung linh mới thấy cái thâm ân của trời đất. Thiên địa đâu có bất nhân. Mặt đất này toàn là thực phẩm trần gian, no được hay không chính là do lòng ta đó.

Rồi lắm khi những cơn mưa bất chợt, mưa bay nghiêng làm như nước cũng đổi màu. Mưa thu không nặng hột, chứa trong cái túi long lanh của nó những đốm xanh đỏ tím vàng, cuốn theo gió thổi, rải tung màu sắc ra trời như bông giấy rải trong mùa lễ hội. Dứt mưa, nước thấm vào thân cây đen sẩm, tàng lá đã đỏ, ửng đỏ thêm, chòm lá đã vàng, hực vàng thêm, tuyệt tác.

Những buổi chiều không mây, mặt trời mùa thu rất nguội, rải đều hết thứ nắng ấm, vàng và trong như hổ phách, mọi thứ, mọi vật kể cả cái biển lá đủ màu rồi cũng nhòa tan vào cái màu vàng lồng lộng đó. Trên những con đường qua lại, những chòm cây chụm đầu thường đồng lõa cho người ta núp bóng tình tự, bỗng chốc hực hỡ, sáng trưng vì những chiếc lá vàng ăn nắng làm cả phố lá vàng thêm. Những tình nhân e thẹn được dịp cũng muốn tung hê ra cho hết, một lần. Khu phố xưa không chừng cũng bớt đi cái vẻ cau có ủ ê của tháng năm cằn cỗi khi ngọn nắng vàng thu len vào tới những hóc hẻm bỏ quên, làm tươi lại cả những vì tường bệ cửa đã rong rêu. Đến đá xanh chừng như cũng muốn ửng vàng như lá…

Chỉ có điều, chỉ có điều, trên những hàng dây điện càng lúc càng thấy vắng bặt dấu chim… những bầy chim dần dần đã bỏ đi hết. Ngày đã thấm lạnh. Gió đã đổi chiều, từ mạn bắc thổi xuống… miên man, miên man.

 

Cái lộng lẫy rồi có phải, chẳng qua … cũng chỉ là tín hiệu của một sự tàn phai, sẽ đến.

 

Thử tưởng đến cái màu vàng trong những bức tranh của Van Gogh, thứ màu vàng nóng sốt, chói chang đến quay cuồng trong cặp mắt buồn bã của người họa sĩ mang tâm bệnh. Màu vàng của thứ nắng quái chiều hôm, rồi ra, chỉ là dấu hiệu của một ngày sắp tắt.

Mùa thu cũng vậy. Thu vàng lịm, thu tím thẩm, thu đỏ quạch… vẻ rực rỡ đó của mùa thu dường như cũng chính là cái hơi thở hắt của đất trời trước khi tịch diệt, là lần gượng dậy cuối cùng của một năm đã tới hồi mệt mỏi.

Gió trở chiều. Mưa nắng, nắng mưa mấy đổi, từng ngày ngày một lạnh thêm…

Mùa thu đã đến bằng những bước chân thật từ tốn thì khi bỏ đi, những bước chân thu lại rất vội vàng. Một sớm, một chiều…Từng chiếc lá rứt khỏi cành, vèo bay, tấp vào một vạt cỏ úa hay mắc lại trên khung cửa nhà ai đó. Lá rơi trên vai pho tượng trắng, trên ghế đá, trên bờ thạch ngoài bến nước. Lá rơi trên vai người đi bộ rảo bước, trên tóc rối người chờ người trong góc khuất công viên. Lá rơi theo mưa, thầm thì theo mưa. Lá rơi theo gió, run rẩy theo gió. Rồi khi không gió cũng chẳng mưa mà lá vẫn rơi rơi. Lá rơi, rơi hoài rơi hũy… rơi cho đến lúc chỗ nào cũng đầy xác thu vàng. Hàng ba, hè phố, mái hiên, những lối tắt, những đường ngang. Lá rụng từng chiếc một, rồi lá rụng từng chùm, từng bựng… lá rụng tất tả, rụng ngược xuôi, rụng bời bời, rụng không kịp nghỉ… Lá rụng như cả một trời thu rụng. Xanh vàng tím đỏ tung hê, tan tác. Ngày vội vã lắm rồi. Chiều tới sớm. Đêm nơm nớp đâu đây.

Dưới gốc cây phong, lá khô nằm sắp lớp. Lá thu năm nay nằm đè lên lá những mùa thu trước. Lớp đã khô dòn. Lớp còn âm ẩm. Dẫm từng bước nhẹ, có nghe không, tiếng thu kêu xào xạc. Trên những bãi lá thành phố, không có con nai vàng nào ngơ ngác, nhưng chắc sẽ có hơn một người bỗng thấy mình ngớ ngẩn khi thấy sự đổi thay quá đột ngột của đất trời. Mới đó ! Đã quạnh hiu ! Cây lá trống không. Đất trời trống không.

Ai đó đã qua đây, rồi có để lại gì không, kể cả một dấu chân đã dẫm lên mấy lần lá úa. Lá sẽ rơi lấp lên tất cả, con đường, bãi cỏ, ngõ phố, công viên, tiếng cười lanh lảnh một mùa hè, giọt nước mắt lẫn vào giọt mưa bất chợt, ngón tay cong như một lời hẹn vu vơ… Ai đó đã kể chuyện một con sên đi chôn một chiếc lá vàng, có cần không, khi mỗi bận thu qua, mọi thứ rồi chỉ còn là một phần mộ lớn. Mỗi chiếc lá là một kỷ niệm. Mỗi chiếc lá sẽ rả đi, theo hạn kỳ của nó. Mọi kỷ niệm sẽ lịm dần trong huyệt sâu của tưởng nhớ, chỉ không biết khi nào.

Vàng thu chỉ là ảo ảnh. Và tình thu chỉ là một thứ đoạn trường.

 

Mùa thu đi rồi, đi rất vội. Mùa thu đi mang theo hết với nó những niềm vui chung, chỉ còn lại những tấc lòng riêng. Những tấc lòng quạnh quẽ một mình.

Mang theo hết đi, mang theo hết đi, mùa thu.

Để lại chăng, đôi khi chỉ là một chiếc lá vàng mà ai đó ép khô giữa hai trang sách cũ, rồi bỏ quên giữa mối mục thời gian…

Làm chi mấy lớp sương thu, để hai con mắt tôi mù hướng em. Tìm đâu thấy, dấu đã chìm ?

có chăng trong xác lá lìm lịm khô….

CVK_thang9muathu.JPG

(*) Xuân Diệu

__________________

CVK_Les feuilles.JPG

                                                                              Ảnh trên: Thủ bút của Jacques Prévert

 

Bấm link để nghe nhạc: YVES MONTAND - Les Feuilles Mortes

 

 

Trong suốt cuộc yêu thương mà chừng như bội bạc, đã có lần nào tôi kể em nghe về một bài hát cũ mà người ta đã hát thay cho một tiếng thở dài.

 

Ờ như một tiếng thở dài vậy em.

 

Bài hát là một tình khúc nổi tiếng từ những năm 40, 50 của thế kỷ trước mà cho đến nay, hơn bảy mươi năm rồi... vẫn chưa thôi gây xốn xang trong lòng người, mỗi bận tình cờ nghe lại ...Thơ của Jacques Prévert, người thi sĩ thích đùa giỡn với chữ nghĩa như đã bung thùa tuổi trẻ mình trên đường phố Paris. Bài thơ đó, Les feuilles mortes, được viết dựa theo một điệu nhạc soạn cho vũ khúc ballet bởi Joseph Kosma rồi được dùng làm nhạc đề cho một cuốn phim của Marcel Carné. Công trình họp soạn là một cách thức phá thể, như ý muốn vượt thoát cái hiện thế điêu tàn và trì trệ của một thời vừa im tiếng súng. Ra đời trong sự thờ ơ của người đương thời nhưng rồi chẳng mấy chốc trở thành bài ca ưa chuộng của hàng triệu người khắp nơi trên thế giới.

 

Trong số đó, hẵn không ít kẻ đã nghe ra như một niệm khúc cho riêng mình. Bài hát được trình bày theo thể điệu Jazz, nhịp bốn-bốn mở đầu với cung trưởng và kết thúc bằng cung thứ, với những chuyển cung vừa lả lướt vừa điệu nghệ, những âm giai thay đổi lên xuống bất chợt, có khi đẩy nốt nhạc lên tới quảng 5 quảng 8 làm như mỗi nốt nhạc là một chiếc lá lìa cành, bay chập choạng rồi để mặc gió cuốn đi vất vưởng ... vất vưởng như những tình nhân trong cuộc xô đẩy phũ phàng của định mệnh.

 

Nếu có dịp may một lần nào nữa, tôi sẽ lục tìm để cùng em nghe lại, Yves Montand... Giọng nam, khàn đục như quến khói, trầm uất như thoát ra từ một cõi đời đã lạnh. Bài hát mở đầu không bằng tiếng ca mà bằng mấy câu thơ được đọc lên như chỉ để nói thầm, như chỉ nói cho mình mình nghe. Dù ngay câu nói đầu tiên đã bật ra một tiếng gọi. Đại danh từ ngôi thứ hai. Tu. Em. Có điều tiếng gọi chìm lấp trong âm sắc u ẩn của giọng kèn saxo, làm người nghe có cảm gíác dường như người được gọi đã lánh mặt vào một cõi đời nào khác. Oh, je voudrais tant que tu te souviennes. Des jours heureux quand nous étions amis. Bởi vậy rốt lại chỉ còn là một lời độc thoại mà sao nghe ra thủ thỉ như o ấp từng chữ một, làm như người kia đâu đó ... vẫn kề bên. Tôi mong ước làm sao cho em còn nhớ lại. Những ngày hạnh phúc khi chúng ta sống bên nhau. Những ngày tháng đó, đời đẹp biết bao nhiêu. Và mặt trời ấm áp hơn bây giờ rất nhiều

 

Oh, je voudrais tant que tu te souviennes,

Des jours heureux quand nous étions amis,

Dans ce temps-là, la vie était plus belle,

Et le soleil plus brûlant qu'aujourd'hui.

Les feuilles mortes se ramassent à la pelle,

Tu vois, je n'ai pas oublié...

Les feuilles mortes se ramassent à la pelle,

Les souvenirs et les regrets aussi

Et le vent du nord les emporte

Dans la nuit froide de l'oubli.

Tu vois, je n'ai pas oublié

La chanson que tu me chantais.

 

Rồi cả dàn nhạc trổi lên quấn quýt theo tiếng kèn đồng não nuột đưa đẩy cho tiếng hát vuột ra, bộc bạch từng nỗi xót xa

 

... C'est une chanson qui nous ressemble

Toi, tu m'aimais et je t'aimais

 

Tiếng hát so đo từng lời, kể lể từng chữ như muốn phanh phui từng nghĩa, mơn trớn như hơi thở nồng nàn mà âm vọng lại nằng nặng như bàn tay gầy, thô, ve vuốt lên miệng một vết thương chưa lành, ve vuốt mà làm đau râm ran theo từng ngón vỗ về. Tiếng hát lặng lờ bay đi, tiếng buồn dội lại đè nặng lên lồng ngực, ray rứt như tiếng nứt rạn của mặt băng dưới sức ép của thời tiết đổi mùa. Nhịp slow chậm, trì trì như ngày tháng mỏi mòn dẫm đau lên những đợi chờ đã vô vọng

... Mais la vie sépare ceux qui s'aiment

Nhưng rồi cuộc đời chia cách những người yêu nhau

Tout doucement, sans faire de bruit

Lặng lẽ chẳng để lại một tiếng vang

 

Nghe như một tiếng thở dài hơn là một điều than oán. Chỉ là một tiếng thở dài. Rất lặng lẽ. Không một trách móc. Không một oán hờn.

Et la mer efface sur le sable

Les pas des amants désunis.

 

Và rồi biển cả xóa dần những dấu chân trên cát của những cặp tình nhân bị chia lìa.

 

Có phải đã xa rồi, xa lắm rồi, ngày tháng đó, mùa hè ấm, góc phố xưa, đêm lễ hội gần tàn, ly rượu cuối ngày ngoài hiên một quán thưa khách, nghiêng đầu bụm tay che gió thắp thêm điếu thuốc, vừa khi ngẩng lên, bất chợt, một thoáng hiện... Ai kìa. Bỗng dưng trăm dấu nhớ. Tim hụt nhịp. Dáng nữ kiêu sa. Mái tóc rối gió vẫn nguyên đường ngôi chẻ lệch. Tia nhìn lặng mà lao xao réo gọi. Ờ hai con mắt vốn đã xốn xang, bây giờ se thắt thêm mấy dấu chân chim đã mỏi. Ơ .. ơ ... có phải là ... ? Ồ ! Em ! Rồi vòng tay siết vội. Phút chốc, hương mùa yêu cũ. Tiếng cười nhẹ trên đôi môi đã thiếu phụ. Khóe mắt rươm rướm hồ như đọng một thoáng sương đêm. Rồi bỗng nhiên hiện tại nhòa đi. Rồi cả một quá khứ bỗng ùa về... Mấy chục năm trời biệt dạng. Một tích tắc, nguyên vẹn như thuở... ngày xưa.

 

Như vậy đó chúng ta gặp lại. Bất ngờ như mọi thứ tình cờ. Đêm còn lại toàn dấu tích.

 

Hai mươi lăm năm bỗng như chớp mắt. Tình yêu trở ngược mạnh như cơn gió dữ, thổi tan hết mọi ngại ngần.

Và rồi... nụ hôn không kềm giữ dưới chân bức tường đá, cũ từ đã trăm năm. Quá khứ trùng vây. Tương lai bất định. Mặc kệ. Ôi nụ hôn mang đôi cánh thiên thần đưa người ta vượt cõi trần gian tù ngục. Phút chốc mà thiên thu. Phút chốc thành định mệnh.

 

Ờ, tôi nghĩ em còn nhớ. Dù bây giờ chúng ta đã xa nhau như hai tinh cầu thất lạc. Xa đến nỗi khoảng cách không tính được bằng lời. Dù vậy làm sao mà quên được hả em. Những giây phút mà người ta chỉ sống một lần, trong một đời. Làm sao quên được em, dù trí nhớ là thói quen bạc bẽo nhất của con người. Năm ba năm, mười mươi năm, rồi bây giờ, những ngày tháng cuối, tôi vẫn còn nhớ. Dù như những chiếc lá khô rụng lả tả đã được xúc đi từng bựng. Kể cả những kỷ niệm và ngay cả những hối tíếc đã bị thời gian cuốn đi rồi lấp kín trong bóng tối thăm thẳm của lãng quên. Tôi nghĩ em vẫn còn nhớ. Cũng như tôi.

 

Mùa hè năm đó. Oh, je voudrais tant que tu te souviennes. Cả một thế giới mênh mông bỗng thu nhỏ lại. Giờ giấc nhập nhằng không còn định được bằng dấu mốc của thời gian. Mặt trời mặt trăng sông nước núi non góc đường nẻo phố, mọi thứ trở nên thừa thải. Chúng ta có cần đến đâu. Hoa lá cỏ cây dù đương lúc mãn khai cũng không còn sức quyến dụ. Mùa hè năm đó. Khi chúng ta có nhau. Khi chúng ta bên nhau. Sau hai mươi lăm năm bặt tung tăm tích. Mùa hè đó. Thời tiết mùa màng đã vì chúng ta mà rạng rỡ. Những lọn nắng vàng cứ tha thiết vờn lên mái tóc em ngoan. Những ngọn gió ấm từ phía nam thổi tới ve vuốt hoài hai bờ vai bỏ hở. Trong tay tôi, em phó mặc mọi điều. Trong nhau, chúng ta quên hết mọi thứ. Chiến tranh. Nghề nghiệp. Bổn phận. Trách nhiệm. Giáo điều. Hết thảy mọi thứ đã kéo dạt chúng ta ra hai phía suốt hai mươi lăm năm đằng đẳng. Chỉ còn tôi. Chỉ còn em. Chỉ còn chúng ta. Ôi mùa hè năm ấy.

Des jours heureux quand nous étions amis,

Dans ce temps là, la vie était plus belle,

.......................

Nous vivions, tous les deux ensemble,

Toi qui m'aimais, moi qui t'aimais.

 

Với nhau mọi thứ đều trở nên tuyệt vời. Em nhớ không. Có phải khi hạnh phúc người ta trở nên dễ tánh. Có nhau, người ta có cần gì hơn nữa đâu. Ngay cả miếng bánh chiên ăn vội bên lề đường. Ngay cả ngụm cà phê bán trong ly giấy, tay cầm, tay quàng lưng nhau vừa đi vừa uống, len lách qua đám đông mỗi bận xuống phố. Ngay cả căn phòng khách sạn nhỏ xíu như cái tổ chim tìm mướn vội vàng, khi trời hửng sáng bữa gặp lại, sau gần một đêm thức trắng đưa nhau lội lang thang qua những đường phố vắng tanh. Kể lể. Phân trần. Nhưng có cần đâu. Trong tận cùng cái góc kín nhất của lòng nhau, đã có bao giờ chúng ta mất nhau. Suốt đoạn trường đó. Bởi vậy khi gặp lại, hạnh phúc như chút bọt bèo vớt vát được sau cơn hồng thủy thành ra giản dị biết bao nhiêu. Giản dị đến độ nhỏ nhoi, đến gần như vô nghĩa. Chỉ cần sự có mặt của nhau đã là nguồn cơn hạnh phúc. Mùa hè đó, mọi thứ trở nên hoàn hảo. Ngay cả mặt trời dường như ấm hơn mọi khi. Làm sao không ấm hơn khi tình yêu luôn là ngọn lửa hừng hực, đốt cháy da thịt người trong suốt cuộc yêu đương.

Et le soleil plus brûlant qu'aujourd'hui

Em nghĩ coi. Có phải những câu hát đã nói giùm ta như vậy.

 

Làm sao quên hả em. Người đã yêu tôi thầm kín thời con gái, từ hai mươi lăm năm trước.

Làm sao biết được, thoáng yêu rồi... rồi mất biệt nhau luôn.

Dòng đời trôi xa. Em lưu lạc đâu đâu. Tôi xô dạt phương nào. Ai biết được. Vậy rồi, dưng không, chúng ta gặp lại nhau.

 

Thử hỏi, trong suốt khoảng thời gian thăm thẳm đó, có lần nào nghe ngóng được chút tăm hơi. Vậy mà gặp lại rồi, y như mới hôm qua hôm kia. Y như 4 giờ sáng bữa mới vào xuân, chuyến xe liên tỉnh, đèn ngoại ô vàng không giấu được nét hốt hoảng trong mắt nhìn bỗng dưng thất lạc, bàn tay níu không muốn rời như dự cảm một hiểm họa chực chờ, buổi sáng em đưa tôi về quê. Rồi tai ương ụp xuống. Rồi quốc lộ bị cắt đứt. Rồi tù tội. Rồi biển xa. Rồi thôi. Rồi thôi. Dẫu vậy làm sao người ta cắt đứt được một thứ không thể cắt đứt. Sau hai mươi lăm năm. Mọi thứ vụt nối lại như chưa từng bị bứt rời.

 

Dù hai mươi lăm năm có ngắn đâu em. Hai mươi lăm năm dài lắm, dài đằng đẳng. Dài đến nỗi em đã là thiếu phụ. Nghĩ cho cùng hai chữ thiếu phụ buồn lắm em. Tôi có muốn nghĩ tới đâu mà rồi cứ phải đắn đo, mỗi lượt gặp nhau.

 

Trong tình yêu, có chi mà trách cứ. Người ta tìm đến nhau, đâu có ai mời gọi ai, đâu có ai kéo níu ai. Trong tình yêu, người ta tìm đến nhau rất tình cờ. Tình cờ như hằng hà sa số lần gặp gỡ trong cõi đời nghìn muôn vạn nẻo này. Rồi người ta xa nhau. Cũng tình cờ như hằng hà sa số chuyện đổ vở kể từ khi người ta biết yêu nhau.

Làm sao người ta dự đoán được sẽ gặp nhau, rồi yêu nhau, rồi xa nhau... buổi sáng mai, lúc chiều xuống, giữa khuya hôm... đầu mùa xuân, bữa cuối thu hay ngay giữa ngày đông mà ai cũng cần một vòng tay ấm...

Tất cả rồi chỉ là trò chơi của định mệnh. Và con người, con người rồi ra chỉ là những chiếc lá rơi trong vòng xoáy của cơn gió vô tình...

 

Mặc kệ những hẹn thề hay bội ước, bất kể sắt son hay ruồng rẫy, cho dù thắm thiết hay lạt lẽo, rồi hạnh phúc hay khổ đau, tất cả, tất cả cũng chỉ là hai mặt của một đồng tiền đang quay tròn, quay tròn hết sức mình. Sấp. Ngửa. Sẽ đến lúc, một lúc nào đó, vòng quay phải ngừng lại. Và tất cả, những người yêu nhau, và tôi và em, ai có phần nấy ...

 

Dẫu vậy, em thấy đó, làm sao tôi có thể quên...

Tu vois je n'ai pas oublié.

( dù như ) vô số những chiếc lá chết được xúc đổ đi,

Les feuilles mortes se ramassent à la pelle,

những kỷ niệm yêu dấu của chúng ta, ngay cho dù là những tiếc nuối

Les souvenirs et les regrets aussi,

cũng sẽ bị gió từ phương bắc thổi về cuốn đi

Et le vent du nord les emporte,

chôn kín hết vào bóng tối lạnh lùng của quên lãng

Dans la nuit froide de l'oubli.

Vâng, tôi có quên đâu. Nhưng dẫu vậy, tôi có giữ lại được gì khi đời sống như biển lạ. Và những tình cờ như những con sóng vô tình cứ vổ vật vờ lên bờ bãi đời ta. Mọi thứ rồi chỉ là bọt bèo trôi tắp theo đẩy đưa bất định của dòng đời miên viễn... không khởi đầu cũng chẳng chung cuộc. Ai nói được sẽ ra sao... ngày sau ! Bởi vậy oán trách gì nhau khi hạnh phúc đã chứa sẵn mầm thiên tai. Trong tái ngộ đã hiển hiện lần ly biệt. Đã có lần Nguyễn Đình Toàn và Vũ Thành An nhắc nhở... ngày thần tiên em bước lên ngôi, đã nghe son vàng tả tơi...Tại chúng ta quàng vai đun đẩy nhau vào khu vườn cấm ... Ôi những cánh dơi mù lòa ... đáng thương. Và đáng trách ? Không, tại sao ... Tại sao oán trách khi yêu đương đã là viên đá mà lời sấm rủa đã bắt Sisyphe phải lăn lên tới chót đỉnh trong khi cái chỗ của nó là ở dưới chân núi. Bởi vậy khổ dịch của Sisyphe có phải là số phận của những tình nhân yêu thương nhau trong tuyệt vọng. Như... tôi và em. Không gặp. Đời có gì vui. Gặp. Đời như nhắp chút rượu thơm rồi dư vị đắng chát cặn lại không thôi. Nhịp đời nặng thê thiết như một điếu khúc được phát ra từ một đĩa hát cũ được quay đi quay lại. Đã dặn em đừng chờ đừng đợi. Nhưng sao vẫn cứ chờ cứ đợi. Đã nhắc tôi đừng đợi. Nhưng sao vẫn cứ đợi cứ chờ. Ôi những cánh dơi mù lòa ... Bởi vậy, gặp lại rồi, rồi lại phải xa nhau. Xa nhau mãi. Mãi mãi.

Tu vois, je n'ai pas oublié,

Em thấy đó, tôi đâu có quên

La chanson que tu me chantais...

Bài ca em đã hát cho tôi nghe

C'est une chanson, qui nous ressemble,

Khúc hát giống hệt như chúng ta

Toi qui m'aimais, moi qui t'aimais.

Em, người đã yêu tôi, và tôi, đã yêu em

Nous vivions, tous les deux ensemble,

Chúng ta, cả hai chỉ là một.

 

Dẫu vậy em thấy đó, tôi có quên đâu. Những gặp gỡ len lách. Những hẹn hò tránh né. Những kỷ niệm. Bài hát lần nào em đã ru tôi giữa gối chăn xô lệch. Thần tiên gảy cánh đêm xuân. Bước lạc sa xuống trần. Thành tình nhân đứng giữa trời không. Khóc mộng thiên đường. Câu thơ nào tôi đã viết lên bóng tối từng trang thương nhớ sau những ngụm rượu đắng từng đêm. Ta sẽ chờ nhau giữa mịt mùng. Khi ngày mất tích đêm thất tung. Khi năm khánh kiệt đời tuyệt tận. Em bồ tát khóc lệ bao dung. Và còn bao nhiêu trang chữ chưa bao giờ viết ra. Mà làm sao viết ra cho hết, nỗi lòng tôi, tâm sự em. Tình yêu trễ muộn của chúng ta. Dù ngay từ lần đầu tiên gặp lại, làm sao chúng ta không biết, con đường chúng ta đi sẽ là con đường khổ nạn. Và em, em sẽ là người mang đội vòng gai. Con đường em đi sỏi đá, đồi Golgotha dốc ngược, chân trần, em dang thân gánh tội để đền tôi. Làm sao đây em, làm sao nói được hết, uẩn khúc em, oan nghiệt tôi. Đời bủa vây giữa trùng trùng oan trái. Và chúng ta, ôi những cánh dơi mù, bay chập choạng giữa mịt mùng cạm bẫy. Hạnh phúc giương tay đón gọi rồi xô giạt người tới phũ phàng. Hạnh phúc rót mời từng ly rượu ngọt pha dậm cường toan. Rượu càng nhắp càng say, độc dược càng ngấm. Từng ngày qua, từng đêm tới. Mỗi một ngụm tình là một tự hủy. Càng lúc chúng ta càng hốt hoảng khi tình yêu và cuộc đời như hai mặt của một lời chúc dữ. Người ta chỉ được chọn lựa một trong hai. Không bao giờ được cả đôi. Đó có phải là thân phận bất toàn của chúng ta, con vật người trần trụi và hèn mọn trước quyền lực của siêu nhiên... Em thấy đó. Tình yêu của chúng ta, thứ của cải vô giá của chúng ta, có đáng gì đâu so với sức tàn phá mãnh liệt của thời gian, ép uổng của định mệnh, xô đẩy bất chấp bởi những tình cờ chẳng ai ngờ được. Chúng ta sống chết, thù hận hay yêu đương, hạnh phúc hay đau khổ cho đến gặp gỡ hay biệt ly... cũng chỉ là cười khóc múa may như những hình nhân vô tích sự. Mình có quyết định được gì cho số phận của mình đâu. Tôi. Em. Đã có ai chờ đợi ai như chúng ta đã chờ đợi nhau. Đã có ai tặng cho nhau nỗi đắm say, niềm quyến luyến... và nhất là tiếng cười lanh lảnh của tuổi trẻ tìm lại được từ sau những mất mát vì thời cuộc như chúng ta đã tặng cho nhau. Vậy mà, em ơi, rồi cũng có mấy ai được may mắn như gã Thôi Giao trong tích xưa. Hầu môn nhất nhập thâm như hải. Tòng thử Tiêu Lang thị lộ nhân. Có phải đã một lần bước chệch khỏi đời nhau là mãi mãi như hai tinh cầu đã bay lệch vào hai hướng khác nhau. Chuyện sum hợp chẳng qua chỉ là một thứ huyền thoại để tự vỗ về của những tâm hồn đã hơn một lần tuyệt vọng. Mùa hè năm đó qua đi, dòng đời quay trở lại cái vòng quay bất tuyệt của nó. Và chúng ta, chúng ta như hai viên sỏi bọt bèo bị bắn văng ra hai hướng bởi cái sức ly tâm tàn nhẫn của đời sống với mọi thứ định chế từ đã ngàn đời. Tội nghiệp em. Tội nghiệp tôi. Chúng ta yêu quý nhau biết bao nhiêu. Chúng ta mê đắm nhau biết bao nhiêu. Vậy mà ...

Toi qui m'aimais, moi qui t'aimais.

Cuộc đời cắt chúng ta ra làm hai mảnh, ném đi hai ngã không chút nương tay. Cuộc đời xô chúng ta ra hai hướng chẳng thèm chút ngó ngàng. Chia đôi một cặp tình nhân đắm đuối như phủi một hạt bụi váng vất chẳng làm cau một nét mày.

Et la vie sépare ceux qui s'aiment,

Tout doucement, sans faire de bruit.

Đành đoạn.

 

Nghe lại đi em, một lần nữa, đoạn cuối của bài nhạc, tiếng kèn đồng vút lên rồi chùi xuống thê thiết, như muốn dìm sâu hết mọi dấu tích tình nhân vào mớ dư âm đang dần dần lịm tắt. Mọi dấu vết, kể cả những kỷ niệm cho dù nhạt nhẽo nhất vẫn không thoát khỏi những lượn sóng thời gian xô dạt vào quên lãng... Như sóng biển cứ xóa hoài những vết chân trên cát, những dấu chân sóng đôi đã dìu nhau qua đó, một lần nào ...

Et la mer efface sur le sable,

Les pas des amants désunis.

Rồi còn lại gì, còn lại gì đâu, những mắt rủ môi mời, những ngọt lời đẹp ý, những nhắc nhở nôn nao, những đổi trao tha thiết, những đắp đổi đền bù, và ... và những tay quíu chân kềm khi đêm mê đắm vở òa hạnh phúc ... Còn gì đâu ... có còn lại gì đâu ...

 

Dẫu vậy, như đã tự hứa với chính mình, tôi sẽ giữ mãi trong tôi, dù chỉ là những hình ảnh, dù chỉ là những vang bóng của mùa hè năm ấy, khi tay trong tay, chúng ta đi những bước thênh thang ngay trên con đường thập giá, giữa những nguyền rủa của số mệnh và bây giờ giữa những tang thương sót lại sau những mất mát không thế nào, không có gì, bù đắp lại được. Nhen em, lời tôi kể lể nghe ra như một tiếng thở dài hơn là một điều than oán. Như chính bài hát cũ. Chỉ là một tiếng thở dài. Rất lặng lẽ. Không một trách móc. Chẳng một oán hờn.

 

...............................

 

Em biết không, câu kết của bài thơ, dù không được nhắc đến trong bài hát, vẫn là một lời hứa, dù chỉ là ... hứa với chính mình

Et la chanson que tu chantais

Toujours, toujours je l'entendrai!

Và bài ca em đã hát cho tôi nghe lần nào, tôi còn nhớ...

... hoài hoài!

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

* từ đó đến nay, bài hát đã được trình diễn hơn 600 cách thức khác nhau. Bài nhắc ở đây là phiên khúc do Yves Montands hát từ những năm 50

____________________

CaoViKhanh_name.JPG
CVK_thangchinmuathu.JPG

                                Tháng chín, mùa thu...

                                         ... Ở hai đầu nỗi nhớ!

 

 

 

Tháng chín. Tháng của rỉ rả mưa đêm, của lả chả cánh phượng và hiu hiu mùa chuyển.

Tháng chín. Tháng của líu ríu chim sẻ rủ nhau bỏ đi và xôn xao học trò xôn xao rủ rê trở lại.

Tháng chín ... khi lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc...

Tháng chín bây giờ, xứ lạ đã thành quen và tháng chín hồi đó, rất quen mà như chừng đã lạ.

Tháng chín ở một thành phố nhỏ, giữa miền Nam nắng cháy mưa lầy, nơi tôi đã sống lụy như tình nhân và tấm tức bỏ đi như người bị ruồng rẫy.

Tháng chín ở đó với không biết bao nhiêu là kỷ niệm của những mùa thu giả tưởng. Lá thư tình ngây ngô viết vội cuối tháng sáu khi trường học sắp đóng cửa và cô bạn mắt-nai-tóc-thề sắp sửa hành lý về quê. Trời nắng rực sửa soạn vào hè mà quýnh quáng quơ vội quơ vàng phong vị mùa thu vào trang giấy học trò để tả tình tả oán về nỗi nhớ-thương-học-lóm của chim xa-bầy-thương-cây-nhớ-cội. Cũng chẳng nhớ rồi lá thơ nhét trong tập sách cho mượn có nhận được hồi âm ? Mà điều có cần đâu. Cái thuở bạ đâu thích đó, có biết vân mồng gì đâu cái-gọi-là-tình-yêu.

Ôi những mùa-thu-giả-bộ ở cái tỉnh nhỏ êm đềm, sớm chiều như ngái ngủ. Thời tiết chuyển mùa mơ hồ như có như không. Nắng rồi mưa, mưa rồi nắng. Vậy mà lòng con trai mới lớn cứ phiêu bồng như lãng tử chạy đuổi theo mùa màng cho được. Thật ra có gì khác lạ đâu ở bên ngoài lòng người. Nhiều lắm là chút khang khác giữa cái nóng hừng hực và cái nóng hâm hấp, màu xanh rì của tàng lá xum xuê và màu xanh thoang thoáng của chùm lá non mới trổ. Vậy mà mỗi lượt nghe ai đó cất giọng rầu rĩ thu-đi-cho-lá-vàng rơi ... là bụng dạ lại cứ nao nao ... làm như nghe được cả tiếng chân thu đang chuyển dịch sẽ sàng. Chỉ tại cái lòng quá mơ mộng. Hay tại vì nhịp mùa có chuyển cũng chuyển từ trong tâm tưởng. Trời đất thay đổi rất vô tình. Tại mình tiếp tay với trời đất cho nên mùa màng mới có chuyện. Xứ sở đâu có bốn mùa vẫn cứ cố bày ra cho được. Trời miền Nam quanh năm suốt tháng nắng nướng dòn da mà cái đầu thì cứ mê muội bày đặt đủ thứ tứ thời tám tiết. Hết xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi đến anh vẫn thấy em ngồi đây tóc ngắn mà mùa thu dài lắm ở chung quanh ... Mình lợi dụng trời đất vào tình riêng riết rồi lậm lúc nào không hay. Đến nỗi hể nghe xuân tới là cứ rậm rật hy vọng mà nghe tin thu về thì lại đâm ra buồn ngẩn buồn ngơ, buồn tới lơ ngơ cả ngày.

Truy cho ra nguyên ủy, chắc cũng đã xa lăm lắm, đâu từ đời Đường đời Tống bên Tàu, có thể gần hơn một chút thì Lamartine với Chateaubriand bên Tây. Gần hơn chút nữa thì cũng cỡ những năm 20 khi bà Tương Phố viết Giọt lệ thu buồn đến ngất ngư làm cái đám sanh sau đẻ muộn lỡ học phải rồi cũng đâm ra sầu thu đến chảy nước mắt, từ đó. Ai biểu.

 

Vài chục năm sau, ở một thành phố nằm trên vĩ độ 45 bắc, đột nhiên giữa một buổi chiều cuối tháng chín, tôi thấy mùa thu thật sự trở lại. Đúng ra chắc cũng đã rục rịch từ nhiều ngày trước mà không ai hay, từ bên kia dãy núi chắn ngang phía bắc thành phố. Ở đó rừng núi mênh mông, cây lá mênh mông, mặc tình cho trời đất xun xoe làm dáng. Ở đó, trên những chỏm núi ngất ngưởng cao đã thấy quầng thâm những ngụm mây xám. Và ở đó, chắc cây lá cũng đã len lén đổi màu từ khi mặt trời cứ bỏ đi ngủ sớm. Ở dưới này, giữa lòng phố, ngày đã ngắn lại đâu từ giữa tháng, mỗi ngày một chút. Và gió cũng đã đổi hướng, mỗi lúc một lạnh. Lòng người ta bén nhạy còn hơn đài khí tượng, đánh hơi mùa từ khi máy móc chưa kịp tính toán xong.

Vậy đó, một buổi chiều cuối tháng chín, tôi bỗng thấy mùa thu trở lại. Mặc dù mùa hè còn nấn níu chưa chịu bỏ đi.

 

Bắt đầu là một cơn gió lạ. Cũng không biết từ đâu thổi tới. Chỉ biết khi tôi thấy thì nó đã ra tới giữa lòng đường. Lúc đó đâu khoảng giờ cơm chiều nên lòng đường trống trơn, duổi dài như một cánh tay buông xuôi sau khi đã vật vã mệt nhoài với mớ xe cộ hối hả qua lại lúc nãy, khi tan sở. Mặt đường xám ngắt, lì lì giữa hai hàng cây im sững. Cơn gió lách tới bất ngờ, qượn qua qượn lại một chút rồi bốc thẳng lên, mang theo nhúm bụi mờ và một chiếc lá vàng nằm sẵn đó tự hồi nào, thổi ngược vào lề thả lá bay vất vưởng một đổi rồi bỏ mặc chiếc lá khô nằm chết bên cạnh về tường nứt nẻ. Cơn gió bỏ đi để lại chút gay gay lạnh trên cánh tay trần của người khách bộ hành vừa trờ tới. Một chút động đậy thôi trong một giờ chiều rất tịnh, bỗng nhiên làm quậy lên lao xao một cái gì rất lạ. Một cái gì rất mơ hồ, nhẹ hửng, chẳng đâu ra đâu vậy mà như đủ sức khều dậy giữa lòng người một ý niệm, hay đúng hơn, một ấn tượng ... Ngô đồng nhất diệp lạc. Thiên hạ cộng tri thu.

 

Vậy rồi đâm ra buồn ngang buồn ngửa, buồn ngất trên vai áo theo kiểu của thi sĩ du tử họ Lê.

Mà buồn cái gì ? Mùa thu ở vùng đông bắc Mỹ châu này rồi sẽ đẹp gần chết mà buồn nỗi gì. Trời hanh nắng, gió hiu hiu lạnh, khoác hờ chiếc áo dạ đen bỏ hở hàng nút, kéo cao cổ áo phủ ót, một tay đút túi, một tay quơ quơ hốt nắm sương la đà, thả cho đôi chân lang thang, rồi học đòi Hồ Dzếnh nhớ nhà châm điếu thuốc khói huyền bay lên cây là hết sẩy. Nhất là ngay lúc đó, trời đất đang rục rịch chuyển mình. Lá xanh không còn xanh nữa. Ngàn lá, triệu lá, triệu triệu chiếc lá như có hẹn tự bao giờ rủ nhau thay sắc. Xanh vàng tím đỏ rồi xanh xanh vàng vàng tim tím đo đỏ. Rồi nâu, rồi nâu nâu. Rồi cả những sắc màu pha trộn không gọi được tên lao xao dưới nắng thu trong như hổ phách. Dẫu có loạn thị cách mấy cũng phải chịu là đẹp. Vậy tại sao lại còn đòi buồn đòi tủi !?

 

Ờ ... thì đẹp. Mà điều cái đẹp là cái bây giờ, ở đây. Còn cái buồn là cái hồi đó, còn vận đến chừng này, trong tâm tưởng.

 

Ngoài hiên giọt mưa thu thánh thót rơi. Trời lắng u buồn mây hắt hiu ngừng trôi. Nghe gió thoảng mơ hồ trong mưa thu, ai khóc ai than hờ ...

Đố ai đã từng nghe Giọt mưa thu của Đặng Thế Phong một lần mà không thấy bùi ngùi tới xót ruột. Nhất là ở cái thời mới lớn. Lạ lắm. Tình buồn, nếu có là của riêng người nhạc sĩ. Ông sống cái mùa thu của ông ở đâu tận ngoài bắc xa mù mà rồi qua mấy nốt nhạc ông xô ùa cái mùa thu chưa từng đó vào lòng đám trẻ mới lớn ở miền Nam cái một. Từ đó, ở miền Nam có một mùa thu.

Rồi suốt dọc theo thời tiền chiến, cái mốt mới gọi là lãng mạn theo ông Tây đổ dập sang, cuốn theo không biết bao nhiêu là hồn thi văn nhân nhạc sĩ kèm theo đó là cái mớ độc giả khán thính giả bị “lây lan”. Khỏi nói lãng mạn với mùa thu là một cặp bài trùng anh-đâu-em-đó. Đã lãng mạn thì chạy đâu cũng không khỏi mùa thu.

Đoàn Chuẩn-Từ Linh. Lá đổ muôn chiều. Thu đi cho lá vàng rơi. Lá rơi cho đám cưới về. Người em nhỏ bé ngồi trong thuyền hoa tình duyên đành dứt ... Cưới hồi nào không cưới đợi ngay tới cái lúc thu-đi-cho-lá-vàng-rơi rồi hè nhau bỏ bến cũ ôm tinh sang thuyền khác. Cứ như vậy đó hỏi làm sao mùa thu không tạo ra những cõi-lòng-mít-ướt.

Rồi dọc theo cái thời tập tành làm người lớn, chập chững chân trong chân ngoài con đường tình ái hẵn là không biết bao nhiêu mùa thu nữa lãng đãng theo mấy nốt nhạc làm phông cho chàng trẻ tuổi thả trái tim mình ba chìm bảy nổi theo mấy dòng tóc mây thu. Dĩ nhiên là chắc chìm nhiều hơn nổi cho nên rốt lại cứ nghe tới thu là đâm ra rầu miết.

 

Đến khi Phạm Duy đem nhạc phổ thơ Adieu * của Apollinaire thì ôi thôi chắc mẻm thu ơi thu sao mà buồn lắm vậy. Em ngắt đi một cùm hoa thạch thảo. Em biết cho mùa thu đã chết rồi ... Mùa thu đã chết ...

Adieu của Apollinaire vỏn vẹn có năm câu, nhắc đến chuyện chết của mùa thu một lần. Rồi báo động chuyện người ta sẽ không còn gặp nhau trên mặt đất này nữa mới là hệ lụy. Nhưng rồi khi phổ nhạc, chắc do điều kiện hoà âm phối khí gì đó tôi mù tịt, bài nhạc phổ thơ cứ kêu rêu làm như mùa thu chết đi chết lại tới năm lần ... bởi vậy mà nghe tới nghe lui, phòng trà quán nhạc tiệm kem vũ trường nào cũng in hệt một lời cáo phó của mùa thu ... Mùa thu đã chết ...ngon ơ. Chết thì buồn là cái chắc.

 

Thêm nữa, hồi đó, những năm sáu mươi bảy mươi, mấy ông nhạc sĩ tài hoa của chúng ta hẵn cũng rất lậm mùa thu. Chuyện gì không biết, mà hể nhắc tới tình lở tình trễ tình phụ tình hờn ... là thẳng tay kéo mùa thu vào cho được. Làm như thất tình vào mùa thu thì rõ chắc là thất tình, không có cải chối gì được. Nghe thử một bài cũng rất thịnh hành hồi đó coi. Y chang. Biệt xứ hồi nào hổng biết, mà khi trở lại phố xưa tìm về dĩ vãng là chàng nhớ lại chuyện dang dở của mình : nàng đi lấy chồng cũng vào một ngày mùa thu. Điệp khúc ** nhắc rằng ... thu đến thu đi cho lá vàng nhẹ rơi, em theo bước vè nhà ai ... Cũng lại mùa ... thu ! Thu buồn thu khổ thu sầu thu tủi thu hờn thu hận ... trăm chuyện đổ đầu thu. Ngay cả có khi đã bỏ nước ra đi, lang thang tuốt đâu bên Paris long lánh ánh sáng mà cũng không thoát khỏi cái mùa thu ảm đạm này.

Phạm Trọng Cầu. Em ra đi mùa thu. Mùa thu không trở lại. Em ra đi mùa thu. Sương mù giăng âm u. .. Ngày em đi nghe chơi vơi não nề qua vườn Luxembourg ...

Thiệt là chạy-trời-không-khỏi-nắng ... thu !

 

Mà đâu chỉ vậy thôi. Nhạc đã vậy, còn văn thơ thì khỏi nói. Trong một chục bài văn thu với thơ thu thì đã có tới chín mươi chín phần trăm nói về thu buồn thu khổ thu sầu thu tủi thu hờn thu hận ... thu nước mắt ngắn nước mắt dài ... ( đến nỗi mới nghe tới hơi thu là đã ngửi ngay ra mùi ẩm mốc, dầu rằng thiếu chi ngày thu khô ráo )

Hãy nghe bà Tương Phố ở cái thời mà tâm sự đàn bà còn giấu kín hơn cả giấu hột xoàn cũng đã đem thu ra than van thảm thiết ... về với anh mùa thu, tiễn đưa anh mùa thu, mất anh cũng lại mùa thu, cho nên mỗi năm cứ đến độ thu sang thì em lại bồi hồi nhớ trước tưởng xưa mà lòng thu một tấm cũng ngây ngất sầu ... thì đến đá tảng khi đụng tới mùa thu cũng phải rã rời nói chi trái tim con trai mới lớn mềm còn hơn mấy sợi bún thiu.

Tới ông Tản Đà, thì thu thiệt tình là buồn đến hết nói. Trận gió thu phong rụng lá hồng. Lá rơi tường bắc lá sang đông. Hồng bay mấy lá năm hồ hết. Thơ thẩn kìa ai vẫn đứng không. Đâu mà toàn là chuyện trắc trở với lại phòng không chiếc bóng. Nghe mà nhảo cả người.

Rồi Nguyễn Bính giang hồ rất mực, ra bắc vào nam như cơm bữa mà lại cũng chọn cho được ngay mùa thu để thất tình. Tôi về gom hết ba thu lại. Đốt hết cho cô khỏi thẹn lời.

 

Thậm chí ngay cái hồi chưa có chữ viết, chỉ mới bịa chuyện bằng môi miếng kể cho con nít nghe cho ... vui mà rồi cũng hổng ̣được vui trọn. Tại vậy mà mới nứt mắt ra là ngốn không biết bao nhiêu chuyện tình có oan gia với mùa thu. Mở đầu là câu chuyện của anh chàng chăn trâu Ngưu Lang với cô nàng dệt vải Chức Nữ. Yêu chi mà yêu khổ. Yêu chi mà một năm ba trăm sáu mươi lăm ngày chỉ cho gặp nhau có mỗi một lần. Mà rồi còn phải cậy nhờ bầy chim ô thước nối cánh bắt cầu cho qua sông Ngân tái ngộ. Đêm mùng bảy tháng bảy. Khóc mừng hay khóc tủi mà lụt lội trần gian.

Gió xa xôi vẫn về

Mưa giăng mù lê thê

Đến bao năm nữa trời ...

... Vợ chồng Ngâu thôi khóc vì thu ***

.....................................

Mà thôi, tàm tạm vậy đi, chớ mà lục cho hết trong mớ văn thơ năm châu bốn biển hổng chừng có gom hết ba cái khăn tay khăn tắm khăn quàng trong nhà cũng không đủ lau khô hết mấy hàng nước mắt.

 

Kể ra thì cũng oan ức cho cái mùa thứ ba của trời đất. Mùa nào không lấy cứ đè mùa thu ra mà gán ép cho bao nhiêu là oái oăm oan trái thất bát ái tình. Hổng phụ tình thì cũng tình phụ. Hổng dở dang thì cũng dang dở. Bộ yêu nhau rồi phụ nhau vào mùa xuân không được sao ? Hay mùa hè ? Hay mùa đông ? Mà cũng kỳ thiệt. Thiên hạ yêu nhau hồi nào đâu không biết mà hể tới lúc chia tay rẻ rúng rẫy ruồng em về lấy chồng anh đi hỏi vợ là cứ kéo cho được mùa thu ra làm cảnh và làm chứng. Cả cái cô Thúy Kiều và ông thương gia Thúc Sinh cũng cùng một điệu. Người lên ngựa kẻ chia bào. Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.

Riết rồi ai nấy cứ khăng khăng là mùa thu thì phải buồn, cho dẫu tôi-buồn-không-biết-vì-sao-tôi-buồn, mùa thu là phải nhớ, dẫu là nhớ vơ nhớ vẩn hay là nhớ có nơi có chỗ, nhớ độc chiếc hay là nhớ song phương, nhớ tam giác hay ngũ lục giác gì cũng được. Miễn là có buồn, có nhớ cho ra điệu ... thu sầu. Mùa thu thưa nắng gió mang niềm nhớ ... (****)

 

Bởi vậy, dẫu đâu có ai xúi biểu, mà rồi dù muốn hay không, thì ở đây, nơi mùa thu được coi là lộng lẫy nhất trần gian, khách tha hương cứ cảm thấy ... sao á, có cái gì như nghèn nghẹn, có chút gì như quá đáng mà lại như thiêu thiếu, thiếu chút thân quen. Xứ người, mùa thu chín rộ đẹp toàn bích như một thứ hạnh phúc thừa thải càng làm thắc thỏm lòng khi nhớ về cái chỗ đã bỏ đi sao mà chắt chiu toàn khổ hạnh. Làm như rốt lại, vài ba mươi năm rồi vẫn nguyên hình ... khách lạ ! Ăn ở nơi đất người mà vui buồn thì cứ vui buồn tận ở quê xưa !

 

Bởi vậy mà nên nỗi. Giữa khi trời đất trổ vàng hực hở thì lòng người bỗng chùng xuống, tối mịt những kỷ niệm. Mà kỷ niệm thì không vui. Kỷ niệm chỉ có buồn thôi vì kỷ niệm là cái đã mất. Giống như mùa thu chỉ để buồn thôi vì mùa thu chỉ là sự gắng gượng làm vui của trời đất khi sắp lịm vào cơn mê thiếp, khi âm phong sắp sửa trở mình thổi trắng cõi nhân gian ...

 

Dẫu vậy, nói ra cũng kỳ. Ở đậu xứ người mà không chịu vui với người. Người ta tung hô sự huyền diệu của thiên nhiên. Người ta đưa nhau lên núi, đưa nhau vào rừng, dắt nhau đi trên những lối mòn đã mất dấu dưới mấy lớp lá thay mùa, phủi cho nhau chiếc lá đỏ bám đầu vai, gở cho nhau chiếc lá tím vướng tóc, mời nhau nếm chút ngọt ngào của rượu nho đã ủ kín từ cuối mùa thu trước ... Cả một hoạt cảnh vừa thơ mộng vừa tình tứ vừa hoạt náo vừa êm đềm cứ diển ra hằng ngày suốt một mùa thu năm này qua năm khác.. Người ta rủ nhau đàn ca múa hát từ đồi cao đến phố thấp. Và lê la lề đường tới đêm hôm khuya khoắc như muốn kéo dài thêm khúc hoan ca của cây lá. Người ta thay nhau tổ chức hết lễ lá đến lễ màu. Vậy mà sao giữa lòng mình chỉ có mỗi một lễ duy nhất. Lễ nhớ. Mà hể nhớ thì buồn. Mà đã buồn thì lại nhớ. Tại cái mùa thu đó, nó gợi nhớ. Hay tại mình, mình không chịu quên.

 

Không dưng mà lại nhớ đến một câu trong bài tùy bút của Đinh Hùng viết đâu đã vài ba mươi năm trước về một mùa thu trở lại. Lâu quá đã quên gần hết. - Ờ mà sao lại không quên luôn. Lại nhớ chi loáng thoáng, vài ba hàng, đôi mươi chữ để cứ khượi lại những vết tích đã mờ ... Nắng ở đây vẫn là nắng ấm ngày xưa và linh hồn tôi vẫn là linh hồn tôi năm trước. Tôi đem lòng về để gặp lại mùa thu thương nhớ cũ ...

Ờ linh hồn tôi vẫn là linh hồn tôi năm trước. Năm nảo năm nao. Mà có cần và có thể xác định một thời điểm chính xác trong cái chuổi nhớ thương dằng dặc đó. Năm nào mà chẳng được. Khi đã là quá khứ thì ngày tháng cũng mù sương. Trí nhớ chập chùng. Kỷ niệm thì trùng điệp. Nhưng vẫn có đó. Đôi khi lộn đầu lộn đuôi. Nhưng có cần không một thời biểu rõ ràng cho mớ hình sương bóng khói.

 

Mùa thu. Mùa của năm học bắt đầu. Những buổi tựu trường. Tiếng trống giục giã. Áo trắng quần xanh. Tóc rẽ bảy ba. Sách vở, viết mực, hàng chữ nắn nót. Rồi phấn trắng bảng đen, thi cử, ly cà phê đen trắng mắt, lá thư tình thứ nhất.

 

Mùa thu. Mùa của tụ năm tụ bảy. Của góc phố đứng đường. Của hơi thuốc lá tập tành. Của lê la quán xá.

 

Mùa thu. Mùa của trăng đêm hò hẹn. Của giận hờn. Của xin lỗi. Của vụn dại dễ thương. Của lầm lỡ.. cố ý.

 

Mùa thu. Mùa của đưa người qua bên kia bờ Mỹ Thuận, trở ngược về nhớ Tống Biệt hành của Thâm Tâm. Đưa người ta không đưa qua sông...

 

Mùa thu. Mùa của chia tay giữa đường khi trời đông bắc mới sang thu. Gió sớm lung lay mấy sợi nắng mai làm biển lá đổi màu, lung linh như tranh tân ấn tượng của George Seurat. Sót một nụ hôn từ biệt làm đường xa thêm vạn dặm. Quanh co rừng núi sông hồ, đèo mây dốc đá, phố xá ngái ngủ và làng mạc còn thiêm thiếp, con đường lạc giữa sương thu, tôi về chạy giữa mùa thu lạc người.

 

Mùa thu. Mùa của sinh ly tử biệt. Của cửa sông đen ngòm. Của ngọn đuốc lập lòe. Của bỏ cha bỏ mẹ, bỏ bầy bỏ bạn, bỏ nước bỏ quê.

 

Mùa thu. Mùa của điêu tàn. Của nát tan. Của khúc ruột đứt lìa. Của ngón tay vuột mất.

 

Ôi mùa thu thương khó từ trong tâm thức. Có nhớ có thương năm nay thì cũng chỉ là nối tiếp cái thói quen thương nhớ từ năm kia năm kìa. Mà sao cứ nhớ thương hoài vậy. Rồi không chừng lại nhớ tiếp luôn tới năm sau, năm sau nữa. Bộ khoảng giữa của hai đầu thương nhớ nó nhủn nhẳn nhùn nhằn như cao su vậy sao mà kéo dài tới chừng nào cũng được.

Bộ chỉ có trí nhớ là đức tính cần thiết và dai dẳng đến vậy sao ?

 

Còn đến chừng nào thì lãng quên sẽ là đức tính cần thiết hơn nữa ?

 

                                                               Cao vị khanh

 

* - L’Adieu- Apollinaire

 

J’ai cueilli ce brin de bruyère

L’automne est morte souviens-t’en

Nous ne nous verrons plus sur terre

Odeur du temps brin de bruyère

Et souviens-toi que je t’attends

 

**- Xin gọi nhau là cố nhân. Song Ngọc

Tôi trở về đây lúc đêm vừa lên

Giăng mắt trời mưa phố xưa buồn tênh

Gót mòn tìm dư hương ngày xưa

Bao nhiêu kỷ niệm êm ái

Một tình yêu thoát trên tầm tay

.........

Điệp khúc

Thu đến thu đi cho lá vàng lại bay

Em theo bước về nhà ai

Ân tình xưa đã lỡ

Thời gian nào bôi xóa

Kỷ niệm đầu ai đành lòng quên?

*** Giọt mưa thu – Đặng Thế Phong

**** Lam Phương

____________________________

cvk_varoi.JPG

               và rồi ...

               ... những cuộc chia tay vĩnh viễn

 

Có lần tin đến muộn, rất muộn, nhưng dẫu sớm hơn cũng chẳng níu giữ được ai, họa sĩ Chóe tức Nguyễn Hải Chí vừa từ giã cõi đời. Những nét minh họa bén như dao khắc trên tuần báo Khởi Hành những năm 60-70 đã từng làm sửng sốt hơn một người xem.

Trước đó tin ca sĩ Duy Khánh qua đời. Tiếng hát trúc trắc của miền Trung trục trặc dẫu thích hay không vẫn rất thân quen trong cái sinh hoạt văn nghệ rất mực trăm-hoa-đua-nở của miền Nam ngay từ lúc bom đạn còn đương mù mịt.

Chừng đâu tháng trước nữa, ở Úc, điêu khắc gia Lê Bá Ðảng cũng bỏ đồng bỏ đá bỏ dao cọ mà đi...

 

Dẫu trước hay sau rồi cũng lần lượt bỏ đi, nhà văn Mai Thảo, nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên ... lâu hơn nữa những Việt Hùng kép đẹp của Ðầu xanh vương khổ hận, Hùng Cường kép mùi của Tướng cướp Bạch Hải Ðường, nhà văn kịch tác gia Vũ Khắc Khoan của Thần tháp rùa, nhạc sĩ Phạm Ðình Chương của Mộng dưới hoa, nhạc sĩ Trúc Phương mà ai đã có lần qua cổng một trung tâm nhập ngũ nào đó lại không nhớ thứ ngôn ngữ tình đặc biệt làm bằng dấu đôi tay, nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng với cái phát giác rụng rời ta nghiêng vai nghe lại cuộc đời thì hãi hùng hoàng hôn trờ tới, rồi Nguyên Sa của nắng Sài gòn anh đi mà chợt mát, rồi còn Lê Uyên Phương và Vũng lầy của chúng ta, rồi ở tận bên nhà Út Trà Ôn ông-cò-quận-chín, lâu lâu hơn nữa nhà thơ nhà báo Thanh Nam của Bài hành bốn mươi... Bao nhiêu tên tuổi của một thời đã lần lượt bỏ cuộc chơi mà đi mất... Và còn ai nữa... còn ai nữa...

 

Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ

Thử địa không dư hoàng hạc lâu

 

Cái mặt đất này rồi đến lúc trơ trụi như cái lầu hoàng hạc và ánh chiều tà của một ngày xa xứ sẽ đìu hiu biết bao nhiêu...

 

Có những tên tuổi rất quen và còn bao nhiêu tên tuổi không quen biết, đã đến rồi đi, giữa cơn trường hận này...

 

Hơn ba mươi mấy năm trước, giựt mình bỏ chạy, có mấy người liệu được ngày gởi thây đất khách. Vậy mà ngày về rồi xa lắc xa lơ... Rồi tuổi tác, rồi bệnh hoạn, rồi gói mộng mà đi...

 

Cái chuyện người nhắm mắt xuôi tay cũng thường như cái chuyện người mở mắt chào đời, hằng hà sa số, ai hơi đâu mà kể lể. Có họa chăng mấy kẻ thân thích hoặc khóc hoặc cười... Mà điều, trong cái hoàn cảnh dở khóc dở cười của tôi, của anh của chị, của những người nửa đời nửa đoạn sao nghe ra cứ thấy ... ngậm ngùi. Có một cái gì đó đã qua đi, đang qua đi và sẽ qua đi mất... Cái gì đó là cái thời của chúng ta liền với một khoảnh đất, dù vinh quang hay tủi nhục, vẫn là suốt một thời chúng ta đã góp mặt, cùng khóc cười theo vận nước nổi trôi.

 

Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ

Cô chu nhất hệ cố viên tâm.

 

Giọt nước mắt ngày nào. Tấm lòng vườn cũ. Chữ của Đỗ-Phủ-lưu-lạc đôi khi mới thoáng nhớ đã nghe như nước mắt chực chờ ! Tội tình chi đeo đẳng khi đã cuối một đoạn trường ...

 

Xứ người gần bốn mươi năm vẫn thấy lạ trời lạ đất. Làm sao không lạ lẫm những tấm lòng. Còn lại chút quen-hơi-bén-tiếng dẫu không thân thích vẫn nghe ra rất ruột rà. Chút tơ-lòng-đã-cũ cứ làm nhớ triệu điều tha thiết cũ. Ở đây đôi khi nghe lại một tiếng hát một đoạn nhạc đã nghe từ khi còn ở quê lòng bỗng bồi hồi như thấy lại mình một ngày nào ở đó, đọc một câu thơ một bài văn của một người mình đã mến mộ từ khi chưa đi xa lòng bỗng thấy như thâu ngắn lại được chút nào cái khoảng cách trời cách biển. Làm như có một cái gì đó lẫn lộn giữa quê hương và người nghệ sĩ, kẻ thừa tự đầu tiên và cuối cùng mọi ân phước cũng như oan khiên của đất nước. Trong một liên hệ nhân quả nào đó, có phải nghệ sĩ là kẻ đã thừa hưởng cái tài hoa của dân tộc, ân huệ của đất đai thổ trạch, của sông ngòi kinh rạch, của mùa màng thời tiết nơi họ đã được sanh ra, lớn lên và un đúc nên vóc nên tài. Có phải chỉ chút gió lạnh đổi chiều đã làm lòng họ sang thu. Có phải hoa mới ngập ngừng đơm nụ mà hồn họ đã vô vàn cánh bướm. Họ hưởng trước ai hết và trả sau ai hết cả vốn lẫn lời từ hạnh phúc đến khổ đau của một dân tộc. Họ đã và đang làm cái kiếp con tằm cố trả hết nợ cho dâu. Có phải trọn hết cái hồn hậu của phù sa mấy miệt lục tỉnh đã trộn lộn lại cho mình ên ông Út ở Trà Ôn cái hơi vọng cỗ nghe mùi đến tận mạng. Có phải thi sĩ là kẻ đã thở cùng hơi với hương đồng cỏ nội hai bên bờ Cữu Long bát ngát, đã nhịp cùng mạch với nhấp nhô núi cả đèo cao suốt dọc dãi Trường Sơn ... Từ đó, tiếng họ ru hời có lẫn tiếng à ơi của mẹ già bỏ lại. Tiếng họ thở than có tiếng rên siết của quê hương tù đày, nghe họ hát hò, viết văn làm thơ, vẽ khắc ... làm sao không thấy lại cả một trời quê hương được dựng lại. Dẫu có mông lung.

Ờ, họ dính liền với quê hương như một. Nghe họ là nghe quê hương lên tiếng. Ðọc họ như thấy chính quê hương tâm sự. Trong một lúc. Vào một thời. Có ta ở đó.

 

Mấy chục năm nay cứ bám víu vào họ mà sống, mà buồn vui... mà tự nhủ còn đó, còn đó... cái thời của chúng ta.

 

Có nhớ không chính những nét vẻ của Chóe đã làm nôn nao người thầy trẻ mỗi tuần chờ báo Khởi Hành trong một tiệm sách nhỏ dưới gốc cây me già ở một tỉnh miền tây. Những năm 70. Không khí tỉnh lẻ. Cái gì cũng chừng chừng phải phải. Ông thầy trẻ hai mươi mấy tuổi lại cứ thích để tóc dài, quần jean bạc thếch áo phạch banh nút ngực... thả lang ngoài phố như một tên du đảng.. Ờ nét vẻ của Choé ngang tàng trái cựa y hệt như một tuổi thanh niên cứ muốn thách đố với đời.

 

Vài năm trước nữa, những ngày thứ bảy lượn dài trên hè phố Lê Lợi, đợi nắng xuống chiều lên khi mấy cây me già vừa thả lá, kéo nhau vào quán Cái Chùa, gọi tách cà phê hay cốc rượu ngọt, đốt điếu Gitane thả khói loanh quanh rồi nghe Joe Marcel hát Phạm Ðình Chương bằng cái giọng rất lừng khừng chưa gặp em tôi đã biết rằng có người thiếu nữ đẹp như trăng...

... Ờ sao mà quên được, quên làm sao được, Sài gòn thuở đó thở nồng hơi nhiệt đới, má ửng hồng mà chẳng chút phấn son, tóc mai quến mấy giọt mồ hôi thoang thoáng, lưng áo vải tetoron vô ý mà hữu tình, ai mà không thích Lê Uyên

Phương, khi có lần từ một căn gác trọ bước theo em xuống phố trưa nay mà đang còn nhức mỏi đôi vai...

 

Vâng những người nghệ sĩ đó họ đã nói giùm ta điều ta nghĩ -mà nói rất điệu, vào một lúc nào đó, ở một chỗ nào đó... Và như vậy, họ chính là ta vào lúc ấy, ở chỗ ấy... Cái lúc cái chỗ ở riết thành quen mà xa rồi là nhớ ơi là nhớ. Cái chỗ người ta nói tiếng Việt Nam, hát tiếng Việt Nam, làm thơ viết văn bằng tiếng Việt Nam, yêu nhau bằng tiếng Việt Nam và gây gổ chửi rủa bằng tiếng Việt Nam ... Họ là tiếng nói của một thời, là nhân dáng của một thuở. Nghe họ thấy họ làm như còn thấy lại một mảnh giang sơn đã rách bươm, từ lúc bỏ đi ... Ðọc họ nhìn họ như còn thấy lại cái góc vườn-cũ, của lần gặp đầu, của buổi chia tay, đường quen phố thuộc, chòm xóm thân quen, những giòng sông hẹn, những bến đò đưa... Những ca nhạc sĩ của một thời, những văn thi sĩ, những họa sĩ đã rung lòng theo nhịp rung của thời đại, những năm giặc giã, những năm chia lìa, bây giờ đang lần lượt ra đi, mang theo với họ sợi dây chằng giữ con thuyền lưu lạc với cái bến cũ đìu hiu.

 

Họ bỏ đi, chúng ta mất thêm lần nữa, quê hương.

 

Và nhất là nhìn từ một góc nào đó, họ còn là hình ảnh của sự tái tạo từ tro than, của sự phục sinh từ cơn bức tử. Hay nói cách khác, của một giấc mơ vĩnh cữu về một cảnh đời tạm bợ.

 

Họ đi rồi, bỏ lại dở dang ta, những hồi mơ xuân hiếm muộn.

 

Jorge Luis Borges. Tâm hồn thi sĩ có bao giờ thôi ước hẹn với thanh xuân.

 

Khi những ngôi sao bắt đầu tắt lửa, vòm trời giống y như một cõi lòng trống trơn.

 

Cao vị khanh

 

* Hơn 10 năm trước, viết với đề tựa Bắt đầu ... Mười mấy năm sau, dẫu không muốn rồi cũng phải sửa lại ... Và rồi ... và rồi những cuộc chia tay vĩnh viễn !

 

Viết thêm

 

... từ bài viết tới nay, đã thêm bao nhiêu cuộc chia tay, ồn ào hay thầm lặng, thì cũng là những cuộc chia tay ... vĩnh viễn !

Ờ, vĩnh viễn ... vì có bao giờ còn thấy nữa những trang chữ nghĩa tinh tế kiểu chẻ-sợi-tóc-làm-tư của Võ Phiến, những thao thức cội nguồn của Bình Nguyên Lộc, những hào hoa phóng lãng của Nguyễn Xuân Hoàng, những điên đảo phiêu bồng của Bùi Giáng, những nghênh ngang ngất ngưởng của Phạm Công Thiện, những và những ...

Ờ, vĩnh viễn .... vì bên giáo-đường đã im bóng Quỳnh Giao, vì Hà Thanh đã thôi lướt thướt qua những-chiều-mưa-biên-giới, vì “ sầu nữ ” Út Bạch Lan đã tắt nhịp não nùng, vì Đinh Cường đã

bỏ màu buông cọ, vì nhạc sĩ Thanh Bình đã bỏ-ta-trong-mưa-bay thì làm sao còn thấy lại được những mùa-thu-vàng-sau-lưng-ta nữa ...

 

Rồi Phạm Ngọc Lư với Biên Cương Hành cũng vừa vượt cương tỏa bỏ tới vô biên...

 

Rồi .... 

     Rồi ...

         Rồi ...

 

Thì thôi. Đã có đến thì sẽ có đi. Ai đó đã nói cuộc đời như quán trọ và ai nấy cũng chỉ là những người khách qua đường.

Nhưng làm sao quên được ! Những vang bóng của một thời !

...

Cõi người có bao nhiêu

Mà ti ̀nh sâ ̀u vô lượng

Còn chi trong giã tưởng

Hay một vê ́t chim bay *

...

Một vết chim bay ?

Hay một câu thơ ? Một nét chữ ? Một tiếng hát? ... đã làm ai đó vui tai vui mắt vui lòng một giây một phút một giờ một thoáng trong cõi sầu vô lượng này.

Xin cám ơn. Và xin an nghĩ .

 

Còn lại đây ... vẫn đăm đăm cái khoảng trống vô chừng !!!!!!

 

Cao vị khanh

(* Phạm Thiên Thư)

 

Tái bút

17- 6 – 2017 Phạm Ngọc Lư

Phạm Ngọc Lư

Chợt tin ... người đã ... thiên thu

Dưng không trời bỗng sa mù quanh tôi

Mươi năm chuốt chữ trau lời

Đan Tâm một tấm gởi đời lệ riêng

Này vui, này muộn, này phiền

Đế́m đi đế́m lại còn nguyên nỗi mình

Thôi , anh đi ! Một chút tình

Vẫn tôi góc biể̉n, khóc mình, lệ chung !

 

 

Tái ... tái bút ...

21-5-2019 Tô Thùy Yên

Từ. Tạ. Tô Thùy Yên

Chợt tin người đã thiên thu

Dưng không trời bỗng sa mù trong tôi

Ôi Trời ! Ôi Đất ! Ơi Người !

Sao đi để chữ mồ côi, từ rày !

 

Lại ... tái ... tái bút ....

14-9-2020 Nhật Tiến

Giữa khuya đêm qua lại hay tin, Nhật Tiến của Chim hót trong lồng, của Thềm hoang ... đã lại bỏ đi. Tác giả đã góp phần không nhỏ cho sự nghiệp văn học miền Nam trước năm 75 và ngay sau này, khi đã bỏ nước ra đi. Xin gởi theo một nén tâm hương !

 

 

Bấm vào link để nghe lại ... dư âm

Hà Thanh https://youtu.be/ghv1Dxtte2E

 

Út Bạch Lan https://youtu.be/EwSIpG_Z6Xk

 

El Silencio https://youtu.be/LBtIFIIQg-8

_____________________________

CVK_gioma_1.JPG
CVK_gioma_2.JPG
CVK_NguyenKhuyen.JPG

                                                  -Thơ của kẻ sĩ ở cuối cuộc phong trần-

 

 

Đã có thời tôi làm nghề dạy học. Nói dạy học là nghề sao nghe ra có vẻ cay đắng thế nào, kiểu như mấy ông lái đò... đưa khách qua sông rồi khách bỏ đi luôn, quên cả ngoái lại. Đúng ra chuyện làm thầy của tôi cũng không đến nỗi bẽ bàng như vậy. Dẫu có chút đỉnh hục hặc lúc mới khởi đầu nhưng rồi đâu vào đó. Có thể nói là khá suông sẻ nữa. Và dẫu không quá mươi năm vẫn để lại trong tôi nhiều dư vị ngọt ngào hơn là đắng chát. Cái đám em út đó dẫu vì nạn nước phải lưu lạc tứ phương vẫn giữ nguyên cái nghĩa thầy trò rất mực là... thầy trò. Đôi khi vẫn gợi lại trong tôi những hình ảnh hết sức dễ chịu khi đời tôi đã quá sức khó chịu vì sức nặng trì trì của ngày tháng, vì những oán hờn trầm tích từ cuộc đổi đời cũ vẫn không tan, vì những hy vọng cho một cuộc đổi đời mới ở quê nhà càng lúc càng trở nên vô vọng ... Vâng, tại vậy đó, đôi khi một tách cà-phê, một bữa rượu mời mọc ân cần của một người học trò cũ gặp lại tình cờ giữa một độ đường lữ thứ, đôi khi chỉ một lời thăm hỏi sức khỏe văng vẳng từ một đường giây viễn liên nào đó, bỗng làm vui lại một khuya hôm trằn trọc... Vâng người già hay sống với kỷ niệm, vui hay buồn, đắng cay hay ngọt ngào... Những ngày đã qua ! Những chuyện đã qua!

 

Cái không gian hẹp té giữa bốn bức tường trường lớp vậy mà không thiếu chuyện để nhớ. Coi vậy mà cái thế giới bít bùng đó không hẵn phẳng lờ và suông sẻ như mấy trang sách quốc-văn-giáo-khoa-thư. Dẫu vậy, vẫn vui nhiều hơn buồn, vẫn ân tình ân nghĩa hơn cái trường đời mênh mông ở bên ngoài cửa lớp. Bởi vậy mà lắm lúc lại nhớ vơ nhớ vẩn, hay nhớ có tuồng có tích, thì vẫn là nhớ... nhớ thuở làm thầy dạy... văn chương cho đám học trò đã hết nhỏ mà còn chưa lớn.

Mùa cuối thu rồi mà không biết vương vấn ra sao lại cứ dùng dằng không chịu cuốn theo gió mà đi, cứ lẩn tha lẩn thẩn rắc lá ngày này qua ngày khác. Lá rơi phủ vai bức tượng trắng sau nhà, lấp đầy chiếc hồ cá nhỏ, rồi che khuất cả lối ra vào. Cái người rổi việc nhất là tôi, lại có việc làm ... tiễn mùa thu đi bằng cách quơ tay hốt từng bựng lá vàng, gom thành đống vào những góc khuất, đợi cơn tuyết đầu mùa ủ kín, lấp cho quên vết mùa thu cũ. Chuyện chẳng có gì mà rồi sinh chuyện. Có hôm ra sân, trời không nắng không mưa, chỉ hiu hiu gió. Thứ gió mùa thu, nhẹ như hơi thở người tình đã có lần đi vội qua đời mình mà không có dịp ngó lại, thổi gờn gợn lên cánh tay trần chút hơi lạnh đâu đâu. Bãi cỏ chỉ mới úa, mấy luống hoa cũng chỉ mới vừa rũ cánh dẫu chưa phai màu. Khổ nỗi, phải chi rụng thì cứ rụng, lằng nhằng chi đến lê thê lếch thếch mà xui chi cho lại nhớ thương. Mà nhớ gì thương chi cũng chẳng biết. Chỉ biết sao như có tơ giăng ngang mắt, chằng giữa tim làm mỗi bóng mây qua sao có gì vướng víu, mỗi cuối ngày đi sao có gì nấn nuối ... Khổ nổi chẳng biết tơ nhện ấy gút mắt từ đâu nữa.

Vậy rồi trong cái không khí váng vất nửa hư nửa thật, nửa ấm nửa lạnh, nửa xưa nửa nay, có bữa nghỉ tay, chợt ngẩng lên nhìn trời, thấy trời xanh biêng biếc, chẳng một gợn mây, lòng chợt phân vân rồi dưng không nhớ đến một người, một người đã xa, xa lắm, xa như cái dòng lịch sử mịt mù đã cuốn trôi đi tất cả.

Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt

Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe

 

À, Nguyễn Khuyến, danh sĩ giữa khi thế nước tới hồi mạt vận cuối thế kỷ 19, cuộc đời đã được phanh phui không sót một cái chắc lưỡi trong mấy bộ văn học sữ được đem giảng dạy trong các trường trung học ở Miền Nam thưở nọ. Tôi cũng vậy, do theo nghiệp vận tôi cũng đã nhiều phen lên lớp dở giọng ngùi ngùi kể lể phê phán khen chê ... Mà điều, thú thật, ở cái tuổi mới vừa chín tới, tôi nói mà lắm lúc ngần ngại. Rằng thì là ái quốc tiêu cực, rằng thì là phúng thích mơ hồ, ... gịọng thơ thiếu khí phách ngang tàng của kẻ sĩ giữa cơn đọa lạc v.v... và v.v... Ờ mà có thể đòi hỏi nhiều hơn nữa không?

Những kẻ sĩ ở cuối cuộc phong trần ! Thử nghĩ lại, miền Nam, sau ngày 30 tháng 4 !!!

........... Nguyễn Khuyến, sống cái tuổi trẻ của mình trong sự chộn rộn của lịch sử. Đến tuổi 50- ngủ thập nhi tri thiên mạng, người Pháp coi như thực sự chiếm trọn Việt Nam, dù dưới bất cứ danh hiệu mỹ miều nào. Triều Nguyễn chỉ còn là cái bóng của chính mình. Nhợt nhạt, lao đao, quờ quạng ... giữa sóng gió dữ dằn của thời cuộc. Thân phận của những người đã vinh danh nhờ vào cái trật tự phong kiến đó, rồi cũng sẽ và phải lao đao, nhợt nhạt ... theo cái khung mình đã dang tay chống đỡ và cũng đã che chở lại cho mình. Dĩ nhiên không phải không có người dang thân ra gánh vác, nhưng rồi cũng chỉ như đem trứng chọi đá. Còn ngoài ra, chỉ có cái lối phản kháng tiêu cực là thịnh hành. Không xoay chuyển được thời thế thì ... rũ áo từ quan, về nhà đuổi-gà-cho-vợ. Nói mà không có ý mỉa mai. Chỉ là để ... ngậm ngùi.

Nhưng nếu không làm vậy, thì sẽ làm gì ?

Tay chân thì ... trói gà không chặt.

Đầu óc thì ngoài cái mớ chữ nghĩa chép đầy trong mấy bộ tứ thư ngũ kinh chi hồ giả dả cũ đâu từ cái thời ... không còn chỗ nào để cũ nữa.

Đám “ bạch quỷ ” thì ngoài súng mút-cơ-tông, lại còn có thêm tàu bọc sắt chạy bằng hơi nước phun khói mịt mù ...

Ngóng vô triều thì triều cũng đang ngóng cổ ngóng mấy ông con trời phía bắc cũng đang ôm đầu chạy có cờ ...

Vậy thì, còn ngõ nào để chờ đợi, để trông cậy hay để vung tay phất cờ ...

 

Vâng, tình hình cuối thế kỷ 19 của xứ Đại Nam ta là như vậy. Có gì khang khác hay giông giống tình trạng của miền nam Việt Nam những ngày cuối tháng ba, đầu tháng tư năm một chín bảy lăm ... Tôi, và những người trang lứa trên dưới ba mươi, chúng ta đã sống thế nào, nghĩ thế nào, làm gì ... ? Lo lắng ! Nghĩ ngợi ! Lăng xăng ! Lính quýnh ! Ngó tới ngó lui rồi ngó lại mình ? Ngó lại mình ? Rồi sao ? Rồi sao nữa ? Rồi không ra sao hết ! Hay là rồi nhảo nhẹt như cục bột thấm nước ...

Bốn mươi mấy năm sau cơn thất tán, đọc lại mấy bài thơ thu của Nguyễn Khuyến, rồi sao buồn quá đỗi, nhìn ngược lại đời ông, nhìn ngược lại đời mình ... Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe .

 

Thử nghĩ đến mùa thu ở một vùng đất phía bắc Việt Nam. Mà thật ra ở đâu đó cũng vậy. Vì ở đâu đó mà nếu còn trên mặt đất này cũng đều không vui. Tại vốn dĩ mùa thu đã được gán cho cái tánh buồn. Nắng buồn ít. Mưa buồn nhiều. Mà không nắng không mưa cũng buồn, không nhiều thì ít. Vậy rồi, trong một ngôi làng nhỏ, một buồi sáng, một buổi trưa hay một buổi chiều, một người đàn ông đã luống tuổi, dù chưa cỗi như gốc đa đầu làng nhưng cũng đủ già để xóm giềng vị nể, nhất là kể ra cũng đã hàng danh phận, sống thu mình, lặng lẽ như chiếc bóng của chính mình. Tuổi trẻ, dù có chút lận đận, ông cũng đổ đầu ba kỳ thi cả nước, làm quan dẫu không tột đỉnh cũng bậc phụ mẩu chi dân, lại giữa chốn yên hoa cũng là tay phong lưu rất mực. Khoan nghĩ về đời sống xả hội mà nhớ về cõi riêng tư, góc cạnh thể hiện rõ nhất cho cá tính. Nội mấy câu lục bát nôm na đã thấy rõ bản tính người tài tử. Rượu ngon không có bạn hiền. Không mua không phải không tiền không mua. Rồi đến lúc người bạn-hiền đó xuôi tay nhắm mắt, lại kêu lên Bác Dương thôi đã thôi rồi. Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta. Rõ là kẻ chí tình rất mực. Lại nữa, bài hát nói nghe đùa hoa giỡn nguyệt mà lộ rõ như mực đen trên giấy trắng cái bản chất nòi tình của bậc văn-chương-nết-đất. Hồng Hồng Tuyết Tuyết. Mới ngày nào chửa biết cái chi chi. Mười lăm năm thắm thoát có ra gì. Chợt ngoảnh lại đã tới kỳ tơ liễu. Ấy là chưa nhắc đến mấy câu mưỡu đầu đọc lại mà muốn ... giựt mình (**). Hãy nghĩ tới trong thời mà nền đạo đức cổ truyền như là cái gông siết cổ, một bậc văn nhân ( trí thức ) có tiếng như ông mà xổ thơ trai gái lả lướt như tay phóng đãng bất cần đời, thì so ra có thua gì Đỗ-Mục-mười-năm-tỉnh-mộng Dương-châu !

Vậy mà ông vẫn làm tròn cái vị trí xã hội của mình. Sách vở còn ca tụng.

 

12 tuổi đã thuộc kinh sử, 14 tuổi văn lý đã thông, 15 tuổi đổ đầu kỳ hạch tỉnh... Chánh sự mẩn cảm, thanh liêm, lại tỏ ra có tài thao lược trong nhiều vụ tiểu phỉ. Một lần dâng sớ xin về hưu nhưng vua Tự Đức không ưng, triệu về kinh làm Sử quán Toản tu ... Rồi được cử giữ Tổng Đốc Sơn Hưng Tuyên... Năm 1884, sau khi vua Tự Đức băng, triều đình ký hòa ước Patenôtre, công nhận cho Pháp bảo hộ Bắc và Trung kỳ. Năm sau, Nguyễn Khuyến lấy cớ đau mắt xin về hưu (***)

Dọc theo sự nghiệp quan trường đó, sự nghiệp văn chương cũng chẳng thua kém chi ai. Mọi thể loại, mọi đề tài đều có lượt vung tay phóng bút.

Nói vậy, để thương cảm thêm cho một kiếp tài-tình-thiên-cổ-lụy. Dĩ nhiên, đời xa người khuất, không ai đem phân tâm học mà giải bày. Tuy nhiên, dù không trăm phần, cũng không đến nỗi lạc nẻo. Con người đó, với bổn phận trách nhiệm đeo đai, bằng cách này cách khác, vẫn sống cái phần hồn chân thực nhất của họ, bên cạnh vai trò mà xả hội đã áp đặt. Nghĩ vậy rồi, làm sao mà không cảm mộ. Họ sống đời riêng của họ song song với đời chung của thiên hạ. Họ sầu cái sầu riêng họ mà họ còn sầu cái sầu chung của thế nhân. Họ đau những mất mát tư riêng mà còn đau thêm nỗi hờn vong quốc. Thử nghĩ đến tình cảnh một người mang nỗi buồn lũy thừa theo cấp số nhân ...

 

Một ngày mùa thu, người đàn ông đó, thả bộ loanh quanh mấy cái ngõ trúc vắng hoe, hoặc lơ đãng thả dây câu xuống mặt hồ lặng ngắt hay nhắp chút rượu chiều khi ngày sắp hết ... hay làm bất cứ một chuyện gì đó, mà có cần chuyện gì là chuyện gì, khi tới lúc đời đã vuột ngoài tầm tay, khi mọi vui buồn oán hận đã là cố sự, nhất là khi quê hương có đó mà như không có đó ... người đàn ông đó, ông ta làm mà như chỉ để làm, làm mà như không để chờ kết quả.

Vậy rồi ... có khi ông phóng bút làm thơ.

Văn sử không cho biết chính xác Nguyễn Khuyến viết ba bài thơ Thu điếu, Thu ẩm và Thu vịnh lúc nào trong số thơ văn ông để lại. Điều chắc nhất là thơ làm vào một mùa thu nào đó trong suốt những mùa thu đã đi qua đời ông.

 

Rồi ... cũng lại một ngày mùa thu, thứ mùa thu bất biến của trăm năm trước hay trăm năm sau, từ một cõi xa tít ở bên này biển Thái Bình không ngớt sóng dữ, trời có có cao xanh hay trời nặng trĩu sương mù ... thì cũng vẫn cùng một tâm cảnh. Trong cái rưng rưng của đất trời, dưng không rồi nhớ lại mấy bài thơ cũ. Dưng không rồi lại thấy băn khoăn. Băn khoăn, thứ xúc cảm nhẹ như có như không, một thứ chuyển động mơ hồ y như chiếc lá rụng xuống mặt nước làm gợn chút sóng lăn tăn rồi ... lặn mất. Dẫu vậy, vẫn băn khoăn ...

Có thật, từ nhiều năm trước, khi còn đứng trên bục giảng để giải thích, phê bình, khen ngợi, chê bai ... những bài thơ xưa đó cho đám em nhỏ, lòng trắng trinh như mấy tờ giấy học trò, có lúc đã nói như vậy, đã khen như vậy, đã chê như vậy ... ! Mà thiệt ra, ở cái lứa tuổi đôi mươi đó, đã hiểu gì, đã cảm ra sao ... mà nói không ngại ngùng, mà giảng với dạy thứ văn chương của những người trăm năm trước. Thứ văn học giáo khoa, đóng khung trong mớ giáo điều sư phạm có nói ra được hết- mà có quyền nói ra hết, những thứ tâm động sâu đến khôn dò của lòng người. Tuổi thanh niên loạn lạc những năm 70 của thế kỷ 20 hiểu được gì cõi lòng rất đỗi nhiểu nhương của những bậc vãn niên những năm 30, 40 của thế kỷ 19 ? !!!!

Thơ vốn dĩ là của riêng người làm kể cả thơ làm để tặng. Người đó, lúc đó, chữ có nghĩa lúc đó, ngay lúc đó. Người đọc thơ, đã trễ đi một tích tắc ... có còn là chữ và nghĩa của lúc thơ ... bất chợt hiện ra. Người làm thơ là làm thơ cho họ với xúc cảm của riêng họ. Người đọc thơ là đọc thơ cho mình với hỉ nộ ái ố lạc dục của riêng mình. Hôm nay không còn là ngày hôm trước, ngày hôm sau nữa, năm mười năm ... trăm năm sau đã lạc dấu biệt mù ... Trời đất bên ngoài, vũ trụ trong ta có bao giờ thường trụ. Lấy gì làm mốc để biểu là hiểu đúng, để xỉ xỏ này nọ nọ kia .Thích thì rủ rỉ tâm tình. Không thích thì nín. Vậy thôi.

Cho nên ... ngày tháng này, ở đoạn cuối một cuộc phong trần, lòng không khỏi ngậm ngùi khi bất chợt nhớ ông, nhớ nếp sống sau khi treo ấn từ quan, lui về quê cũ, lưu vong ngay trên chính quê hương mình, với những giằng co giữa chống đối và thỏa hiệp, giữa ý thức trách nhiệm của kẻ sĩ và sự bất lực của văn nhân, giữa nết tài hoa của bậc phong lưu và nếp đạm bạc của kẻ ẩn cư ... từ đó ... ngày tháng qua, tuổi tác rụng dần theo những mùa thu thay lá.

 

Đọc lại thơ, lần này là đọc lại cho mình, sau bao nhiêu vật vã với tang thương. Đọc lại ... để hồn truồi theo cảm xúc của người xưa, để vui với, buồn vì, hận theo với người đã trăm năm khuất bóng ... rồi thấy xót xa mà thương ơi một tấm lòng vốn mẩn cảm với đời, với người ... kể cả rưng rưng với từng nhịp mùa rơi mỗi độ thu đến rồi thu đi...

Thử lần lượt đọc lại thêm một lần ba bài thơ thu cũ ...

 

Thu điếu

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo, Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo. Sóng biếc theo làn hơi gợn tí, Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo. Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt, Ngõ trúc quanh co khách vắng teo, Tựa gối, buông cần lâu chẳng được. Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

 

Thu ẩm

Năm gian nhà cỏ thấp le te, Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe. Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt, Làn ao lóng lánh bóng trăng loe. Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt ? Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe. Rượu tiếng rằng hay, hay chả mấy, Độ năm ba chén đã say nhè.

 

Thu vịnh

Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao, Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu. Nước biếc trông như tầng khói phủ Song thưa để mặc ánh trăng vào. Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái, Một tiếng trên không ngỗng nước nào ? Nhân hứng cũng vừa toan cất bút, Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào

 

Đọc thôi, đọc bằng cái giọng bình thường nhất, nhỏ nhẹ nhất ... để thấy cái trong veo của một tấm lòng trong suốt. Đã hết những vọng động của tuổi trẻ, những mắc míu của đời sống mà rồi sao như vẫn còn vướng vít những dư âm của lịch sử buồn. Dẫu vậy, thơ nhẹ như mây. Mây thì trôi nổi, bềnh bồng. Vô sở trụ.

 

Thường, thơ làm theo lối Đường thi phải đúng phép tắc. Vị trí của từng câu, từng chữ, nghĩa lý đối đãi khít khao như đổ khuôn. Luật lệ rạch ròi như đinh đóng cột. Lại thêm điển tích với lại điển cố cứ khệnh khạng như bộ dáng hát bội ... làm bài thơ rồi nặng nề từ hình thức tới nội dung. Thơ thu của ông, dẫu cũng bảy chữ tám câu như bao giờ, lại thoát ra được cái câu nệ thường tình của thi pháp cổ điển. Thứ bố cục khít rim với phân nhiệm chặt chẽ, nào mở nào thực nào luận rồi kết, nhất nhất không được sai chạy. Rồi chữ đối chữ, nghĩa đối nghĩa ... như những rào cản giữ ghịt hồn thi nhân lại bên nây bờ mộng tưởng, con đường sáo mòn cứ o ép riết lấy mà đi ... Kể cả chữ – phương tiện để làm thơ, cũng phải được chọn lọc, gò gẫm, trau tria ... sao cho không thường, sao cho cao sang, sao cho phảng phất thứ hơi hướm của một thuở Đường thi Tống từ đã đi vào huyền sử !

Vậy mà thơ thu của Nguyễn Khuyến, dù không phá lề mà sao như vượt thoát khỏi luật. Cái hay ở đó mà cái khéo cũng từ đó. Ồ mà không, không phải khéo. Khéo là cố công, là tỉ mỉ. Đằng này, thơ tự nhiên như nước suối róc rách từ nguồn chảy ra, chảy ra léo lách qua bờ bụi, len lỏi qua vách đá, tự nhiên, uyển chuyển ... Chảy thong dong, nhẹ nhàng ... không cần gió đẩy gió đưa cũng chẳng cần phải chèo chống mỏi mê. Chảy như nước thì ... chảy. Thơ ... như thơ.

 

Vần eo là loại vần ... rất ... trặc trẹo – mà ông gieo nhẹ như hơi gió thổi liêu xiêu ( veo, teo, vèo, teo, đèo ... ). Những câu thơ toàn bằng chữ Việt thuần nôm. Thứ chữ mà đã có thời người ta ghét bỏ vì cho rằng ... nôm na là cha mách qué ! Người có học – hay coi như có học- suốt thời lịch triều gần như tránh né. Vậy mà một người từng ba lần đổ đầu cả xứ với thứ chữ được coi là thông thái, lại phóng tay làm thơ ... bằng thứ chữ bị coi là quê mùa. Nội chút đó thôi đủ để cảm phục thêm tấm lòng quan hoài của bậc danh sĩ vốn nặng lòng với quê hương làng xóm. Mà làm thiệt hay. Vừa tự thoát ra cái mặc cảm tự tôn của người hay chữ, vừa biểu lộ một phong cách ung dung tự tại của kẻ sĩ cuối đời, phủi tay xóa sạch mọi phiền toái của cái xả hội đang hồi lộn lạo.

 

Đọc suốt bài Thu điếu kể chuyện đi câu cá, mà có thấy đâu chuyện cá ăn câu. Với giọng thơ nhẹ nhàng, thanh thoát và mang mang chút thiền vị, chỉ nhận ra được cái phong thái ung dung, tự tại của một kẻ biết ta biết người, thả thuyền câu chỉ là cái cớ, để trám cái trống không của một ngày coi như đã dư thừa. Thời gian của chuyện đi câu là thời gian bất động. Ngồi câu là dang tay níu đứng lại thời gian, là ngồi tịnh giữa dòng dời đang cuộn chảy, là cách thế thoát ra những vọng động của lịch sử. Là ta tìm lại chính ta sau tầng tầng dâu bể.

Sực nhớ đến Liễu Tông Nguyên, đời Đường, cũng đã có lần gieo mình giữa mênh mông thiên địa. Thiên sơn điểu phi tuyệt. Vạn kính nhân tung diệt. Cô chu thôi lạp ông. Độc điếu hàn giang tuyết. Một thuyền, một bóng, một dòng sông. Không một vết chim đến tuyệt cùng. Chẳng một vết chân ngoài vạn lý. Ngồi câu, người với tuyết mênh mông !

Có phải không, ngồi câu là ngồi lại với chính ta, là ta tìm lại ta giữa hỗn mang của trời đất, giữa hỗn loạn của lịch sữ, giữa hỗn độn của lòng người.

Mà có tìm được hay không lại là chuyện khác. Chuyện cần là lách mình ra khỏi những vọng động của đời thực để thế sự rồi mơ hồ như vọng âm của tiếng cá quẩy động ở đâu đâu.

Tựa gối, buông cần lâu chẳng được, Cá đâu đớp động dưới chân bèo !

 

Rồi lại khi đối ẩm với ... mùa thu !

Năm gian nhà cỏ thấp le te, Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe

Vẫn cái giọng thơ nhẹ nhàng, giản dị tới độ bình dị, chữ nghĩa rặt nôm làm nghe ra thân thuộc dù đời xa đã xa hằng bao thế hệ. Bởi vậy, đọc thơ rồi sao thấy cùng một nỗi cảm hoài.

Ba cái thứ chữ dân gian, thứ ngôn ngữ nói, nghe ra thì dễ dãi hết sức mà đưa vào thơ làm rõ thêm ra cái cảnh trí nhà quê thân thuộc - năm gian nhà nhỏ thấp le te, ngõ tối đêm sâu, đốm lập lòe - hình quen cảnh thuộc làm như đâu mới hôm qua hôm kia còn chạy nhảy lúp xúp trên những bờ đê nức nẻ, còn núp cột đình coi cọp tuồng San hậu, còn lăng xăng qua lại mấy nhịp cầu tre lắt lẻo ... thứ thân thuộc giờ chỉ còn trong tưởng vọng dưng không làm dậy lên từng nỗi xót xa. Xóm vắng, năm ba gian nhà lá thấp chủm, lượn lờ vạt khói cơm chiều và con trăng sớm nhỏ nhẹ dọi xuống lòng ao hẹp ... Quê mình đó chăng ? Bao lâu rồi chưa thấy lại ! Ông Nguyễn ơi, có phải hình ảnh một xóm làng đìu hiu từ cơn nạn nước làm ông chảy nước mắt dù ông còn nán lại quê ông. Và tôi, kẻ xa quê cũng vì nạn nước, giữa hồi chạng vạng làm sao còn thấy kịp lại quê nhà !

Thơ đọc lên nghe thì dễ dãi mà lại sắc mắc như giấu đâu gai góc làm xước máu mấy con tim cứ hay hoài vọng cố hương ... Có phải tại chính cái trơn lùi của chữ nghĩa vốn quen miệng tới ngọt xớt của tiếng nói câu chào làm người ta thấy gần gũi, thân thiết rồi ... cảm. Thơ đó chăng ? Hóa ra tìm chi chữ cao kỳ, nghĩa bí hiểm ... cho mệt.

Lại nữa, khi không giữa lúc lòng đang rười rượi mớ hình xưa bóng cũ, lại bày rượu ra mà độc ẩm. Uống rượu với thu thì có khác chi là ... uống rượu một mình.

Rượu. Tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu. Thoại bất đầu cơ bán cú đa. Âu Dương Tu.

Rượu. Hô nhi tương xuất hoán mỹ tửu. Dữ nhĩ đồng tiêu vạn cổ sầu. Lý Bạch.

Rượu rót ra là để cùng san sớt. Rượu một mình là miếng đắng trộn miếng cay. Đắng cay không vì men rượu. Đắng cay vì thiếu người đối ẩm.

Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt

Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe

Đến một lúc rồi ngó quanh ngó quất, dẫu cũng người qua kẻ lại mà lấy ai để san sẻ chút vị nồng. Lọc lừa sau bao nhiêu dâu bể thăng trầm, lắm khi rồi chỉ còn lại ta-với-ta. Cái nhóm chữ này coi vậy mà sau rốt rồi không thiếu người san sẻ. Ly rượu chiều chưa cạn. Lòng đã lạnh đầu hôm. Ngửa cổ nốc ngụm chót. Rượu đắng, lệ khôn cầm.

 

Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe. Đọc mà nghe thương quá. Rượu một mình. Y như mình đối bóng. Thứ bóng ngồi đó mà nín khe. Phải chi ông Dương còn bên để san chút rượu sớt chút lòng hẵn là rượu có nồng cũng chỉ làm tiếng cười thêm hào sảng. Đằng này, rượu một mình, nói chi tới năm ba chén, rượu mới bốc mùi thôi, đã bao nhiêu rộn ràng quá vãng đủ làm chao đảo một hiện tại cô đơn. Độ năm ba chén đã say nhè. Lời thật hay chỉ là lời tự biếm. Lời tự biếm hay cũng chính là lời tự thú nhận về sự bất lực của mình trước những đổi thay của thời thế cũng như của chính thân phận mình. Buồn ơi, chào mi !

 

Mùa thu của Nguyễn Khuyến đẹp như bức tranh thủy mặc. Phong vị tiêu sái dễ làm người thoát tục. Lúc nào trời cũng xanh ngắt, cao vời vợi. Chấm phá đôi ba nét thiệt nhẹ, mơ hồ làm trời nước bỗng lung linh. Trời thu xanh ngắt mấy từng cao. Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu. Nước biếc trông như tầng khói phủ. Song thưa để lọt bóng trăng vào. Cái đẹp mong manh như dễ vở, dễ xui lòng người chiêm nghiệm đến cõi vô thường. Từ đó bỏ quên thực tại như một cố gắng vượt thoát. Nhưng khổ nỗi, muốn là một chuyện mà lòng người trăm nỗi là giây tơ chằng chịt, giữ khịt người ta lại với hiện tại, thứ hiện tại thất quốc vong thân. Mãi mãi vẫn là tâm trạng của kẻ thua cuộc.

Trời xanh cao vút, lất phất vài nhánh trúc đẩy đưa như ngoắc gọi con trăng chèn qua mấy chấn song thưa vào làm bạn. Tâm cảnh đã không vui thì cái đẹp càng gợi ra cái buồn. Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái. Một tiếng trên không ngỗng nước nào. Thấy hoa năm nay sao lại nhớ hoa năm ngoái ? Luyến tiếc gì chăng ? Mà sao lại hoa-năm-ngoái ? Tiếng chim kêu chiều lạc lõng có phải là biểu hiện cho tình cảnh bơ vơ của người dân mất nước. Chim lạc bầy có biết tổ đâu mà về ! Ngỗng-nước-nào ? Có phải rồi bỗng nhớ Đỗ Phủ ! Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ. Cô chu nhất hệ cố viên tâm. Ông ở quê mà hồn ông ở đâu ? Có phải như ông Đỗ ! Hai lần cúc nở, bao nhiêu lệ. Một chiếc thuyền neo, mấy khóa sầu. Có phải nước mất, người ta dẫu sống trên quê mà hồn đã viễn xứ. Lại nữa, giữa nạn chung, còn bao nhiêu nạn riêng. Những thúc ép bó buộc của một cuộc đổi đời tàn tệ. Sử chép lại như sau :

... Người Pháp sau khi dẹp yên giặc giã tìm cách thu phục nhân tâm, mua chuộc các sĩ phu có danh vọng trước, nên có ủy cho Hoàng Cao Khải rồi Vũ văn Báo nhiều lần mời ông ra làm quan. Nhưng ông nhứt định khước từ. Tuy nhiên để Pháp khỏi ngờ, để cho những ngày già được yên ổn, ông vẫn phải nhận sự thăm hỏi của phe hợp tác, và cho con là phó bảng Nguyễn Hoan ra nhận một chức quan nhỏ với Tân Trào... (**)

 

Khổ thân người vốn đã bỏ đi lánh đời. Nhưng đời có chịu bỏ người đâu. Bắt phong trần phải phong trần. Cho thanh cao mới được phần thanh cao. Dẫu vậy, bằng mọi cách, dù không tích cực, ông vẫn mặc nhiên xác nhận tư cách kẻ sĩ, khi đời loạn lạc. Cứ tưởng đến hoàn cảnh của cá trong chậu chim trong lồng mà thương. Cứ nghĩ đến Nguyễn Du hơn nửa thế kỷ trước trong cảnh thay ngôi đổi chúa. Một phen thay đổi sơn hà. Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu. Nghĩ thêm chút nữa đến người miền Nam sau cơn vỡ trận bẽ bàng cuối tháng ba năm đó. Người dốt nát đã khổ. Người có chữ càng khổ thêm mấy lần vì cái đầu vốn hay nghĩ ngợi. Mà càng nghĩ ngợi thì càng thêm bế tắc. Lúng ta lúng túng ...

 

Nhân hứng cũng vừa toan cất bút

Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.

Đọc lên hai câu chót mà cảm thán đến chạnh lòng. Làm sao nói hết được thứ mặc cảm của kẻ sĩ lỡ thời. Biết trách nhiệm đó, biết bổn phận đó. Nhưng biết rồi làm sao. Nhập cuộc thì không đủ sức. Đứng nép ra bên lề khi thế sự cứ cuồn cuộn thì y như trốn chạy. Làm sao ? Làm sao ! Nghĩ thẹn với Đào Uyên Minh, người viết bài Qui khứ lai từ như một tuyên ngôn phủ nhận hết mọi liên hệ với cuộc đời chẳng qua cũng chỉ là một cách né tránh, khi không thể trực diện với vấn nạn của một kẻ sĩ khi nước mất nhà tan. Chỉ là vì khó ăn khó nói với đời. Mà nhất là vì khó ăn khó nói với chính mình, khi chính mình đã biết câu trả lời phải là ... một sự dấn thân tích cực, ở bên này hay bên kia chiến tuyến. Phong cách Lão Trang có phải chỉ là những biện hộ lấp liếm đến tội nghiệp. Biết vậy, nhưng rồi giữa những thúc bách của lịch sử và hạn chế của thân thế, ông đã chọn cho mình lối xuất xử ít tệ hại nhất. Bên cạnh miếng mồi nhử đỉnh chung, bất hợp tác cũng đã là thái độ liêm sĩ tối thiểu của một văn nhân. Đã không ít kẻ còn làm ngược lại !

Nhưng rồi, thử đặt lại câu hỏi, người về ở ẩn khi nước mất vào tay ngoại bang, kể cả lọt vào tay kẻ đồng chủng mà không đồng tình, rồi có yên lòng sống nốt quảng đời còn lại. Hay rồi vẫn là những ray rứt, những băn khoăn, những đêm sâu thắc thẻo ...

 

Những bài thơ thu của Nguyễn Khuyến rốt lại chỉ là những thầm thì với chính mình, như một cách xoa dịu thứ mặc cảm bỏ cuộc, trốn chạy ... của một kẻ vốn đã có danh phận với đời. Hơn nữa, như một cách gá bạn để chia bớt lẻ loi !

 

Hồi đó, lúc còn trên bục giảng, mình có nghĩ ra được vậy không ?

Lời tự vấn hẵn là lời tự trách !!!

 

Uống rượu, câu cá, vịnh thơ, họa thơ ... hay gì đi nữa cũng chỉ là để lấp đầy cái khoảng trống khủng khiếp bày ra hằng giờ hằng phút trước mặt người tự thấy mình đã thành ... vô ích. Kẻ bị xô ra –hay tự ý - đứng bên lề khi dòng đời cứ lạnh lùng xoay trở đến vô thủy vô chung có phải là kẻ đã bị lưu đày - hay tự lưu đày - vào cái xó riêng. Ở đó, rất đỗi một mình, lặng lẽ đón từng ngày đến, đưa từng mùa đi, những mùa thu của đời mình.

 

Đến một lúc, mặc những mùa thu đến rồi đi, có còn ai ... đưa tiễn !

 

Cao vị khanh

 

 

(*) tựa bài nhạc của Trịnh Công Sơn

(**) Ngày xưa Tuyết muốn lấy ông

Ông chê Tuyết bé, Tuyết không biết gì

Bây giờ Tuyết đã đến thì

Ông muốn lấy Tuyết, Tuyết chê ông già

(***)Việt Nam văn học sử giảng ước tân biên- Phạm Thế Ngũ

 

 

Ngoài lề-

Lẻ ra chắc cũng đã đủ cho mớ cảm hoài bất chợt. Nhưng rồi sao thấy như thiêu thiếu khi chưa xuýt xoa thêm chút xíu về tài hoa thơ phú của ông. Thật ra sách vở mấy đời đã nói gần như không sót chút nào. Chỉ có điều vốn là người miền Nam rặt nòi lục tỉnh, khoái cái lối nói nôm na mà ởm ờ kiểu như hôm-qua-qua-nói-qua-qua-mà-qua-hổng-qua ... vậy mà mới nhớm lại mấy câu thơ cũ trên môi, cả mùa-thu-Nguyễn-Khuyến như đã hiu hắt trong đầu, tiếng-thu-Nguyễn-Khuyến đã xao xác trong tai. Thử vẽ vời hai câu thực của bài Thu điếu, Sóng biếc theo làn hơi gợn tí đã muốn kêu lên ... “ giời ơi sao mà tuyệt thế ! ” Mà quả tình tuyệt thiệt ... Làn hơi gợn tí. Gợn tí thôi, tí thôi. Miền Nam nói “ chút hà ”. Người Bắc nói “ tí thôi ”. Đặt vô đây đúng boong cái chỗ của chữ. Sóng có gợn mà như không gợn. Chỉ gợn tí thôi. Chút sóng li ti làm mặt ao tưởng là phẳng lì mà vốn là động đậy. Y như cái ảo giác ngược lại khi nhìn nắng giữa trưa hè thấy nắng lung linh mà thật ra nắng có nhúc nhích gì đâu. Ông cho ta cái cảm tưởng như ông làm thơ mà gượng nhẹ từng chữ, làm như sợ chữ ... đau. Ông xài chữ mà như rón rén chọn chữ. Sóng có gợn mà gợn chút xíu thôi hà. Mà điều “chút xíu” cùng nghĩa mà lại không cùng âm sắc với “ tí ”. Chữ “ tí ” vừa làm hẹp không gian, thu ngắn thời gian lẫn gây tác động tâm lý làm mường tượng chuyện có có không không. Tĩnh mà Động. Giả sử làm gan sửa lại ... sóng biếc theo làn hơi gợn ... chút. Dĩ nhiên nghĩa vẫn y nguyên, có sai chạy gì đâu. Mà điều, nghe rồi làm như hơi thu nằng nặng, trời thu đùng đục, sóng thu lợn cợn, bước thu đi thành ra trì trệ làm tình thu mất đi cái vẻ thanh thoát tự ban đầu. Rồi đến chuyện ba cái lá vàng. Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo. Đến mùa rơi thì lá rụng. Lá rụng là chuyện của lá, mà đưa đẩy là chuyện của gió. Lá thả mình ra khỏi cành thì gió sẽ hứng lấy mà đưa đi. Ào ào đưa đi hay se sẻ đưa đi. Gió se sẻ đưa đi mà rồi lá rơi cái ... “vèo” cũng nghĩa y như gió se sẻ đưa đi mà rồi lá rơi ... cái một. Nhưng mà rơi cái “vèo” làm cho tiếng rơi nghe sắc lẻm, dứt khoát, quyết liệt ... không sót lại chút dư thanh ... càng làm nghe ra cái điệu hấp tấp vội vàng của bước thời gian đang chuyển. Người trong cuộc rồi tự thấy mình vô nghĩa, có đó mà không đó. Nhất ông ! Ông Tam Nguyên Yên Đổ làm thơ theo tiếng địa phương ngay chỗ này nghe ra quả tình là đắc địa. Chữ và nghĩa và âm thanh đúng chỗ đúng độ làm ý thơ lồ lộ, lồ lộ mà mông lung khiến người đọc như té vào ... khoảng không ... êm ru. Động mà Tĩnh.

 

Tưởng vậy mà không phải vậy. Không phải vậy mà là vậy. Động-Tĩnh Tĩnh-Động thành vô định. Có-Không Không-Có hóa phù du. Tuyệt !. Mùa thu của Nguyễn Khuyến là mùa thu của kẻ ẩn cư, của người đã xa tục lụy nên mọi chuyển động dường như cũng nhịp theo nhịp đập của con tim đã tới hồi đổi nhịp ... lửng lơ.

 

cvk

________

“người đưa thư                     đã

      đi qua… ” (*)

CVK_Nguoiduathu.JPG

Nhà tôi ở lưng chừng một con dốc. Con dốc là cái rướn mình nấn níu của dãy núi chạy đùa xuống từ hướng bắc, tới giữa đảo bỗng khựng ngang, rồi cố trườn về phía con sông nước chảy xiết sau mấy dặm rừng thưa. Những ngày trở gió, hơi nước ẩm luồn qua các rặng cây cổ thụ, thổi thốc vô mặt mũi cái mùi thảo dã của đồng cỏ phía bắc. Những cơn gió thổi chừng không biết mệt, kéo ghịt người đi bộ lại từng bước. Áo choàng thả lỏng kêu phần phật, người đi lầm lũi giành từng thước đường lên. Cái hoạt cảnh đó diễn ra hằng ngày trước mắt tôi, sớm trưa chiều tối, từ hạ sang đông. Không vậy mà nhiều người vẫn cố tránh. Dễ chừng nếu không có gì hệ trọng, hẵn họ đã rẽ sang ngõ khác. Nhưng có một người không thể tránh, nắng mưa kể cả tuyết giá, ông ta vẫn lầm lì lội bộ lên cái đoạn đường quái ác đó. Người đưa thư của xóm tôi. Bộ đồng phục màu xanh biển và chiếc túi xách trì một bên vai vẫn là cái nét quen thuộc duy nhất của một khu gia cư mà những căn nhà thường đóng cửa im ỉm vốn không gợi được chút nào niềm thân mật.

 

Mỗi buổi sáng, khoảng 10g, người đưa thư đi qua…

 

Ở mấy cái xứ tân tiến này, nghề đưa thư không hẵn là một nghề hạ bạc. Mà không chừng với tổ chức nghiệp đoàn, họ còn sướng hơn nhiều lần những nghề khác. Không phải là cái hình ảnh gầy còm, hốc hác, thui thủi …

 

Không. Ở đâu không biết, chớ ở đây, họ hồng hào, tươi tắn, khỏe mạnh …

 

Vậy mà sao, trong tôi, hình ảnh người đưa thư vẫn phảng phất một vẻ gì đó lãng đãng rất phong sương. Có phải vì trong cái túi đeo vai của họ đang căng phồng gió bụi của đường xa còn bám đầy những phong thư kín chữ, gói ghém những thao thức nhớ, những nỗi niềm mong. Những người đưa thư đó đang làm cái việc nối lại những khoảng không vốn vẫn hay chia cách những tấm lòng.

 

Ðã lâu, khi mà người ta còn tụm năm tụm ba thành những chòm xóm tản mác xa xôi, cách núi ngăn sông, người đưa thư đã là những cánh tay nối dài, dài lắm.. từ một góc bàn viết, một khung cửa sổ hay cạnh một góc giường đơn chiếc … đến một góc bàn viết khác, một khung cửa sổ khác hay một cạnh giường đơn chiếc khác … từ một sườn núi nối tới một vực biển, từ một bờ sông nối qua một vàm rạch … Rồi từ xóm làng lan dần ra đường phố. Họ tẳn mẳn tỉ mỉ nhìn soi một số nhà, len lỏi một hóc hẻm, băng qua một đại lộ hay trèo lên một nấc thang. Họ biết hết, ông triệu phú trong ngôi biệt thự lộng lẫy, anh thư ký quèn trên căn gác lợp tôn, bà giáo già có đứa con trai đi trận, cô gái điếm còn bà mẹ ở quê … Họ biết mặt từng người, họ còn biết luôn cả tâm trạng của người đối diện. Họ đong lường được cái chờ mong, cái sốt ruột, cái hân hoan cũng như cả cái hững hờ. Có một thời, những tờ giấy, những ngòi bút và những dòng chữ… ờ những dòng chữ. Những dòng chữ với nét chấm phá gọn và sắc như có lá trúc xen ngang. Những dòng chữ ngoằn nghèo như phù phép bùa chú. Những dòng chữ thẳng đứng trượng phu. Những dòng chữ nghiêng nghiêng điệu cò bay lả cánh. Những ngòi bút lá tre chấm mực xanh xanh tim tím, những đầu bút tròn vo như viên bi … Còn những tờ giấy, ờ những tờ giấy trắng tinh thơm phức mùi nhựa thông đầu núi, những tờ giấy hồng phơn phớt chút hương hoa …

 

Có một thời, mọi thứ đó đã là vật tối cần thiết cho đời sống tinh thần và tình cảm của con người.

 

Lướt thướt trên mặt giấy lặng thinh, người ta cân nhắc một nét phẩy, một dấu chấm. Người ta nghĩ ngợi, người ta so đo. Nhớ thương vui buồn oán hận trách móc. Thăm hỏi hứa hẹn … Ðủ thứ, kể cả đôi khi chỉ vơ vẩn thứ chuyện mưa xuân với nắng hè …Trong sự yên lắng cùng cực của mặt giấy mênh mông, người ta nói chuyện với một người. Thầm thì hay rạo rực. Xốc nổi hay điềm đạm. Người ta nói, nói miên man, nói thay cho những đêm tỉnh mịch, nói thay cho những ngày vật vã. Những lá thư. Ờ, những lá thư. Những lá thư thay cho một tiếng kêu vui, những lá thư thay cho một tiếng khóc nghẹn. Khi những khoảng cách còn là những dặm trường. Những sông ngăn núi trở. Những yêu-em-anh-cũng-muốn-vô sợ-truông-nhà-Hồ-sợ-phá-Tam-Giang. Khi những khoảng cách mãi là những bức tường thành được dựng lên bằng lề thói xả hội, bằng tôn giáo, bằng giai cấp, bằng giàu nghèo sang hèn. Khi những khoảng cách giữa người và người được rào chắn bằng mọi kiểu, mọi cách, mọi thứ vô lý vô nghĩa vô nhân vô tình nhất.

 

Bất chấp cái đầu và con tim của con người chẳng có gì ngăn cách được.

 

Roméo và Juliette. Thử tưởng đến những dòng chữ ân tình đã lén lút viết gởi cho nhau bằng mực và nước mắt qua mấy bức vách đá lầm lì và những tấm lòng thù hận sân si. Những bức thư mà tiếng Việt còn gọi là những cánh thư dù những bức thư không có cánh. Phải chăng đó là một dụng ý rất tế nhị để gọi thứ phương tiện truyền đạt khi người ta không thể gặp nhau vì bất cứ một thứ trở ngại nào đó. Cánh, cánh chim, cánh thư ! Có còn một ẩn dụ nào kỳ diệu hơn nữa !

 

Ờ, những lá thư không mang cánh chim bằng mà bay qua vạn dặm để nối kết hai đầu của một nỗi nhớ mênh mông. Những cánh thư mỏng dánh mà xóa nhòa hết mọi biên giới trần gian để làm sum họp những đoạn lìa tức tưởi. Đã có một thời, những cánh thư ... Ờ đã có một thời, từ hai bên bờ một đại dương ngăn ngắt, những cánh thư bay qua bay lại để gởi nỗi héo hon của người ở lại tới người vừa bỏ ra đi. Và mang trả về bên bển, con mắt trao tráo của khuya hôm mất ngủ vì chợt đâu có một bóng trăng rơi xuống đầu giường. Những cánh thư mang theo từng cơn thắc thẻo của cha mẹ già khi bị bứt lìa xa từng núm ruột. Những cánh thư vàng vọt dấu thời gian, chui lách qua chằng chịt những cặp mắt cú vọ của đám giặc bất nhân, rồi bay chập chờn qua mù mịt biển...

 

Những ngày đó, từ sau cửa sổ, dòm chừng con dốc cao, khi bóng người đưa thư vừa trờ tới, đã có bao nhiêu lần trái tim còn trẻ bỗng như đập hụt một nhịp. Và một ý nghĩ thoáng qua. Cha mẹ mõi mòn bên đó. Trông thư . Mà lại cứ sợ một lá thư ... ! Bởi vậy thuở đó cứ vừa trông vừa sợ người đưa thư ghé lại nhà !

 

Thư tới chậm quằn đôi cánh mõi. Giấy võ vàng héo muộn đường xa. Dấu chấm nặng như từng viên sỏi. Ném vào tim ngàn trận phong ba ...

 

Dẫu vậy, những lá thư đâu chỉ để làm buồn. Những lá thư còn là những cánh én mang dấu hiệu của mùa xuân mới. Của thứ tình cảm dễ hiểu và cũng khó hiểu nhất của con người. Kiểu những Lá Thư dập dìu sóng nhạc của Đoàn Chuẩn Từ Linh viết đâu từ một thời tiền chiến Nhớ tới mùa thu năm xưa gửi nhau phong thư ngào ngạt hương nét bút đa tình lả lơi nhớ phút ngập ngừng lòng giấy viết rằng chờ đến kiếp nào tình đầu trong gió mùa (*)

 

Ờ những lá thư - giấy trắng mực đen hay giấy hồng mực tím - chứng tích của tình vui tình buồn tình thương tình nhớ tình sầu tình đau tình hận .. hầm bà lằn xắn cấu tình, tình nào cũng có, đã được ép giấu như xác bướm khô trong những tập sách hay được xếp cất cẩn thận trong hộp sắt hộp gỗ như đồ gia bảo hay đã bị ... phóng hỏa cho hả cơn ... thất tình.

 

Thử nhớ lại một thời mới lớn, giữa lúc mà lễ giáo nho phong còn là cái khung kềm giữ mọi động tịnh xả hội, gái trai thì muôn đời vẫn là ong bướm đương xuân, thì làm sao mà kềm giữ cho đành. Vậy rồi lỡ có mắt liếc mày ưa thì làm sao mà tỏ dạ. Những lá thư, ờ những lá thư. Những trang giấy xé ra từ tập vở học trò, mực tím mực xanh, chép vụng về một câu thơ bóng gió của ai đó, hay khá hơn, cắn bút, cặm cụi tả trời trăng mây nước để vụng ý một tâm tình, rồi cẩn thận xếp đôi xếp ba, nhét vào phong bì rồi nắn nót đề tên địa chỉ “ ai đó “ rồi len lén ghé một trạm bưu điện, rồi ngó trước ngó sau nhét đại vào thùng thơ rồi vội vã quay lưng bỏ đi như vừa làm một việc tày trời cứ sợ người quen bắt gặp. Mà cũng phải, ở cái tuổi mới nứt mắt thì có chuyện gì trọng đại mà phải thư với từ ngoài cái chuyện gởi thư với tình, thứ chuyện động trời thời đó. Thư đó. Thư tình mới lớn.

 

Lớn lên chút nữa. Anh tiền tuyến em hậu phương. Giữa cái thời nhộn nhạo lửa đạn thì ôi thôi hẵn không biết đã có bao nhiêu trang thư viết tay đã bay tới bay lui để kéo lại gần nhau một thành phố và một góc rừng, để nối lại một môi hôn còn lở dở. Thời đó, những người lính quân bưu đã vác những bọc thư với những địa chỉ KBC lạ hoắc theo những chiếc trực thăng bay tuốt lên những đồn binh treo lắt lẻo trên những chỏm núi vắt mây hay lún chân trong những bãi sình lầy để trao tận tay người ở đó mấy lời hỏi han lo lắng cầu nguyện ... của người ở nhà. Rồi len lách qua những ngõ hẻm, lặn lội qua những làng xóm ... người đưa thư ở thành phố lại đem về một lời trấn an, một câu dặn dò, một ước hẹn ... của người đi xa. Vậy đó, những lá thư và những người đưa thư thời đó đã cầm giữ, níu chặt từng mối thâm tình đang bị gió bão lung lay. Cho đến giờ, dẫu có cứng lòng cách mấy, mà có dịp nghe hay đọc lại một đoạn nhạc và lời của ông Trần Thiện Thanh trong cái thời lửa đạn đó mà không xúc động Thư của lính, ba lô làm bàn nên nét chữ không ngay Nhưng thư của lính ghi giữa rừng cây khi nhớ em thật đầy (**)

 

Ờ những lá thư viết từ một góc núi, ở một bìa rừng, kê giấy lên ba-lô, lên một tảng đá mà viết mà tâm tình mà hẹn hò ... dù năm bảy phút sau, lá thư đã bị bỏ dở nửa chừng vì một viên đạn quái ác. Ờ những lá thư, nét chữ run rẩy như những câu tâm kinh đứt khúc của bà mẹ xa con, của người vợ sinh con đầu lòng mà không thấy mặt chồng, của người tình trẻ nhớ một người tình trẻ ...

 

Thương hông, làm sao không xúc động. Đã có một thời, người ta viết thư cho nhau bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào vì sống và chết đã không còn ranh giới, vì sum họp và chia lìa không ai hẹn được. Chỉ còn những lá thư, với người đưa thư như những chiếc phao cuối cùng nấn níu cho những tâm tình sắp đuối.

 

Tình sử còn đầy những trang thư kín chữ mà mỗi dấu phẩy dấu chấm là những thao thức dằng dặc, mà mỗi tái bút là một ước mơ trăn trở, mà mỗi đợi chờ đã hiển hiện ngay từ khi vừa gác bút. Những lá thư tình của Napoléon và Joséphine mà chữ nghĩa quến đặc như mật ngọt dậy men.. Những lá thư của George Sands và Alfred de Musset mà tình ý đắm đuối ẩn tàng trong từng lớp vỏ chữ bọc ngoài (***). Gần với chúng ta hơn, 55 năm sau ngày mất, người con gái của Albert Camus đã cho phổ biến Correspondance 1944-1959, gồm 1255 ̣( một ngàn hai trăm năm mươi lăm ) trang chi chít chữ nghĩa say đắm như hoa với bướm, được trao qua đổi lại giữa nhà văn và người nhân tình giấu mặt, nữ kịch sĩ Maria Casarès. Một ngàn hai trăm năm mươi lăm trang kể lể nhớ thương, kêu rêu cách trở, và nồng nàn hơi hướm tình nhân ... của một nhà văn mà mỗi tác phẩm đều là một tra vấn sắc lạnh về bản thể của cuộc đời, mà tha-nhân-là-địangục, mà mọi tương giao chỉ là ngộ nhận, mà mỗi người trong chúng ta từ sinh ra đã chịu chung lời nguyền Sisyphe ...

 

Dưới ngòi bút của một văn nhân, tình yêu hiện ra lóng lánh muôn màu muôn sắc. Chữ và nghĩa không còn là những ký hiệu vô tình, mà ngược lại được vỗ về bằng chính sự chân thành, nỗi thiết tha, niềm đam mê, lòng trân trọng ... chữ nghĩa đó đã bay tung lên như đàn bướm lượn để tụng ca tình yêu. Và ngược lại, nhờ vậy tình yêu cũng trở nên tươi thắm như lá hoa được tắm mát mưa nguồn. Người ta yêu nhau. Và hạnh phúc trần gian là một cái gì có thật. Kể cả đến khi mất nhau vì định mệnh, niềm luyến ái giữa hai người vẫn không chút lạt phai. Maria Casarès. Quand on a aimé quelqu’un, on l’aime toujours. Lorsqu’une fois, on n’a plus été seule, on ne l’est plus jamais.

 

Làm sao kể ra hết được những lá thư tình giấu mặt, bay lẫn lút trong cõi thế gian vô tình, bay chấp chới trong cõi không gian vô tận. Vậy đó mà những cánh thư bay qua bay lại, mà nối kết những chia lìa, mà xóa mất những ranh giới nhân tạo ngăn cách những tấm lòng.

 

Đã có một thời, những người đưa thư ...

 

Thử tưởng đến những kỵ sĩ phóng ngựa trong đêm, qua đèo qua suối, để trao cho kịp một phong thư, nối cho kịp hai đầu một nỗi nhớ . Nắng lửa, mưa dầm, gió cuốn, sương sa ... đã có bao giờ làm chùn bước ... những người đưa thư ! Không. Tự như thời xưa họ đã gò mình trên lưng ngựa, qua truông qua ải, đến thời sau họ vẫn lầm lũi xuôi ngược khắp phố phường, qua ngã năm ngã bảy, len lỏi những hóc hẻm, leo trèo những bậc thang để giao tận tay một nỗi vui, một niềm buồn, một trách móc hay một chờ trông ... kể cả thắp lại cho những kẻ lỡ đường lạc bước từng chút niềm hy vọng. Làm sao quên được câu chuyện đẹp như một bài thơ của anh phát thư Mario mù chữ, mỗi ngày cong mình trên chiếc xe đạp cũ mèm, bánh lăn lao xao qua triền núi quanh co, trên một hòn đảo nhỏ ngoài khơi Địa Trung Hải để tận tay giao cho Pablo Neruda từng lá thư quê nhà khi nhà thơ bị kết án lưu vong, phải bỏ xứ ra đi. Từ đó nẩy sinh một mối giao cảm lạ lùng. Anh đưa thư nghèo mạt rệp trao tận tay người thi sĩ danh giá hình bóng của quê hương ngàn trùng. Đổi lại thi hào đã từng đoạt giải Nobel văn chương chuyển lại cho chàng trai quê mùa và dốt nát những ẩn dụ thi ca tuyệt tác. Chuyện phim dù là tưởng tượng nhưng sáng ngời tính nhân bản trong mối liên hệ giữa người và người. (****)

 

Những lá thư và những người đưa thư đã có một thời dính liền nhau như một. Và quí giá và cần thiết không kém gì cơm gạo bánh mì nước lọc ...

 

Vâng đã có một thời, những lá thư – không hạn định số câu số chữ mà chỉ bị giới hạn bằng chính xúc cảm của người viết, nghĩa là bằng chính một phần đời sống thật, lửng lơ hay cuồn cuộn, rạo rực hay rã rời ... Và người đưa thư, những bước chân đi nối lại những dặm trường ...

 

Vậy mà cái thời đó đã mất, hay sắp mất. Mà đã hay sắp thì cũng là đang mất.

 

Những lá thư chưa bao giờ có giới hạn vì lòng con người có gì để giới hạn đâu. Người ta vui, làm sao tính được vui mấy chữ mấy hàng. Người ta buồn, làm sao tính được buồn mấy câu mấy đoạn. Vậy mà đã tới lúc phải tính.

 

Cái thời đại tin học coi vậy mà ác nghiệt. Chẳng cấm chẳng cản mà rồi đến một lúc dưng không người ta quên mất những câu viết ân tình. Dường như đã đến lúc mọi chuyện, hỏi han, hẹn hò, nhắc nhở, than thở, trần tình ... ngay cả giữa những tình nhân còn đang lúc mặn nồng cũng đâm ra tiết kiệm từng chữ ... từng lời. Mấy cái «ấp » (app) trên mấy cái điện thoại cầm tay ( hay còn được gọi là điện thoại tinh khôn ) đã được tính toán sao cho gọn cho nhanh cho kịp ... tới nỗi rồi ra chỉ còn từng mẫu đối thoại cụt ngủn cụt ngẳn, cắt đầu ngắt đuôi ... dĩ nhiên chưa đến nỗi như Twitter hạn chế hỉ-nộ-ái-ố-ai-lạc-dục đầu đuôi vào 140 chữ, nhưng do tính chất và điều kiện xử dụng, tự ban đầu có mục đích là để nhắn tin, riết rồi thành thứ phương tiện thông tin, truyền bá, bày tỏ, thăm hỏi, rủ rê, mời gọi ... kể cả tự tình ... phổ biến phổ thông phổ cập nhất đời. Đôi khi để nhanh gọn hơn nữa, óc sáng tạo của con người sáng tới tạo ra những hình tượng emoji để thay cho chữ viết, thứ ký hiệu ngoằn nghoèo mà lắm khi vì vội vã bấm sai bấm lộn lại phải bấm lại, dấu hỏi hay dấu ngã, có “g” hay không có “g”, nghĩa là thay luôn cái giọng điệu ngọt ngào âu yếm nũng nịu vui mừng ... hay ngún ngẩy giận hờn của cái thời lãng mạn giờ xưa còn hơn trái đất xưa. Một trái tim là yêu. Hai trái tim là hai lần yêu hơn. Ba trái tim là yêu gấp ba. Và cứ vậy mà yêu thương thả dàn, cứ đếm số trái tim mà đo lường nồng độ của tình cảm. Tình phụ thì trái tim bị chẻ đôi. Dễ ợt và chính xác như một cộng một là hai. Vui ( thích, khoái, chịu ... ) thì hình vẽ cái mặt tròn quay với cái miệng toe toét hai khóe cong lên như cái dấu á “ v ” , còn buồn ( quạo, giận, hờn... ) thì cong xuống như cái dấu ớ “^”. Hay thì ngón cái giơ lên. Dỡ thì ngón cái chúc xuống. Rủ uống cà-phê thì có hình tách cà-phê bốc khói. Mời rượu thì có ly rượu nho đỏ hỏn. Hù dọa thì có sọ người. Dụ dỗ thì sẵn cây kẹo ngọt. V.v... và v.v... Đủ hình đủ kiểu đủ ý đủ nghĩa. Nhanh, gọn và khỏe re khỏi phải ỉ ôi dông dài dai dẳng dằng dai ... Những hình vẽ với dụng ý khôi hài, giễu cợt, ấn tượng, siêu hình, tượng trưng, tả thực ... tả-pín-lù thập cẩm vậy mà ăn khách vô cùng, vậy mà trám vừa đủ chỗ cho cái kho tàng ngôn ngữ và chữ viết của mọi giống người đủ mọi gốc gác. Cái tháp Babel có cơ may được dựng lại. Ở hai đầu một mối thân sơ, hai bên đều thoả mãn cái lối nói dấm dẳn, vụt vặt, vu vơ ... Thời đại kỷ-thuật-số, gom lại chỉ còn cái số-không và số-một.

 

What’s ap, Messenger, Viber, SMS ... ôi thôi kể ra mà lẹo lưỡi, cái nào cũng hay cũng nhanh như sao xẹt. Chớp nhoáng. Tức thì. Nghĩ cũng phải. Khách đường xa sắp sửa đăng trình bằng những đoàn tàu Hyperloop với tốc độ cả ngàn cây số một giờ thì tiếc chi ba cái lời nhắn nhủ hay dặn dò kể lể lê thê ... Mặt đất ai nói mênh mông phút chốc gần hơn Kẻ Chợ. Kể ra tiện lợi thì không có gì tiện lời cho bằng. Lại thêm không thể không gật gù thán phục. Nhìn những người trẻ hôm nay trao đổi với nhau trên bàn phím ảo -nhỏ hơn lòng bàn tay con gái- chỉ bằng hai ngón tay cái mà thiên biến vạn hóa. Chữ nghĩa ở đâu mà hiện ra cứ vùn vụt như gió cuốn mây bay. Cho dù xa vạn dặm, mới hắt mủi là đối tượng hay liền. Thiên lý nhản với thuận phong nhỉ trong truyện tàu ngày xưa cũng chỉ thiên biến vạn hóa tới vậy là cùng. Được vậy người ta lại càng thấy gần gũi nhau đến không còn một ly cách trở. Có điều, nếu thuyết tiến hóa của Darwin mà đúng trăm phần, hổng chừng thêm năm mười thế hệ nữa, hai bàn tay sẽ chỉ có hai ngón cái là to, chắc và dẻo nhẹo, tám ngón còn lại có thể teo tóp đến nỗi chỉ còn dùng để ... phe phẩy.

 

Nhất là hết nghĩ xuôi rồi lại nghĩ ngược, nghĩ tới nghĩ lui rồi đâm ra cũng thấy ngẩn ngơ đôi chút.

 

Mai mốt còn đâu những tâm tình ẩn mật mà viết rồi lại xóa, xóa rồi lại viết, trang này sang trang khác, tờ trước nối tờ sau, thư-viết-đừng-xong-thuyền-trôi-chớ-đỗ, cho-nghìn-sau-lơ-lửng-với-nghìn-xưa ... Mai mốt còn đâu những tâm sự tỉ tê kiểu rủ rỉ rù rì không đầu không đuôi mà lê thê không muốn dứt ... dĩ nhiên rất mất thì giờ, nhưng lắm khi người ta lại muốn mất thì giờ hơn là có thì giờ để ngồi ngắm cái bóng chiếc trong cái phòng không. Mai mốt còn đâu những trông những ngóng, những chờ những đợi một hồi âm ... Hổng nhớ sao, hồi đó ông Châu Kỳ ổng viết bài Sao không thấy hồi âm rồi cô Hoàng Oanh cổ hát nghe mà đứt ruột. Nhưng dẫu đứt ruột mà nghe ra đã làm sao. Hổng đã sao được. Có chỗ để mình trang trải tâm sự rồi nuôi nấng một đợi chờ. Hổng hơn cái lòng trống rổng, cái đầu trống trơn mà thời gian thì trống hoác sao ? Mai mốt còn gì để lại cho đời kiểu ông Lôi Tam những năm 60-70 “... nếu em trách tôi sao hờ hững, tôi chỉ mỉm cười mà chẳng dám thanh minh. Em đâu biết tôi đã thức suốt năm canh viết lên bóng tối muôn vạn bức thư tình chẳng bao giờ chấm dứt “

 

Muôn vạn bức thư tình chẳng bao giờ chấm dứt. Còn gì đẹp cho bằng những bức thư tình viết hoài viết hủy, viết như lên cơn đồng thiếp, mà mỗi lời mỗi chữ là mỗi khai phá những trầm tích của lòng, không đường nét không màu mè mà lại lồng lộng bóng sắc, như hương của hoa và tơ nhện của tình mà người ta đem tặng cho nhau để xoa dịu bớt những sắc mắc của đời vốn dĩ không lấy gì làm êm ả.

 

Từ những năm 50, nhạc sĩ Trịnh Văn Ngân đã viết một bài nhạc có tựa là Người đưa thư đã đi qua. Không biết ông ta có linh cảm điều gì không mà cho người đưa thư lẳng lặng đi qua, qua luôn không ghé lại. Vô tâm tiếng chân đều đều vang theo ai bước đi Xa xa cứ xa dần dần trong khi tim ta muốn lắng ... (*****)

 

Ờ đã tới thời những lá thư bị cắt cụt cánh.

 

Và người đưa thư, người bạn trung thành của không biết bao nhiêu tình nhớ tình mong tình chờ tình đợi ... đã đi qua, đi qua luôn. Và hổng chừng không còn quày trở lại nữa!

 

                                                                                     Cao vị khanh

 

(*) Tựa bài nhạc của Trịnh văn Ngân xuất bản năm 1953

(*)Lá thư - Đoàn Chuẩn Từ Linh

(**)Thư tình của lính – Trần Thiện Thanh

(****)Lettre d’amour de George Sand pour Alfred de Musset

En apparence il s'agit d'une simple lettre d’amour. Pourtant, si vous lisez seulement une ligne sur deux, vous découvrez un texte caché.

Lettre de George Sand à Alfred de Musset :

Je suis très émue de vous dire que j'ai

bien compris l'autre soir que vous aviez

toujours une envie folle de me faire

danser. Je garde le souvenir de votre

baiser et je voudrais bien que ce soit

là une preuve que je puisse être aimée

par vous. Je suis prête à vous montrer mon

affection toute désintéressée et sans cal-

... et si vous voulez me voir aussi

vous dévoiler sans artifice mon âme

toute nue, venez me faire une visite.

......................................................................

.........................................................

........................................

( tự ý đục bỏ )

La réponse d'Alfred de Musset :

(Lire le premier mot de chaque ligne)

Quand je mets à vos pieds un éternel hommage

Voulez-vous qu'un instant je change de visage ?

Vous avez capturé les sentiments d'un cour

Que pour vous adorer forma le Créateur.

Je vous chéris, amour, et ma plume en délire

Couche sur le papier ce que je n'ose dire.

Avec soin, de mes vers lisez les premiers mots

Vous saurez quel remède apporter à mes maux.

Et la réponse de George Sand :

(Lire le premier mot de chaque ligne)

Cette insigne faveur que votre cour réclame

Nuit à ma renommée et répugne mon âme.

(****) Il Postino

(*****)Người đưa thư đã đi qua – Trịnh Văn Ngân

_________________________________________________

CVK_lucbat.jpg

Không biết tôi thích lục bát từ hồi nào ?

Có điều chắc là không phải đợi đến lúc mon men bước lên bậc trung học mới học lóm được mấy câu thiệu kiểu yêu-nhau-mới-tặng-ảnh-này xin-đừng-giận-lẫy-và-đừng-xé-đôi. Ờ... sao cái tuổi đó ngây ngô đến độ bạ đâu cũng tưởng là thơ ráo trọi. Mà rồi cũng không phải đợi đến khi gặp thơ thứ thiệt cỡ những câu lục bát tuyệt vời của Huy Cận nai-cao-gót-lẫn-trong-mù-xuống-rừng-nẻo-thuộc-nhìn-thu-mới-về rồi mới đem lòng mê thích. Mà không mê sao được. Ai biểu lục bát cũ rích đâu không biết. Chớ lục bát của ông họ Cù này làm đâu từ những năm 30 mà vài chục năm sau đọc lại còn như thấy mới nguyên.

Đọc thử một bài lục bát tuyệt vời khác của Cao Thị Vạn Giả những năm 60 coi. Tuyệt cú.

Tiễn anh ra tận phi trường.

Lỗi đi. Lỗi ở. Mười phương lỗi về.

Mù sương phi cảng não nề.

Thôi anh. Ở lại buồn về em mang...

 

(Chỗ này thì phải chấm phết xuống hàng cẩn thận mới thấy đuợc cái điên đảo của chữ nghĩa trong lục bát Cao thị...)

Rồi Cung Trầm Tưởng mình-tôi-với-phố-giăng-cao-với-cồn-tuyết-tịnh-buốt-vào-thịt-da

Rồi Viên Linh. Rồi Hoài Khanh. Rồi... Toàn là thi thánh với thơ thần...

 

Tôi mê lục bát lâu hơn vậy nữa, hình như ngay đâu từ lúc còn đèo bồng với má, và cũng từ má mà mê, bắt đầu bằng những câu sáu tám "nhà quê" lắm, cỡ như là ví-dầu-tình-bậu-muốn-thôi-bậu-gieo-tiếng-dữ-cho-rời-bậu-ra-bậu-ra-bậu-lấy-ông-câu-bậu-câu-cá-bóng-chặt-đầu-kho-tiêu-kho-tiêu-bỏ-ớt-bỏ- hành-bỏ-ba-lượng-thịt-để-dành (cho) em-ăn... ầu ơ... ớ... ơ... Ờ từ cái thuở còn lẩn quẩn bên chân má, nghe má nằm võng, hát (ngâm? hò ? ) đưa cháu ngoại ngủ khi chị tôi phải ra trường dạy học. Tôi thì bị cho ra rìa, nằm trên bộ ván gõ kê sát bên. Thử tưởng lại một buổi trưa nào đó, một buổi-trưa-nhè-nhẹ-như-ca-dao, ở một thành phố nhỏ nằm lấp lửng trên mấy giồng đất phù sa của miệt sông Tiền sông Hậu, nắng lấp lóe chập chờn trên đầu cây đứng gió, tiếng võng đưa kẽo kẹt đều đều, và tiếng ầu ơ buồn buồn đưa cái ngủ đậu vật vờ lên hai con mắt... ầu ơ ... ví-dầu-cầu-ván-đóng-đinh-cầu-tre- lắt-lẻo-gập-ghình-khó-đi-khó-đi-mượn-chén-ăn-cơm-mượn-ly-uống-rượu -mượn-đàn-kéo-chơi... ầu ơ... ví-dầu-cậu-giận-mợ-hờn-cháu-theo-cùng-cậu –kéo-đờn (cho) cậu-nghe ầu..ơ... ớ... Câu này nối theo câu nọ, lê thê... không dứt, mà câu sau thì không ăn nhằm gì với câu trước, cứ ầu ơ với lại ví dầu tràng giang đại hải, hết má-ơi-đừng-gả-con-xa nghe tới chảy nước mắt rồi nhảy qua cái chuyện đèn-Sài-gòn-ngọn-xanh-ngọn-đỏ với đèn Mỹ-Tho-ngọn-tỏ-ngọn-lu thiệt tình là chẳng ăn nhằm gì với nhau ráo trọi. Vậy mà đứa nhỏ cứ ngủ ngon lành, thằng bé nghe ké cũng ngủ lê mê... và đôi khi người ru cũng ngủ chập chờn theo luôn, ngủ mà miệng cứ ầu ơ và tay cứ nắm sợi giây kéo tới kéo lui cho võng đưa qua đưa lại... ầu ơ... một-mai- thiếp-có-xa-chàng-(chớ) đôi-bông-(thì)-thiếp-trả-(mà)-đôi-vàng-(thì)-thiếp xin... à...ơ... ớ... ví-dầu-ví-dẩu-ví-dâu... làm như người ru cũng chẳng cần để ý tới cái lô-gíc của mấy lời thốt ra nữa. Nói như cho có nói. Không đầu không đuôi. Bạ đâu nói đó. Mấy tiếng ầu ơ thì như thể đưa hơi bắt giọng mà cũng như còn để lấy trớn bắt quàng qua một chuyện khác. Mà điều sáu tám nối liền sáu tám liên tu bất tận không thua chút nào cái trò nhả ngọc phun châu của đám thần đồng thất-bộ-liên-hoa hồi xưa hồi xửa...

Vậy là tôi mê lục bát từ hồi đó lận. Và chính bằng những câu lục bát quê mùa đó mà tôi lọt vào mê hồn trận của lục bát lúc nào không hay. Mê tới nhập tâm... rồi lớn lên có lúc mượn đỡ xài luôn cũng tiện... Mà không mê sao được. Coi nè. Một cặp luc bát 14 chữ. Bằng bằng trắc trắc bằng bằng. Bằng bằng trắc trắc bằng bằng trắc bằng. Có vậy thôi, dễ ợt. Vậy mà thiên biến vạn hóa. Nói chuyện gì cũng được. Mà nói chuyện gì cũng hay. Không- tin-dở-nắp-ra-coi...

Khác với mọi loại thơ khác, mỗi loại chuyên trị một thứ, lục bát thì có thể trị bá chứng. Từ tỏ tình đến thất tình, từ chung thủy đến phụ bạc, từ vui đến buồn, từ giởn hớt chọc phá đến nghiêm trang răn dạy... cái gì lục bát cũng làm được hết. Mà làm tới nơi tới chốn, đâu ra đó mới là kỳ. Nghiệm lại thì hình như chính cái luật mà không lấy gì làm nghiêm nhặt của nó đã thả lỏng ý tưởng thành ngựa không cương. Chữ nghĩa và vần điệu cứ mặc tình dong ruổi nên ý tứ cứ mặt tình mà phô trương. Thử coi.

Cái hồi tóc còn mượt, chân cẳng còn dịu nhĩu và trái tim còn lăng xăng như con lật đật, cứ xách mấy "bài tủ" đó ra xài là dễ ăn khách lắm. Không biết cái anh con trai đi tát nước giả bộ bỏ-quên-cái-áo có kết quả gì không hay là mất tiêu luôn cái cớ-sứt-chỉ-đường-tà đó chớ còn tôi mỗi khi hát bài sáu tám anh-đi-lục-tỉnh-giáp-vòng-tới-đây-trời-khiến-xui-lòng-thương-em là mười tuồng đã ăn khách tới tám chín. Còn lời tỏ tình nào thiết thực, chắc mẽm như thể dang tay ra mà đo được lòng người bằng chính cái dặm đường lòng vòng sáu tỉnh đó nữa. Tơ tình nào mà không động đậy trước sự chân thành tới độ lấy thước mà đo được đó. Phải không?

Còn cái lúc bị tình phụ, cứ giở cái giọng âu sầu kiểu tai-nghe-bạn-cũ-có-đôi- trong-lòng-bối-rối-như-vôi-mới-hầm thì dẫu cho gan đồng dạ sắt đi nữa mà lỡ để lọt tai thì cũng chảy thành nước chớ đừng nói đến nhi nữ thường tình. Cái lòng bối rối của người bị tình phụ mà đem so sánh với vôi mới hầm thì còn gì tượng hình cho bằng. Nó âm âm i ỉ, reo réo eo xèo, nổi bọt li ti, sôi không ra sôi mà nguội cũng không ra nguội, giống hệt cái kiểu ngồi không được mà đứng cũng không yên, lăng xăng lích xích như đau không ra đau, bệnh không ra bệnh... Nó thật còn hơn cái có thật nữa. Tài hoa của người làm thơ cộng với tài hoa của lục bát làm thơ như trở thành đồ thiệt, có thể đem ra cân đo đong đếm được vậy.

Vã lại cái âm điệu của lục bát nghe hay lắm. Lúc thì lê thê như chèo chống mỏi mê. Lúc thì ào ào cứ như lên thác xuống ghềnh. Nó uyển chuyển thay đổi theo tâm theo ý theo chữ theo nghĩa mà lên bổng xuống trầm cùng với kiểu ngắt nhịp bất định làm lòng người vụt hăng lên hay trìu trĩu xuống. Làm trai cho đáng nên trai. Xuống đông, đông tỉnh, lên đoài đoài tan. Chừng mạnh thì cũng đủ sức hô hào. Mà nhẹ thì cứ như tiếng thở dài khuya khoắt. Anh buồn còn chốn thở than. Em buồn như ngọn nhang tàn thắp khuya... Trời ơi nghe mà như thấy cả đêm cô phụ bay lả lả theo sợi khói ủ ê... Ai mà làm thơ như chọc gan chọc ruột vậy...

 

Cũng tại vậy đó mà tôi mê lục bát...

Mê lắm...

 

Rồi đến một lúc, khoảng giữa những năm 60-70, ở miền Nam bỗng nổi lên những câu lục bát êm ru như tiếng dỗ em thuở nhỏ, mà ý tứ thì nồng nả nhưmấy điệu huê tình trai  gái dỗ nhau. Lẩm nhẩm vài ba câu bất chợt là đã thấy khoái cả ngày. Vai nghiêng nghiêng suối tơ huyền. Đôi gò đào nở trên miền tuyết thơm... (*)

Không đã sao được. Sư môn nói chuyện văn nghệ đã lạ. Mà nói ra hoa bướm lại càng lạ hơn. Lạ tới mê mẩn tâm thần. Lời đồn về một nhà sư làm thơ tình... Phạm Thiên Thư. Yêu nhau từ độ bao giờ. Gặp đây giả bộ hững hờ khói bay. Trời ơi cứ tưởng tới cái đám con trai con gái mới lớn, chập chửng đòi yêu mà đọc tới cái câu lửng-lơ-con-cá-vàng đó là sướng tới xanh dờn cả mặt. Ông ta giam mình trong cửa thiền thăm thẳm mà rành tâm-lý-ái-tình không kém gì bà Tùng Long như vậy thì không biết đường tu hành của ông tới đâu chớ còn đường tình thì phải tôn ông ta là sư phụ... Tại sao trong tự điển có đủ thứ sư mà không có chữ tình sư vậy hả ?

 

Thôi thì em chẳng yêu tôi. Leo lên cành bưởi nhớ người rưng rưng... (*)

 

Phải là người đi sớm về trưa mê mỏi với tình mới có thể nói lời đường mật tới vậy.

Đã tình như vậy thì kinh kệ có làm xa tục lụy không nhỉ ?

 

Cũng đã có nhiều lời bàn về thơ của ông sư họ Phạm. Rằng tình rằng em rằng hoa rằng bướm cũng chỉ là mấy ngón-tay-chỉ-trăng. Thấy trăng rồi thì quên tay đi chớ nấn níu làm chi mà mang tội...

Tôi thì tôi không tin vậy. Trong cái đầu rất hay mơ mộng của tôi thuở đó, nếu đã có một Tiêu Sơn tráng sĩ, đầu cạo trọc, tay bưng rượu tay múa kiếm mà tâm tưởng vẫn phiêu bồng ở cõi Quỳnh Như thì tại sao không thể có thiền sư tay gỏ mỏ tay làm thơ yêu em như cái Lão Ngoan Đồng tay vẻ vòng tròn tay vẻ ô vuông theo thế Song thủ hổ bác... Có cái gì là rặt trắng rặt đen đâu. Chỉ có trắng trắng đen đen thôi. Vả lại trắng ra trắng đen ra đen thì có cái gì mà đáng nói. Hễ yêu ra yêu ghét ra ghét thì cái cõi đời này làm gì còn mộng với mơ nữa. Và làm gì còn những động hoa vàng ở chỗ hang sâu rừng thẳm để chui vô mà nấn níu... nhớ nhau. Vào hang núi, nhập niết bàn. Tình anh nở đóa hoa vàng cửa khe...(*)

 

Lục bát làm tới vậy thì đến Nguyễn Du chắc cũng vừa ý. Vừa nhẹ nhàng mà thâm thúy. Vừa chắc mẽm mà hồ như. Vừa vần điệu mà bay bổng. Có điều dưa muối tương chao mà thơ thì mặn lắm. Sáu tám ỏm ờ cái điệu làm bộ làm tịch, chạy chối quanh co đổ thừa này nọ mà lòng thì vốn đã chẳng-nọ-thời-kia. Giọng thơ lơ lửng, lưng chừng theo kiểu tay nào nghiêng nón thơ che. Tay nào lần chuổi bồ đề xanh xao.(*)

Chữ nghĩa cũng hư hư thực thực, mơ mơ màng màng, hiểu sao cũng được... vuông cũng được mà tròn cũng được. Thơ ở đó mà tình cũng ở đó. Vạc rằng thưa bác Thiên Thư. Mặc chi cái áo thiền sư ỏm ờ.(*)

 

Ờ mặc chi cái áo thiền sư ỏm ờ . Mà hỏi làm chi. Áo nào mà chẳng ỏm ờ, chẳng qua chỉ để che đở mấy cái hình dong tạm bợ mà lại giống hệt như nhau. Không phải đã có ai nói thân xác chỉ là cái giá để móc quần áo đấy thôi. Giá áo thì có cái nào khác cái nào đâu. Cũng là tứ đại với ngũ uẩn. Cũng là lục dục thất tình. Diệt Tuyệt sư thái mà vẫn còn ham hố đánh đấm hàm hồ. Nói chi cái đám thế nhân lục lục thường thường lội qua suối rồi mà còn đèo bồng cái chuyện bên kia suối...

Ta về niệm Phật đại bi.

Phật xa xôi quá, em thì gần hơn

Ngày xưa dâng Phật nửa hồn

Chiều nay em tới... ta còn góc tư ! (**)

 

Tới đây thì phải nói tấm lòng sân si của tôi chỉ còn có góc tám trước cái ảo hóa của thi ca. Chuyện đời chuyện đạo mà miệng lưỡi trơn lu lại tròng tréo như cái hình âm dương lộn lạo thì quả là tài hoa hết mức. Lục bát nghe ra nặng trì như một tấm lòng hệ lụy mà lại nhẹ tênh như một cánh hạc bay qua. Đôi ba mươi năm sau ông sư ỏm ờ họ Phạm, lục bát có thêm ông sư lấp lửng Toại Khanh thì quả là trời xanh có mắt. Cái nòi tình chủng còn có cơ bám rễ lâu dài...

 

Cuối năm 2001, khi trở về từ một chuyến đi xa, tôi được người quen nhét vội vào xách tay, tập sách mỏng vừa "thỉnh" được ở đâu đó, để đọc đi đường. Lòng cuối năm chừng đâu cũng lạnh và cứ chông chênh như chuyến bay ngày trở gió. Tập thơ có tựa Nụ cười Tuyết Lãnh và tên người lạ hoắc Toại Khanh. Từ mấy dòng đầu tiên, tôi đã thấy mây ở đâu mà như ùa vào cửa kiếng và chuyến bay sau đó cứ lênh đênh như một cuộc vân du... Ba nghìn thế giới vo tròn. Nhỏ lên giọt mực chỉ còn trang thơ.(**) Ô hay thơ ở đâu mà bỗng về nhiều vô số kể. Mà bay bổng. Mà trầm uất. Mà tươi rói. Mà chín mùi. Mà xả láng. Mà đắn đo. Mà ngộ thiền. Mà lụy tục. Mà... ba mươi năm một nỗi buồn. Nghìn lo toan, một vô thường tro bay. Muốn về đánh giấc hiên mây. Chợt nghe bến tục tiếng ai gọi đò.(**)

Lục bát suông như tiếng cười ấm ran trong cổ họng, mà thắc thỏm như tiếng gọi đò ơi ới giữa đêm khuya. Lục bát êm ru như tiếng dỗ em mà dằn vặt như một nỗi nghi ngại.

 

Cỏ hoang ngỡ cọng cải trời. Hái bỏ vô nồi, ta khóc mình ngu. Mươi năm rồi, mặc áo tu. Đạo đi nhầm mãi...mịt mù bước đi...(**) Đọc mà thương hết sức. Cũng lại một giống tài-tình-thiên-cổ-lụy!

Thiền môn chắc cũng giống như quyền môn thăm thẳm giam khóa người tình của Trương Tịch vậy. Vào trong đó rồi cứ như cá mắc câu, lúng ta lúng túng, bỏ-thì-thương-mà-vương-thì-tội nên thơ nghe ra đau đến đoạn đành. Ta về biê ̉n chẳng thấy em. Bỏ về non lại một phen mất người. Về sông cánh nhạn lưng trời. Vào phòng đóng cửa thấy người trong tranh.(**)

 

Ông Toại Khanh ơi, nghe đâu ông lánh bụi trần đằng sau cánh cửa tùng dầy cộm mà thơ của ông thì cứ lấp ló mấy dấu chân quên lại ngoài cõi ta bà. Em viễn phố. Ta giang hà. Mình cùng lỗi hẹn. Thế là mất nhau. (**) Mà hổng chừng cũng tại cái tâm vô định mà lại cứ muốn định nên thơ đâm ra lửng tha lửng thửng. Chữ nghĩa cứ như có khói có sương vờn quanh, lênh đênh lãng đãng đến vô chừng. Em về trẩy lá nương dâu. Ta đi thương hải cơ cầu Vũ môn. Một đêm chân mõi gối chùn. Mới hay từ bấy mình chung nỗi khờ.(**) Nỗi khờ nào vậy. Hay chỉ là nỗi tiếc nuối vô vàn cho lần trễ hẹn với định mạng. Sẩy có một khúc quành mà trệt hẳn đi nhau, thành ra lạc mất nhau luôn như hai mảng tinh cầu vào trật một quỹ đạo... lạc mất nhau luôn trong khoảng tối tuyệt cùng...

 

Tự thân lục bát thiệt là giản dị, giản dị tới độ làm thơ quảng cáo thuốc sơn đông cũng được. Cứ bốn-câu-ba-vần là ra ngay. Nghĩ mà tội cho thể thơ đã phát sinh từ nết tài hoa của một dân tộc sính thơ. Được lắm kẻ ưa người thích thành ra nhiều lúc cũng lấm lem bụi đất. Bởi vậy mà lâu lâu đọc được mấy câu lục-bát-mai-cốt-cách-tuyết-tinh-thần lòng cứ ngơ ngơ ngẩn ngẩn phiêu diêu như chợt thấy bóng hạc về một buổi thu phân.

Tên ta là lãng

Em tên nguyệt

Cuộc đời tên giang

Cho trăng nước tương phùng

Ta làm thân sóng dặm trùng Em rơi trên đấy

Mình cùng trầm luân (**)

 

Trầm luân hay thăng hoa làm sao biện biệt. Đời là nước cuốn, ta là gió, em là trăng, thơ là mộng ảo cho gió trăng sông nước tụ họp một lần thì dẫu thiên thu cũng phải sựng lại làm chứng cho cuộc phối ngẫu tuyệt cùng. Một lần thôi đã đủ. Thì trầm luân hay thăng hoa có đáng kể gì đâu.

 

Làm thơ lục bát mà nghe như xua cho nước chảy, thổi cho mây bay, chữ nghĩa thong dong không rán không cố, không o không ép, không cưỡng không cầu, suông sẻ trơn lu mà tình thì đầy ứ như con nước rong lênh láng. Làm thơ như vậy, đạo thì không biết lúc nào mới "đắc" chớ tình thì hẵn là "đắc" phải biết. Lục bát như vậy làm sáng danh cửa thiền không kém gì kinh kệ. Mấy ông sư nhà Lý hành tàng như rồng thấy đầu mà không thấy đuôi. Còn mấy ông sư thời nay đầu đuôi gì cũng lấp ló. Thành ra đạo đời nhập cục gần ơi là gần. Lục bát là cánh tay chỉ trăng. Mà nếu là tay ngà thì sao chỉ thấy trăng mà không thấy tay. Uổng vậy.

Ông Toại Khanh ơi xin ông thứ lỗi. Ông đã cẩn thận dặn dò cả những tiếng Ta Em Thương Nhớ , rải rác đây kia cũng chẳng qua một chỗ neo thuyền bên bờ cỏ. Qua sông rồi thuyền còn bỏ lại, nói gì chỗ buộc dây.

Ờ thì chỗ buộc dây không nói tới. Nhưng còn những dấu hài ? Bây giờ hải giác thiên nhai. Lối mòn là một dấu hài cuối sông.(**) Người xưa kẻ đã ném nón qua sông, người đã cởi trâu xanh đi vào núi biếc thì nhắc làm chi những dấu hài để lại. Mà có sá chi một dấu hài. Dẫu hằng hà vô số dấu đi nữa thì cũng là không. Mười năm sau giữa tịch liêu. Vết người... là một mái lều vắng không.(**) Vậy chớ cuộc lữ này chẳng phải một chuyến đi không về sao? One-way ticket. Ta cầm chiếc vé one-way. Theo em mấy buổi lội về rả chân. Tình trôi về phố mù tăm. Trái tim lộng gió đêm nằm phát run. Làm thơ gởi cõi vô cùng. Em vô trụ xứ tình không chốn về.(**)

Vậy thì dặn dò làm chi nữa cho mắc công. Ta Em Thương Nhớ... Ông... Tôi... hay gì gì đi nữa... lục bát cũng chở hết... cũng đưa cho qua sông rồi đi biệt ... Cái còn lại là mấy dòng lục bát... còn lại là mấy dòng lục bát ngất ngưởng trên con sông đời bát ngát, vô thủy vô chung.

Thiện tai. Thiện tai.

 

Tản mạn như vậy chắc đã vừa đủ lan man. Nhưng sao còn thấy ấm ức. Dường như gần đây đâu phải lục bát chỉ rặt một điệu êm ru, ru đưa người ta vào cơn trường mộng. Không, lục bát còn có cái giọng sắc lẻm, lý lẻ bén ngót như lưu cầu, nhọn hoắc như mũi trủy thủ, cắt đâm tùng xẻo, lôi kéo xềnh xệch người ta về cõi thực. Thơ phóng ra như xô đẩy, vây đuổi, thanh âm dày xéo, cắn đắng, giằng co, trì kéo như cứa vào tâm não, rờn rợn như tiếng mã vĩ cọ vào giây đồng ... bắt người ta đối diện với mình, với quá khứ mình, với hiện tại và cả với tương lai là cái chưa từng có. Bắt người ta ngó trừng trừng vào thân phận, vào định mạng, vào hư vô, vào cái còn, vào cái mất, vào thế giới bên ngoài trống trơn, vào thế giới bên trong trống hoác... Lục bát không còn êm đềm, lục bát trở nên dằn vật, khắc khoải, rêm nhức như cái thời đại của nó.

 

Thời đại của chia lìa khốn đốn, của tan rã thất lạc, của mất tăm biệt tích, của ngộ nhận làm thinh, của đui mù câm điếc, của Tôn Tẩn giả điên, của Bàng Quyên hống hách... Lục bát của Hoàng Xuân Sơn.

Mỗi lần đi

một hỏi đường

tôi chậm lụt giữa nộ cuồng thế gian

giữa trăm khốc liệt giăng hàng

tìm đâu

tôi ?

ở ngổn ngang sự tình (***)

 

Thơ của ông họ Hoàng này dữ dội lắm. Lục bát không còn hiền khô ngún nguẩy làm bộ làm tịch ra cái-điều-em-chả nữa. Lục bát nói thẳng thừng huỵt toẹt ngay bon đúng phóc. Ai trúng tim đau ráng chịu. Lục bát của cái thời khói sương đã ô nhiễm, mùa màng đã điên đảo, trái đất đang hấp hối và nhân loại sắp điêu tàn. Lục bát của cái thời ngôn ngữ đã không còn là nhịp cầu thân ái mà đã trở thành bẫy sập, là lũ âm binh trong tay phù thủy đi gieo rắc tai ương. Lục bát cũng phải hoá thân để chui vào địa phủ.

Đêm =

tiếng thét hoảng kinh

ngày +

thêm nỗi dị hình cưu mang (***)

 

Lục bát không thèm lẫn tránh cái sự thật hiện tiền nữa, không chịu quanh co tránh né nữa. Nó làm cái công việc chứng nhân thiệt thà bằng cung cách rất chững chạc về cuộc trầm luân của thập loại chúng sinh. Chững chạc đến lạnh người.

Mặt đất quanh ta đã co lại. Trăng lầy dấu phàm phu. Hoa lấm lem tục tử. Suối róc rách chỉ còn lại trong nhạc Văn Cao. Và mơ và mộng sẩy non. Và tình yêu và nhân nghĩa chết yểu.

Buồn cho nên đã không còn buồn vơ buồn vẩn buồn thiu buồn thỉu. Buồn là buồn. Chấm hết. Không có buồn buồn. Chỉ có buồn bực. Âm trắc khô khốc như tiếng đóng cửa. Bít lối. Buồn là hết thuốc chửa. Buồn là buồn. Vậy đó. Ngoại cảnh không còn ăn nhằm gì với tâm cảnh. Không còn cái này nâng đỡ hoặc san sẻ cái kia cho nhẹ bớt. Không còn buồn-trông-cửa-bể-chiều-hôm-thuyền-ai-thấp-thoáng-cánh-bườm-xa-xa nữa. Không còn cái buồn-vọc-nước-giỡn-trăng-nước-xao-trăng-lặn-buồn-ơi-là-buồn nữa. Buồn vậy phong nhã lắm. Buồn vậy lãng mạn lắm. Bây giờ buồn là buồn. Vậy thôi. Cái buồn đặc cứng như một khối vật chất ù lì, độc lập, kiêu ngạo, xoi không thủng, xô không ngã, không sang không nhượng. Cái buồn tự thân đã là một lý do ắt-có-và-đủ.

Ngồi bên cửa

lọt ưu phiền

ldễ chừng năm tháng

đã quên lòng người

một vòng dang rộng xa khơi

một ôm hụt hẩng

phiên trời thâm căn

ngồi nghe thương thế lịm dần

với mốc meo nắng

với tần ngần

mưa (***)

 

Nghe chưa mày, tên đãng tử cùng đường. Trước mặt sau lưng bên phải bên trái đã là tuyệt lộ. Dĩ vãng là huyệt tối. Tương lai là kim tỉnh. Bó chân lại mà ngồi. Ngồi như đá thâm căn. Ngồi như rêu trầm tích. Ngồi thu lu như một khối buồn tự tại.

với mưa

                                                                                                      với mưa

                                                                                         với mưa

với môi bằn bặt âm thừa khổ sai (***)

 

Thấy những sợi mưa vô tình bay nghiêng nghiêng chưa? Bay như loạn đao. Bay như xạ tiển. Bay bất kể sống chết bởi có nghe gì đâu tiếng kêu thương trễ tràng đó. Còn lời nào nữa những âm đã thừa thải, người đã xa và ta và nỗi nhớ khổ sai. Bằn bặt, môi run mà không ra tiếng, ý tụ mà không thành lời, trời ơi ông làm thơ hay ông tạc tượng, mà chữ của ông cứ như mũi dao xoáy khoáy vào tim.

 

Hoàng phủ thiếu gia ơi, ông vốn người nho nhả, ăn nói nhỏ nhẹ mà sao thơ ông nghe ra tiếng-sắt-tiếng-vàng-chạm-nhau. Chữ nghĩa như dao kéo cắt khứa ruột rà người ta ra từng khúc cho đành. Chữ nghĩa của ông không còn là đồ chơi cho người ta ngắm nghía nữa. Hay là đã tới cái thời interactif nên chữ nghĩa cũng đổi đi. Nó không nằm ỳ đó chịu trận. Nó động đậy, lung lăng tới độ lôi kéo người ta tới cái chỗ mà nó muốn. Bắt người ta thấy tận mắt, nghe tận tai, đau tận tim cái thực tại chính thị. Không hiệu đính. Chẳng tu chỉnh. Viết cho người bạn tù cải tạo về, ông làm tôi "buồn " quá đỗi khi thấy lại cái trống không đến nhòe nhoẹt còn đó sau cuộc bể dâu 

ta về

như gợn gió âm

Ớ lâu vết buốt

ngực trầm tích kia

giọt mưa

giọt lệ đầm đìa

thất phu

nhòe buổi ta về

trống

không.(***)

 

Cái chữ nhòe của ông "tới"quá đỗi. Nước mắt nhòe hay chính cái lộn lạo của bức tranh vân cẩu nhòe nhoẹt vì dơ dáng dại hình. Thôi thì ai nghĩ sao thì nghĩ. Mà điều thơ của ông cũng độc tài lắm. Nó bắt người ta nghĩ thế này mà không thế nọ. Tại cái chữ của ông có gai có góc nghĩ ngợi lan man nó đâm nó chích cũng rướm máu như chơi. Đã trống lại không thì làm sao mà không nghĩ đến nhạt nhòe khi lòng đã lạnh. Nghĩ khác đi thì nghĩ làm sao?

 

Dường như có lúc ông làm lục bát nghe êm như tiếng Huế rù rì. Giọng có buồn thì cũng còn chốn thở than. Cái buồn như vốn bẩm sinh của Huế lắt lay dưới mấy tàn cây rong rêu lịch sử. Còn đàng này, lục bát của ông bây giờ nghe buồn đến nín thở. Buồn đặc. Buồn cứng. Buồn nặng. Buồn hết nói. Chắc tại miệng lưỡi nhà quan có gang có thép hay sao mà chữ nghĩa của ông càng lúc càng nặng trì.

Chẳng vậy ông còn chơi nghiệt. Ông cắt, ông ghép, ông uốn, ông ép cho lục bát đổi hình đổi dạng như người ta chơi kiểng. Ý thôi chưa đủ, còn phải có hình có dạng ông mới thỏa lòng. Làm như ông muốn đắp da đắp thịt cho một nhan-sắc-mộng-mị vậy. Chữ, câu là cái hữu hình, ý tứ là cái vô hình. Mượn cái có hình đưa tới cái vô hình không phải là một cách tiếp cận sát rạt đó sao ? Cách sắp xếp trình bày vì vậy chính là một phần của tổng thể. Hình thức bài thơ là họa đồ cho đường đi của tình ý. Hình thơ vặn vẹo đập vào mắt, ý thơ ngặt nghèo xoáy vào não. Ông mạnh tay lắm, bẻ gãy cái cấu trúc đã ngàn năm cái một. Bằng trắc thì vẫn là bằng trắc mà sáu tám thì không còn là sáu tám nữa. Đã tới lúc tìm một tên gọi mới chưa cho cái thể thơ mà ông rất sính và rất sành.

 

Có một điều tôi thích lắm là ông nghịch ngợm phá phách vậy mà vẫn giữ y nguyên cái điệu trầm thống của lục bát. Vần thì vẫn bằng trắc như thường mà câu cú thì ông để mặc theo sự tình đưa đẩy. Lúc thì lồng lên giựt ngược như ngựa sút cương, lúc thì nhịp nhàng như lỏng buông tay khấu. Mà cũng không phải vô ý vô tứ gì đâu. Ông ý tứ lắm.

 

Câu một chữ, hai chữ, ba chữ... bảy tám chữ đều có lý của nó. Lúc thì gọn như cắt ngọt xớt, lúc thì cù cưa như cứa, như nghiến cho đau thấu mây xanh. Ông làm thơ như vẻ tranh. Đọc thơ của ông sao cứ tưởng như ông đang oằn người trước khung vải trắng. Dao cọ vung ném tới tắp kéo gò vổ đắp bôi trét từng tảng màu nóng lạnh như từng mảng đời nóng lạnh.

ngàn năm

bản mặt dàu dàu

trái tim vô ý

qua cầu

gió

bay

ra đường thấy nắng hây hây

quay về ngộ gió

thổi đầy

phòng không.(***)

 

Có thấy không, cái tà áo dài bay lả lả như chọc ghẹo trai non...khi qua cầu gió thổi.

tôitôiemem mơ màng

tưởng dăm phút

sống

tào khang nghĩa tình

giậngì giậngì

làm thinh

nói đi. nói

chút rung rinh

miệng

lời (***)

 

Thấy không cặp môi mím chặt, lưỡi líu lại lắp ba lắp bắp, giận lắm đó, cơn khủng hoảng thường nhật của cái đời sống đã tẻ lạnh đến bất thường. Còn chỗ nào để chen vô nói một lời cảm khái.

Chữ, nghĩa, ý, hình, tiết tấu thay đổi dồn dập, dồn dập đẩy lục bát xưa lại gần nay, nhịp theo kịp cái nhịp hổn hển bứt hơi của đời thực. Thơ không nói về cuộc đời. Thơ chính là cuộc đời. Gẫy gập. Trặc trẹo. Tê buốt. Y như cái hình người ôm đàn tây ban cầm của Picasso, ngồi xếp chân, đầu nghẹo tới sát đất, tay khẳng khiu quơ quào như nhánh tre khô và cây đàn, cây đàn thì đâm thẳng lên như một tiếng kêu trời, đứt ruột.

 

Tôi phục ông sát đất ông Hoàng ơi. Ông làm mới một điều đã cũ. Ông kỳ khu gọt giủa mà có thấy công phu đâu. Vậy mới hay. Ông làm thơ bất cứ ở đâu. Trên hè phố. Bên giàn máy. Giữa đám cốt đột ông phải phục vụ hằng ngày. Vậy mà thơ của ông cứ lừng lững ngang nhiên ra vô cõi nhân sinh như vào chỗ không người. Khi bay bổng. Khi trầm trọng. Mà thăng hay giáng gì tôi thấy cũng phảng phất cái điệu con vua cháu chúa, kiêu hãnh ngay cả khi đã bụi lầm. Có vậy thì cô đơn cũng là điều không thể tránh.

 

Tôi phục ông như phục mấy ông "thầy" lúc nãy, như phục mấy ông dân giả lúc trước. Mỗi người một cách mà mười phân vẹn mười.

 

Thơ có điều muốn nói. Nói sao cũng được. Miễn là nói thơ.

 

Cao vị khanh

 

(*) Động hoa vàng của Phạm Thiên Thư

(**) Nụ cười Tuyết Lãnh của Toại Khanh

(***) thơ chưa in của Hoàng Xuân Sơn

Trích từ (Aug 7/2020): 

https://tranthinguyetmai.wordpress.com/2020/08/08/di-loanh-quanh-voi-tran-bang-thach/

 

cao vị khanh

đi loanh quanh…

với TRẦN BANG THẠCH

CVK_ĐI_Loanh_quanh.JPG

Bắt đầu bằng một chuyện-trên-trời, cái chuyện vấn-đáp giữa cậu bé Hạng Thác và ông vạn thế sư biểu họ Khổng. Cái thứ chuyện để dạy đời thì hổng là trên-trời thì là gì?

… Khi Hạng Thác hỏi vậy chớ lông mày có mấy sợi thì Khổng Tử bí. Dù đó là một câu hỏi lãng nhách về một thứ lãng òm và thiệt tình là lãng xẹt vì chẳng ăn nhằm gì tới đạo lớn là thứ chuyên trị của người đối diện. Lại là thứ hiển nhiên tới nỗi chẳng làm ai bận tâm dù là mọc ngay boong trên mặt người.

Ờ có những chuyện ngay trước mắt sát bên tai mà chừng hỏi lại thì ai cũng chưng hửng. Không nghe không thấy không hay không biết. Đúng ra là tại vô tình, tại hổng-để-ý, tại xem thường hay tại … hay tại … bị … bởi … vì … (ở đời có hàng triệu thứ tại-bởi-vì khi người ta … bí!)

Có hôm nào ngồi buồn kiểu vọc-nước-giỡn-trăng mà rảo mắt quanh mình, nhẩn nha ngó bộ bàn ăn với mấy cái ghế bọc da (mấy cái ghế?), cái bàn thờ vốn là cái tủ kiếng kiểu tây có chưng mấy chai rượu (mấy chai?), mấy bức tranh của Monet treo trên tường vẽ nội cái góc vườn ở Giverny nhìn dưới nhiều thời khắc khác nhau (mấy bức tranh?)… Nhìn ra xa một chút, mà nói đâu cho xa xôi, quanh đây thôi, ngay trong ngôi nhà mình đang sống sớm hôm, ra vô từng bữa… thử hỏi coi nhà mình có bao nhiêu cửa sổ, cửa cái trổ ra hướng nào, đông tây nam bắc? Còn cái cửa sổ phòng ngủ nữa quay về đâu mà con trăng sáng đầu hôm cứ xui ta thao thức, bâng khuâng nhớ lại một chốn nào… Giả sử vậy, câu hỏi về những đồ vật quen thuộc nhất, gần gũi nhất đó có phải đôi khi lại làm mình ngơ ngẩn. Ngơ ngẩn không phải vì xa lạ. Ngơ ngẩn vì quá gần gũi. Ngơ ngẩn vì quá quen thuộc. Quen vì thấy hoài thấy hủy. Thuộc vì vốn của mình chớ có phải của ai đâu!

Ờ, ở đời vậy đó. Có những cái vốn của mình như tứ đại ngũ uẩn – mà Phật đã lỡ một lần nêu lên nghi vấn về quyền sở hữu, còn nhiều cái khi không mình quơ quào nhận đại là của mình. Thí dụ như là cái nhà của tôi, chiếc xe của tôi, hàng xóm của tôi, thậm chí đến con vợ của tôi… mà lắm khi nghe hỏi tới mới giựt mình… coi lại! À xe mình mang bản số gì há? Nhớ không? … Con vợ tui cao mấy thước ? – ủa nói lộn nói lại vợ tui cao thước mấy? Biết không, dù vẫn nói là… đầu gối tay ấp? Còn mấy cái vòng số một số hai số ba nữa, sức mấy mà có người thứ hai biết được ngoại trừ ông Đông Hồ mua-áo-cho-người-yêu mà khỏi phải xách thước đo trước?) … Còn bà lão người Trung Hoa hay bắc ghế ngồi trước hàng ba, im ỉm và xa vắng như một cung nữ về chiều bị đày vào lãnh cung, sáng qua gật đầu chào, chiều về gật đầu chào, bà ta gục gặc chào lại khi mình qua sáng, gục gặc chào khi mình về chiều… Lâu ngày rồi thành một hình ảnh quen thuộc, quen thuộc đến độ mình quên bẵng có một người ngồi hôm sớm, buồn hiu ở một góc hiên nhà… Sau một mùa đông dài và khắc nghiệt, mùa xuân tới rồi mà chưa thấy lại cái ghế và người ngồi đó. Sáng đi qua, chiều về lại, có một cái gì thiêu thiếu, đâu đây… Rồi mùa xuân qua, mùa hè tới vẫn chưa thấy lại, hàng ba vẫn bỏ trống… Một hôm nghe trẻ nít hàng xóm dọa nhau về một bóng ma Tàu… Giựt mình hỏi lại. À thì ra, người đàn bà Tàu đã chết giữa mùa đông năm ngoái, ngay khi cơn bão tuyết thứ nhất vừa đổ xuống. À là như vậy, chỗ đó đã có một người đàn bà nhỏ thó hay ngồi lặng lẽ ngó trời ngó đất, lặng lẽ tới đỗi làm mình tưởng đến một thứ quý phi thất sủng ngồi nhớ tiếng vua đòi. Người đàn bà đó mấy tuổi, tên gì, con cháu ra sao? Suốt một đời (bao nhiêu năm?) theo cha mẹ bỏ Trùng Khánh? Hàng Châu?… gồng gánh nhau qua Việt Nam rồi năm 75 hay 76 hay 80… theo con cái cõng bồng nhau lội biển qua tuốt bên này. Cái cuộc đời nạn phụ dằng dặc đó lao khổ có thua gì cuộc vạn lý trường chinh của Mao-xếnh-xáng đâu mà không nghe ai nói tới… Không hay! Không biết! Vậy mà người đàn bà đó trong mấy năm nay đã là láng giềng trong cái khu phố không nhiều lắm cái màu da vàng sẫm này. Tại thói đời cứ hay nhìn lên, hay nhìn xa hơn cái tầm con mắt mình, ngóng cao hơn cái cần cổ mình!

Kể ra quanh quẩn đây còn có bao nhiêu thứ dẫu “nhìn” mà không “thấy”, có thấy cũng không thông. Mà có thông cũng không đủ lòng nghĩ đến.

Vậy mà rồi có người nhìn và thấy, thấy rồi lại mang lòng nghĩ đến, mà lại nghĩ miên man tới nơi tới chốn… về những cái vụn vặt, lẻ tẻ, không đâu ra đâu. Những cái thứ ở ngay sát bên mình, lẩn lút, loay hoay, lặng lẽ xoay trở quanh quanh, mờ mờ nhạt nhạt, tưởng như không mà có, có thật. Những mẩu chuyện đời không có quá một chi tiết ly kỳ đủ để khêu gợi sự tò mò của người bên cạnh. Thứ chuyện đời mà người nghe đã có sẵn câu phản ứng… ối-hơi-đâu-mà-nghe!

Mà thật ra nếu chịu lắng lòng mà nghe thì dường như có nhiều điều để nghe lắm. Niệm-thiên-địa-chi-du-du …

TBT_QQCD_1.JPG
TBT_QQCD_2.JPG

Ông Trần Bang Thạch là một trong những người hay lắng nghe những tiếng đời không lấy gì làm huyên náo đó. Làm như một kẻ rất nhàn du trong một cuộc đời rất là chộn rộn, ông ta đi tới đi lui, lẩn tha lẩn thẩn, đôi khi lúc tha lúc thúc một mình – chớ ai mà rảnh rỗi đi cùng! Ông ta qua lại nhẹ nhàng, nói năng chậm rãi, từ tốn như sợ làm kinh động cái nhịp sống vốn dĩ rất trầm kha… như một người khách bàng quang chẳng mắc mớ gì hết với cái dòng đời rộn rịp xuôi ngược quanh quanh. Mà thật ra cái vẻ nhàn lãm đó không giấu được chút nào cái nhìn rất tinh tế, cái soi mói rất mắc mỏ ngay tới những cái không ra gì – mà có cái gì ra cái gì chớ của cái cõi ba-vạn-sáu-ngàn-ngày-là-mấy này. Độc-thương-nhiên-nhi-lệ-hạ.

Nội cái chuyện mua nhà (căn nhà thì nhỏ như cái hộp quẹt mà cái chuyện mua nhà thì xưa chỉ ít hơn trái đất xưa có chút đỉnh thôi mà ông cũng thấy và nghe ra trong đó bao nhiêu là chuyện đáng nói làm người nghe theo cũng thấy bụng dạ dàu dàu). Căn nhà ở đường Bush. Mà đường Bush nào nhỉ? Phải đường Bush ở Houston? Mà sao nghe ra cũng hao hao cái chuyện mua nhà đâu đó ở New Jersey, ở Dallas, ở Toronto, ở Montréal… mà lại cũng y chang cái chuyện mua nhà ở bên tây bên Úc… trong những chương đầu của cuốn truyện dài ngàn chương tỵ nạn. Cũng là… nhà nhỏ, cũ, hai phòng ngủ… nhà thuộc loại frame house nên giá rẻ… Cái chuyện mua nhà của đám người bừng-con-mắt-dậy thấy mình thân sơ thất sở với mớ điều kiện ắt-có-mà-chưa-đủ: nhỏ, cũ, rẻ tiền. Thật ra có một điều kiện khác không có giá trị gì hết trên thị trường mà dường như ở đây lại là điều làm cho cái ắt-có thành đủ. Hai ông bà T gì đó (gọi là ông bà A, ông bà B, ông bà C hay ông bà Danh… cũng được vậy) đã quyết định chọn mua căn nhà trên đường Bush đó chỉ vì… hai hàng me keo. Hai hàng me keo! Đúng là lãng nhách. Cái loại cây mọc đầy đường đầy ngõ, hoang dại, thừa thãi trên đất cát miền Nam, chẳng ích lợi gì ngoài cái việc chụm củi, chỉ được mớ bóng lá giao đầu phả chút hơi mát dịu dàng xuống những buổi trưa miền Nam nóng hổi, cho đám con nít đánh trỏng, bắn cu-li, hay mấy chị vú em ẵm con chủ ra ngồi nói chuyện tào lao hoặc có giá hơn chút là trân mình chịu trận mấy cái màn tình tự trai gái thiếu chỗ tự tình… Vậy đó cái thứ me keo chẳng làm nên tích sự gì.

Nhưng bỗng dưng, khi đi xa rồi, thì mấy hàng me keo đó lại đâm ra đầy sự tích. Sự tích về một Châu Đốc, Rạch Giá, Cần Thơ, Vĩnh Long, Sa Đéc, Nha Trang, Phan Thiết… cả Sài Gòn hay cả miền-nam-miền trung-cao-nguyên-đồng-tháp … với những con đường lớn nhỏ dài ngắn, cong queo hay thẳng tắp rợp toàn một bóng me keo. Sự tích về những ngôi trường làng, trường tỉnh với vuông sân chơi mát rượi, những góc đường góc phố với hàng xe bán nước đá-bào-đậu-đỏ-bánh-lọt-em-tan-trường-về-anh-theo-Ngọ-về… đã hơn một lần đụt nắng che mưa dưới cái tàn lá lưa thưa xanh mướt. Sự tích về chính một quê hương lưu đày trong lòng người đi, thứ quê hương bỏ thì thương mà vương thì tội. Ờ hai hàng me keo nối liền bến đò chợ Cái Dầu với thị trấn Hòa Hảo đã là máu là thịt là xương là da của anh chị.

 Vậy đó hai hàng me keo ở đây (hay hàng còng ở đó, hay hàng bã đậu trong này, hay hai hàng sầu đâu ngoài nớ cũng vậy, mà hai hàng khuynh diệp góc phố, hai hàng sua đũa dưới quê, hay hai hàng phượng đỏ đã-nhỏ-xuống-lòng-tôi-những-giọt-châu…) cũng chỉ là những đắp đổi qua ngày đoạn tháng cho những mắc mớ trong lòng, giữa khi mình ngó đâu cũng thấy lạ hoắc lạ huơ. Nhớ lại mà bồi hồi, cái thời buổi gì kỳ cục. Thời đó, người ta cứ hay quơ quào chụp bắt bất cứ cái gì đang-có-trước-mắt mà lại mang mang hơi hướm cái-đã-khuất-mắt như để… thu ngắn lại mấy tấc lòng cố quận. Thời đó ai nấy cũng thấy như mình đang phụ rẫy một cái gì, một cái gì đang lầm than quá đỗi… Bởi vậy rồi cái hàng me keo đó, cái cọng rau húng lủi đó, giàn bầu giàn bí đó, cái cầu gỗ bắt xéo cong cong đó… trong những ngày lạc lõng bơ vơ đó, đã có giá trị như những chiếc phao thấp thoáng trên dòng đời lơ ngơ, người ta vói chụp níu nó lại với mình như cố níu lại chút xíu quê-nhà một sớm một chiều dưng không mà xa mù xa mịt. Nói cách khác, tìm cho mình một hình ảnh rồi vỗ về mình là quen thuộc chỉ cốt để trấn áp sức phản kháng vô thức của cái mầm chùm gởi trước khi đành chịu tháp mình vào một thân cây khác giống lạ nòi.

Chút xíu đó thôi, cái hàng me keo đó, bỗng làm người ta thấy gần lại, cái quê hương khốn khổ. Và… người ta yên chí làm lại… cuộc đời! Cái hàng me keo đó (hay cọng rau muống mắc dàng trời, hay đòn bánh tét gói bằng miếng plastic nhuộm xanh, hay nhánh forsythia nở hoa vàng giữa mùa tuyết trắng…) đã gỡ giùm nhiều người lắm, những sợi chỉ nhện mắc mớ, những ngày ai nấy mới bỏ quê… Cử đầu vọng minh nguyệt. Đê đầu tư cố hương.

Cái ông Trần Bang Thạch này, lẫm rẫm vậy mà thâm lắm. Lý do gì mua nhà thì không biết chứ tại cái hàng-me-keo mà mua nhà thì biết ý nhau quá mạng. Cái lý do không văn tự nào chứng giám (kể cả giấy tờ bằng khoán nhà đất) mà nó lại có giá trị của một sự thề nguyền rằng… dẫu có xa nhà mà không xa quê. Dĩ nhiên lời thề có sắt son hay không thì hồi sau phân giải. Nhưng mà hồi đó vậy đó. Ai cũng có một nỗi lòng!

Kể chuyện mua nhà thật ra là để kể chuyện đời-ta-ở-xứ-người. Mà đường vào đời ta ở xứ người thì cũng giống như đường-vào-tình-yêu của Trúc Phương vậy, chỉ có trăm-lần-vui mà có tới vạn-lần-buồn. Ông tẳn mẳn tỉ mỉ vòng vo từ hàng me keo quê người tới cái vườn nhỏ xíu trồng đủ thứ rau quê mình, chính là để nói tới cái giấc mộng thiệt lớn trong cái nhà thiệt nhỏ của một người Việt Nam ở xứ người mà cứ tưởng ở xứ mình. Ông bà T mua nhà vì muốn dựng nên một cảnh sống quê-nhà ở quê-người. Có điều, cây cỏ ép uổng còn tàm tạm chớ con người thì đã có cái khuôn phép của xã hội quanh nó. Người Việt ở nước ngoài là tháp cái đời mình vào đời người chớ làm sao mà ngược lại. Cho nên ông T mua nhà với bao nhiêu là mộng lớn với mộng con mà chừng con lớn rồi thì con cũng mông lung như mộng. Đó là một sự thật rất… thật. Ông T tính mở lớn nhà thêm khi con cái lớn lên, che thêm mái dựng thêm phòng khi có dâu có rể y chang cái tính toán của một người-việt-trăm-phần-cốt-y. Nhưng mà đâu có vuông tròn như vậy, đường vào đời ta! Cách nói loanh quanh của Trần Bang Thạch là dẫn mình đi qua những căn phòng bề bộn đồ đạc ăm ắp tiếng cười rồi dẫn mình quày trở lại cũng chính căn phòng đó khi đồ đạc đã dọn hết đi, mọi âm thanh đã tắt hết vì người ở đó chỉ là khách trọ, đến rồi đi, bỏ lại đó cái trống trơn làm bằng cho chứng phù du của sự thế. Ông ta đi loanh quanh mà rồi tới ngay boong cốt lõi. Làm gì thì làm, mua nhà mua block, mua đất cất nhà hay xây kim tĩnh hay mua gì gì đi nữa thì nhà đất hay gì gì đó cũng là của người chớ không phải của mình. Nhà với đất thì tiếng mình làm chủ mà mấy ông chủ ngân hàng thì cứ đứng xớ rớ kề bên. Con cái lớn lên ở xứ này thì theo điệu của xứ này mà bung ra tứ xứ. Chùm gởi có quấn cây trăm vòng thì cây cứ là cây và chùm gởi thì cứ lặc lìa lặc lọi mớ rễ lá lạc loài. Ông Trần Bang Thạch viết chuyện mua nhà mà như viết cả hành trình của một người Việt Nam ở xứ người, mà như viết cả hành trình của một CON NGƯỜI qua suốt một cuộc lữ. Đọc Căn nhà trên đường Bush là theo ông loanh quanh những nẻo đời bất tận, vòng tới vòng lui, xoay qua trở lại, giống như trò chơi rồng rắn, đi đâu rồi cũng trở lại chỗ bắt đầu, chỗ-khởi-đi cũng là chỗ-trở-về của một đời người đó thôi. Đã bắt đầu từ một số không, thì chấm hết bằng cái chấm than cũng là phải phải. Họa may như bà T, ngày tính sổ cuối đời chỉ còn một nhúm tro than của người ba sinh hương lửa để mang theo đã phải kể là vạn hạnh. Chấm than.

Vậy đó, ông Trần Bang Thạch có nói chuyện gì cao xa đâu, toàn là ba cái chuyện-đầu-trên-xóm-dưới, từ-thành-đến-tỉnh, đăng lên báo thì cũng chỉ ở trang ba trang tư. Chuyện của ông ta gần xịt, quanh quất đâu đây. Nhưng trong cái quanh quất chòm xóm có cái hun hút của thiên địa du du. Ông ta nói chuyện hàng ngày, nhãn tiền. Mà trong cái nhãn tiền đó có cái biến thiên của trời đất thường hằng. Chuyện của tôi, của anh, của chị, của người hàng xóm, của ông giáo già về hưu lỡ một kỳ hẹn chót với môn sinh, của anh tài xế xe hàng tan tành hạnh phúc từ sẩy tay của định mệnh, của chị lao công da đen hy sinh cho chồng con tới hết đời, của anh chàng A-Phú-Hãn (hay Việt hay Miên hay Lèo…?) lưu vong và buồn rầu cứ hay ra bờ sông ngó mấy ống khói tàu vật vờ mà thả hồn theo nước lớn nước ròng về cố xứ, của người đàn ông già hết thời đi lượm lon nhỏ làm việc lớn, của ông kép hát cả đời góp vui cho thiên hạ đến giờ chót có chút vui riêng mà cũng chẳng kịp vui… nghĩa là của những con người bình thường với mơ ước vui buồn hạnh phúc khổ đau cũng bình thường như chính cái cuộc sống rất đỗi bình thường không-có-gì-để-nói của họ. Cái để nói ở đây chính là tấm lòng mẫn cảm của ông đã nhìn ra, nghe được từ những sự việc rất bình thường đó cái lớn lao trong nhỏ nhoi, cái phổ quát từ những riêng tư, cái không thường giữa những việc quá thường. Nhân vật của ông – mà có gọi là nhân vật được không, những ông bà T, anh Benito Vasquez, chị Rosa, bà Carol… hay ai ai nữa… mà nếu không gọi là nhân vật thì gọi là gì trong cái vở tuồng ba hồi sáu cảnh mười tám cái linh đinh đó? Họ không sắm tuồng, múa may cười khóc theo một kịch bản nào hết, nếu không nói là chỉ theo có cái sắp xếp của ông đạo diễn ở tuốt trên… trời. Cái quay búng sẵn… Nhân vật của ông sống cái đời của họ, vậy thôi. Mà qua đó cũng không thông điệp chẳng tuyên ngôn gì ráo trọi. Họ chỉ làm cái chuyện như anh, như tôi, như chị  đã, đang và sẽ làm, chẳng anh hùng cũng không tiên tiến, không vĩ đại mà cũng không ti tiện, họ làm cái chuyện họ phải làm, không cao cả mà cũng không thấp hèn. Họ làm cái chuyện cần làm. Vậy thôi. Chấm và hết. Dẫu vậy, nói vậy mà rồi không phải vậy. Bởi vì, để làm một việc xem ra tầm thường, lắm khi không dễ chút nào… Đôi khi để làm một việc ngó bộ nhỏ nhoi lại phải cần một tấm lòng vô cùng quảng đại…

Cho nên đọc truyện của Trần Bang Thạch nghe kể toàn chuyện lụn vụn lặt vặt, thứ chuyện mới nghe qua thấy đơn giản làm sao. Vậy mà chừng nghĩ lại không đơn giản chút nào. Mà làm sao đơn giản cho được. Cuộc đời vốn trăm mặt. Mà ông Trần Bang Thạch này còn muốn lôi ra cái mặt thứ một trăm lẻ một nữa là khác.

 

Theo Trần Bang Thạch đi loanh quanh vào một thế giới rất thực là khép lại con mắt mộng mị để nhìn ngó cuộc đời như chính nó là nó. Thứ cuộc đời rất quen thuộc với tất cả những kỳ quặc đã quay ta mòng mòng. Thứ cuộc đời rất vô nghĩa với tất cả những nghĩa lý đã làm ta chóng mặt. Cũng như thứ cuộc đời với tất cả những nhỏ nhoi  rất phi thường của nó vậy. Ông ta phanh phui rất ân cần. Ông ta soi mói tới hết dạ. Ông ta lật tới lật lui những mảnh đời, ngắm nghía so đo cân nhắc để tìm cái chỗ-thương-cho-được (mà thật ra có cuộc đời nào mà không đáng thương giữa cái cõi đời rất đáng ghét này). Cho nên ông ta nghe thấy được những điều mà mọi người không nghe thấy. Cả đến một điều chưa kịp nói giữa hai cha con sau khi đã tử biệt. Cả đến nụ cười mãn nguyện của mẹ từ trên mây, nhiều năm sau, khi bầy con mồ côi vừa thành đạt. Ông cảm được hết, kể cả những hạnh phúc rất trái cựa, những đau khổ rất lặng lẽ, những oái oăm ẩn nấp đằng sau cái vẻ nhởn nhơ của những nếp đời rất mực phẳng phiu. Có điều khác với cái lối bi quan cố hữu của đa số, Trần Bang Thạch luôn tìm được từ trong nghịch cảnh một sự thỏa hiệp nào đó với bi kịch. Ông thấy ra trong sự nhẫn nại chịu đựng khó khăn là bài học rốt ráo của mọi sự lầm than, trong tận cùng của mọi oan khiên đều có những thăng hoa rất là luân-lý-giáo-khoa-thư. Ông luôn tìm cách nhìn đời qua hai mặt của một đồng tiền.

Đó có phải là một cái nhìn ngây thơ vô tội vạ. Một cái nhìn… rất ư là ba phải. Không, cái nhìn đó thật ra xuất phát từ một tâm địa rất lành. Lành như văn chương của ông vậy.

Lành như câu viết rất giản dị, gần gũi với văn nói, đặc biệt là lối nói miền Nam. Nhưng là một miền Nam kẻ-chợ. Lâu lâu lại chêm vào đôi ba chữ đặc sệt miệt-vườn làm điếng người như cái miệng cô ba cười nháng nháng cái răng “dàng”. Mạch văn suôn sẻ, lưu loát, chắc-tại-vì-bỏ-nước-đi-lâu-rồi, đọc lên nghe khoái tai, nghe như dễ-ợt-ai-viết-cũng-được mà thật ra cái kỳ khu thì đã nằm sẵn trong sự chọn lựa và sắp xếp chữ nghĩa theo một luật lệ âm thanh nào đó của riêng ông.

Văn của ông vì vậy nghe nhẹ hều, chữ nghĩa êm ru bà rù, lại lẩn tha lẩn thẩn giông giống điệu mấy ngón tay rờ rẫm đâu đâu… Vậy rồi giữa lúc đang u u mê mê, ông nhéo một cái, móng tay sắc lẻm, làm ai nấy nhói đau mà không kịp kêu “ái”… vì cái đau đã thấm sâu, sâu lắm, thấu tuột vào tới ruột gan… thức ăn dư thừa (của bà mẹ già nấu sẵn “dụ” mấy đứa con về ăn mà nó… không về) bà còn có thể đổ đi, còn nỗi buồn của người mẹ già nua… bà biết đổ đi đâu! Trời ơi nỗi buồn biết “đổ” đi đâu! Chữ “đổ” của ông quả là hết ý. Có thua gì chữ “đổ” trong múc-ánh-trăng-vàng-đổ-đi. Có điều múc buồn “đổ” đi còn có cái vẻ giận-lẫy-dễ-thương-hết-sức của mấy bà mẹ già móm xọm thương con đứt ruột, muốn đem đổ-hết-cho-rồi-mà-sợ-rủi-nó-về-nó-đói-bụng. Chữ hết nghĩa ông ơi. Còn nữa nè … sáng sáng vừa đi bách bộ vừa nghe chim hót trên ngọn me keo, vừa thấy lòng mình đang mọc cánh bay về một thỏi cù lao bên bờ sông Hậu. Sao tui khoái cái chữ “thỏi” của ông lắm vậy. Làm cho nỗi thiết tha với khoảng cù lao nhỏ xíu của ông bỗng lớn vọt lên, tỉ lệ nghịch với tầm vóc được thu nhỏ lại thành thỏi bỏ-lọt-túi-áo, kiểu như thỏi kẹo thỏi đường hay “thỏi” tình của mấy anh si hồi xưa thương-em-không-biết-để-đâu-để-trong-túi-áo-lâu-lâu-lại-dòm vậy đó. Lại nữa, có lần theo ông về thăm mẹ ở miệt lục tỉnh, đang mơ mơ màng màng trước cảnh cũ người xưa, bỗng ông giáng cho mấy chữ bên bờ kinh xáng thổi, tui muốn té ngửa ông ơi! Ờ mấy cái bờ kinh xáng thổi giữa một miền Nam sông nước ngổn ngang làm cho cái xa xôi nó bỗng xích lại gần tận mặt, gần tận mặt mà vẫn đoạn đành thiên lý nên giữa lòng ta bỗng quậy chút ba đào.

Cái lối viết theo kiểu người dưng nước lã, đứng nép bên đường, để mặc cho sự tình nối đuôi nhau liền lạc như tính liên tục của dòng đời, đôi khi chuyện tới sau làm phản đề cho chuyện tới trước khiến cho bố cục gây đột biến một cách tự nhiên làm người đọc bị lôi cuốn một cách dễ chịu, buồn vui rồi hờn giận theo lúc nào không biết mà buồn vui hờn giận gì cũng nhẹ nhàng thanh thản… đến nỗi có đôi khi lại thấy có chính mình ở trỏng… là một lối-viết-rất-trần-bang-thạch. Lối viết của một người tốt bụng.

Ông Trần Bang Thạch ơi, ông làm văn chương tuyệt cú lắm. Văn chương là loay hoay loanh quanh vậy đó ông. Đâu cần phải gồng mình thở phì phò như kéo cây kéo gỗ. Hay trân mình trân mẩy mà la lối ba cái chuyện triết lý bí hiểm siêu hình siêu việt trời ơi đất hỡi mới là văn chương. Làm văn chương thì thủng thẳng mà làm, thấy đâu nói đó, thấy gì nói nấy, thấy-sao-nói-vậy-người-ơi. Nội cái cõi trước mặt sau lưng mà nói, nói hoài cũng không hết. Khỏi làm bộ làm tịch, phồng mang trợn mắt làm chi cho thêm bí hiểm cái sự đời. Ai thấy chuyện ngàn sao thì bay bổng nói chuyện trên trời. Ai thấy chuyện xe cán chó hay chó đụng xe thì rà rà kể chuyện dưới đất. Còn ai nghe được tiếng đời rủ rỉ như ông thì cứ rù rì mà kể lể. Gió lớn có cái khoái-tai-phong-dã thì gió hiu hiu có cái êm ái thầm thì.

Thầm thì thì thấm.

Cao Vị Khanh

CVK_thoichangvang.jpg

“ Người sống trong khu dưỡng lão đường 75 nhìn ông Hoà Thanh như một kẻ bệnh tật khó tính. Ông sống ở phòng 304, ít ai thăm hỏi, trừ người đàn bà Mễ trong chương trình workfare được sở xã hội cắt cử tuần đôi ba lần đến dọn dẹp vệ sinh giúp ông, nhưng hai người không trò chuyện vì ông không biết tiếng Tây Ban Nha còn bà ta thì không thạo tiếng Anh. Có ai tò mò nhìn qua cửa sổ chỉ thấy ông Hoà Thanh luôn ngồi lặng trên chiếc ghế bành cũ, trước mặt có chiếc TV đen trắng, gần cạnh có cái bàn sách báo xếp ngay ngắn, có chồng đĩa hát nhưng không thấy máy hát; ngoài ra, trong một góc phòng còn có chiếc giá gỗ đặt hai cây kèn, một cây clairon và cây kia clarinette. Cả hai đều mốc meo như không từng được chủ nhân rớ tới. ”*

 

Đó là đoạn mở đầu một truyện ngắn của Hà Thúc Sinh, có tựa là Người lính kèn và viên đại úy, trích trong tập “Tống Biệt Hai Mươi,” do nhà xuất bản Xuân Thu ấn hành năm 1999.

 

Và sau đây là câu kết :

“ Tôi có tìm hỏi một cụ Việt Nam ở đây, cụ bảo đồng bào cụ đều buồn và sợ tiếng kèn ấy; đó là tiếng tiễn đưa một chiến hữu đã chết dù trong trường hợp nào, và người ta gọi nó là khúc Chiêu Hồn Tử Sĩ.”*

 

Truyện viết đã lâu, gần hai mươi năm sau mới có dịp đọc. Vậy mà vẫn nguyên cái cảm giác của gần hai mươi năm trước, khi tình cờ tôi đọc được câu viết của ông trích ra từ đâu đó. Câu viết như sau : “chạng vạng của những niềm tin bao giờ cũng buồn ”. Rồi nhớ hoài. Câu viết như một vết cắt trên da, mà nhiều năm sau mãi không mờ vết sẹo. Còn đó như chứng tích của một thời kỳ xao động cùng cực giữa niềm tin và sự bội tín, của hy vọng và thất vọng và cuối cùng ... của tuyệt vọng !

 

Những năm 80 của thế kỷ trước, xứ lạ xa quê, dù xa không tính bằng thiên lý mà xa chính tự lòng người, sao lòng tôi vẫn cứ mãi không yên. Tôi sống chân thì chạy theo trối chết những thúc bách của cuộc đời mà hồn thì vật vờ như chiếc bóng. Xứ người rộn rịp, đường lộ phẳng phiu, xe cộ đuổi nhau như chơi cướp bắt. Phố xá dập dìu người qua lại, dáng thẳng, mặt ngẩng cao và những bước chân chắc nịch. Đặc biệt trên mặt ai cũng toát ra một vẻ tự tin, chực sẵn một nỗi vui hồn nhiên như chưa từng phiền muộn. Và tôi và những người đồng chủng đồng cảnh ngộ và ... những hoang mang !

Bất kể cái nghề lao động chân tay cả ngày cứ trì trì thân xác, đầu óc tôi cứ lơ mơ tận đâu đâu. Làm như sống tạm, sống hờ. Làm như chỉ chờ dịp là lộn về cố xứ. Cha mẹ tôi đã quá bảy mươi, còn ở đó bữa cháo bữa rau. Anh em tôi còn ở đó, người đày ngoài Bắc, người tù trong Nam. Mồ mã ông bà còn nằm chơ vơ bên bờ kinh Giáp Nước. Và xứ sở tôi, và bạn bè quyến thuộc tôi, kẻ thân người sơ, hàng xóm láng giềng, phố phường làng mạc, nếp sống thói quen, nề nếp văn hóa từ muôn đời tổ tiên tôi đã dày công vun bồi và truyền tụng ...Mọi người, mọi thứ ... đang giẫy giụa mà đã chừng tuyệt vọng như đàn cá bị mắc lưới. Tôi bỏ trốn mà lòng không yên. Ngay cả khi đã đặt chân lên được mảnh đất lành, mà lòng tôi vẫn cứ mãi băn khoăn. Tôi bỏ đi như một người trốn nợ, bỏ lại hết cho thân yêu mình gánh nợ cho mình. Vài ba năm sau, vẫn hiu hắt hoài trong tôi cặp mắt của ba tôi đêm từ biệt, cặp môi mím chặt mà đã nghe ra lời vĩnh quyết. Và sâu kín hơn nữa, mập mờ hình ảnh những nấm đất phủ cờ nằm chật kín trong một góc nghĩa trang thành phố ... Những người trẻ mà tuổi tác hẵn chừng cùng tôi trang lứa ... ! Một người nằm đó là bao nhiêu nỗi mất mát đếm lên theo cấp số nhân, mà trước khi bỏ đi tôi đã thấy người thân xúm lại bốc dở. Những khoảnh vô thừa nhận thì người ta san bằng.

Sao tôi cứ lẫn tha lẫn thẩn ... Tuy nhiên, tôi biết không phải mình tôi, trên khắp mặt đất này, chỗ năm ba ngàn, chỗ vài triệu hẵn cũng có những người như tôi. Họ vẫn hằng ngày cày cục để trám vừa đủ năm ba miệng ăn, vừa vẫn mong mỏi ... một ngày về. Những năm 80, lòng ai cũng âm ỉ một đóm lửa, dù lắm khi hắt hiu, vẫn là một đóm lửa. Có khi phừng lên, bắn tung ra như hoa đăng làm nóng hổi lòng người. Người quen, kẻ lạ tụm nhau năm ba, hợp nhau thành đoàn thành nhóm, bàn cải, tính toán, so đo, sắp xếp, tuyên cáo, tuyên ngôn ... Hẵn ai cũng sốt ruột, cũng thiệt lòng mong mỏi ... Kẻ ít người nhiều, người của cải, kẻ công sức ... Và hơn hết, chất keo sơn lý tưởng. Vâng, đã có một thời, thời hừng đông của những niềm tin. Tôi biết có những người công nhân gốc lính, ngày tám tiếng trong xưởng thợ mù bụi, cuối tuần “ đi cày ” thêm để lấy đồng lương tính một rưởi, cho được rộng rãi góp phần. Tôi biết người giáo già làm công cho một tiệm buôn, suốt ngày chui rúc dưới hầm để cân đo đong đếm ... mà hở ra là cầm biểu ngữ đi đầu những cuộc tuần hành biểu dương cho khát vọng giành lại quê hương. Tôi biết những người đàn bà, sớm chiều quần quật trong nhà, chợ búa giặt giụa cơm nước cho chồng con mà không sót một lần hội hợp. Mà làm sao kể hết. Nhiều lắm, nhiều lắm những tấm lòng ...

Có một lúc, ai nấy như trẻ lại, như sống lại từ những niềm tin ... Sẽ có một ngày Sẽ đến một ngày.

Những niềm tin ! Ôi những niềm tin ! Người ta chấp nhận hiện tại, thứ hiện tại trái cựa, lộn dòng lộn giống như một thứ bản lề. Người ta ẩn nhẩn sống, chấp nhận mọi bó buộc hiện tại như một cái giá phải trả cho cái lần sẩy đàn tan nghé. Hơn vậy nữa, cho cái lối sống thờ ơ, xao lãng trách nhiệm của một quá khứ chưa xa. Bây giờ, nếu được quày trở lại ... Dưng không, rồi ai nấy như muốn giữ lấy một lời nguyền ...

Đã có một thời như vậy. Một thời mà niềm tin sáng lán như ngọn đuốc trong đêm. Đêm thì mịt mù mà hề gì, đã có ngọn lửa dẫu âm ỉ vẫn là ngọn lửa, không sớm thì muộn, lửa sẽ bốc lên thành ngọn, màn đêm sẽ bị xé ra thành muôn mảnh, từng mảnh sẽ là từng ngõ đi lối về ... và quê hương đang quằn quại sẽ trổi dậy dang tay đón đàn con thất lạc.

Những niềm tin không khác gì những tia sáng lúc hừng đông, xóa tan bóng tối, đánh thức những cơn mê, gọi dậy những giấc ngủ. Và giục người ta lên đường. Lên đường. Ôi còn âm thanh nào háo hức hơn nữa. Lên đường. Sẽ có những tiếng chuông vô thanh rộn rã trong đầu. Sẽ có những tiếng trống bập bùng vỗ nhịp trong tim. Con đường sẽ nhiêu khê. Nhưng mặc. Đã có những tấm lòng với những niềm tin. Người ta sẽ tụ hết về một điểm hẹn với chuông reo và trống vỗ mở đầu cho bản trường ca quang phục. Người ta sẽ rủ nhau về như người Do Thái, dẫu lưu lạc đâu đâu cũng đã có hồi kéo nhau về Đất Hứa. Niềm tin. Niềm tin như vì sao Bắc Đẩu mà những người đi biển, giữa mênh mông cứ nhắm lấy mà dong thuyền. Niềm tin còn như cơn mưa đầu hạ, rưới cam lồ lên đầu ngọn cỏ dại làm trổi dậy sức sống giữa cơn nắng lửa. Và con người, con người lưu lạc giữa cơn thất quốc, đã bám lấy niềm tin như thần dược chửa thứ bệnh trầm cảm từ một buổi tha hương.

 

Vậy đó, nhưng rồi mọi chuyện không đâu vào đâu. Những hy vọng rộn ràng rồi vở tan như bóng nước. Chuyện mới trên dưới hai mươi năm, một phần tư đời người, vậy mà nhắc lại ai nấy nghe ra đã xa như là cổ tích.

 

Như vậy rồi khi không có hôm đọc lại truyện ngắn của Hà Thúc Sinh mà thấy ... ngậm ngùi. Truyện Người lính kèn và viên đại úy.

Không khí của truyện là thứ không khí của trời chiều vừa khi chạng vạng dù xảy ra bất cứ lúc nào trong ngày. Người văn chương gọi là hoàng hôn, tiếng bình dân kêu là chạng vạng. Chiều là khoảng thời gian giữa trưa và tối. Chạng vạng là lúc chiều đã gấp gáp mà đêm chưa vội. Nắng còn đó mà hoi hóp. Bóng tối muốn sụm xuống mà ngần ngừ. Không gian rỗng và thời gian sựng lại. Khí trời đùng đục. Năm ba giây. Vài mươi phút. Lâu bao lâu. Ai biết bao lâu vì như có như không. Mà lắm khi lại tính bằng độ nhạy của tâm hồn nên làm sao mà nói chắc. Lúc đó đó, người quê tôi hay nói là chạng vạng. Ông Hà Thúc Sinh cũng gọi là chạng vạng. Tôi nghe rồi ... ngẫm ra sao mà buồn quá đỗi.

Truyện xoay quanh những cuộc thăm viếng giữa hai người đàn ông, một già sụm vì bệnh tật và một mới quá trung niên. Và lẫn khuất đâu đó, một nhân vật thứ ba, khi có khi không. Dù vậy, dường như là mấu chốt của chuyện. Không gian, không rõ địa danh, tuy nhiên có thể xảy ra ở bất cứ nơi đâu, một phố lớn sầm uất hay một góc xóm vắng hoe, ở bất cứ nơi đâu trên mặt địa cầu, nơi có những người tị nạn VN, sau khi cuộc chiến tranh ở đó chấm dứt từ những bội phản. Những cuộc thăm viếng tuy không thường xuyên nhưng cũng không thưa thớt, những cuộc thăm viếng không nồng nã nhưng cũng không quá lợt lạt. Có một cái gì đó lẫn khuất ở đằng sau những cuộc trò chuyện lấp lửng, những đối đáp không đầu không đuôi với giọng điệu vừa lãnh đạm vừa nấn níu, giữa người chủ nhà kín miệng, và người khách cũng ít lời. Mối liên hệ mù mờ giữa hai người càng làm tình cảnh thêm lạ. Họ không phải cha con tuy sự cách biệt tuổi tác dễ làm người ta ngộ nhận. Bạn vong niên ? Cũng không. Cách xưng hô tỏ ra không có gì là thân thiết. Ông và tôi. Chuyện trò không tỏ ra gì là thân thiện. Họ nói với nhau bằng cái giọng xẳng lè, những câu cụt ngủn cụt ngẳn, chẳng đâu vào đâu, lắm khi còn nghe ra thoang thoáng những móc méo, xỏ xiên ... kể cả có khi lên giọng thách thức. Người chủ đón khách với thái độ dửng dưng mà lạ đời, người đọc có cảm tưởng nếu khách không đến hẵn là ông ta sẽ buồn tủi lắm. Còn khách thì đến như miễn cưỡng mà kỳ cục, người đọc lại nghĩ anh ta sẽ khổ tâm vô cùng nếu anh ta không thể ghé thăm. Tại vậy, mà không khí những lần gặp gỡ đó, chẳng những không rộn ràng mà ngược lại, dù sáng trưa chiều tối, cứ là cái không khí đùng đục của những cơn chạng vạng cuối ngày. Làm như giữa hai người có một nỗi uất ức gì mà không giải tỏa được. Cứ nhùng nhằng như sợi giây thừng căng thẳng giữa hai đầu, khi căng quá có cơ đứt nên lại được bên này lỏng tay, rồi lại căng thì bên kia lại dản tay ... Cứ vậy mà ngày này qua ngày khác, lần thăm viếng này qua lần thăm viếng khác giữa Hoàng Thiệp, người trẻ tuổi hơn, vốn là sĩ quan chỉ huy đơn vị của ông Hòa Thanh, người đàn ông lớn tuổi, đã có thời là lính kèn, người lính theo truyền thống chỉ có hai nhiệm vụ chính : một là thổi kèn thúc quân khi xung trận và hai là thổi một trích đoạn của bản El Silencio khi làm lễ hạ huyệt những người lính tử trận. ( À, điệu kèn truy hồn tử sĩ mà những người miền Nam trước năm 75 vẫn nghe đến nằm lòng trong những buổi lễ tưởng niệm ! ) À thì ra, tình huynh đệ chi binh ? “ Vì tình xưa nghĩa cũ? Vì đồng hội đồng thuyền? Vì hai người từng sát cánh trong những hoạt động đấu tranh tìm con đường về ngày ông Hoà Thanh chưa lâm trọng bệnh? ”*.

Nhưng dường như cũng không hẵn vậy.

“ Đôi ba dấu hiệu cho họ thấy hai người như hai kẻ đồng hành, bị hoàn cảnh bức bách chi đó, phải đi chung trên cây cầu dài, hẹp, chênh vênh, và còn đi lộn giày nhau nữa chưa chừng. Nhưng họ không thể đẩy nhau ra khỏi đời nhau. Họ phải chịu đựng nhau để sống còn. Mãi rồi họ biến thành cái bóng của nhau.Ông già bà cả nhìn trời tháng mười đoán được giờ giấc cơn tê thấp trở lại, hay trời tháng ba chứng nhảy mũi tái hồi, nhưng khó đoán cho chính xác mối liên hệ giữa ông Hoà Thanh và Hoàng Thiệp.

 

“ Thiệp đến, lặng lẽ mở cửa như biết chắc cửa không bao giờ khoá. Anh ta bước vào với cái hỉnh mũi khinh thị kín đáo, hờ hững một câu hỏi, “Anh khoẻ,” rồi đi thẳng vào bếp.

Ông Hoà Thanh cũng lặng lẽ không kém, khác nhau là thỉnh thoảng ông tằng hắng như cố nhận sâu một chút đàm trong cổ. .”*

Rõ ràng, người đàn ông đã quá tuổi 60, thân xác bệnh hoạn mà dường như tinh thần chưa bao giờ sa sút dẫu cũng đã lắm gian lao. Từ vị trí người lính kèn của đơn vị, ông đã sống trọn đời mình cho vinh nhục của kiếp lính. Và từ đó, ông hãnh diện với sự có mặt của mình trong suốt những dặm dài khói lửa.

“ Sự cất tiếng của ông chỉ có hai ý nghĩa: kẻ còn nghe sẽ là kẻ được truyền cho cái khí thế xung trận, ngược lại kẻ ấy cầm bằng đã nằm trong quan tài. ”*

 

Kiểu giao tình không lấy gì làm thuận thảo. Lạ vậy mà cứ ghé lại tìm nhau. Lạ như mọi thứ lạ lùng đã xảy ra từ cơn thất tán. Thử đọc tiếp một đoạn đối thoại giữa hai người.

 

“ Thiệp lại hỏi:

“Anh khoẻ?”

“Hỏi tôi khoẻ thì có khác gì hỏi ông có yếu không. Nhưng yên tâm. Tôi chưa mất tinh thần.”

Hai người lại yên lặng. Thiệp nhâm nhi hết lon bia, đứng lên ưỡn vai, giọng dửng dưng:

“Anh ăn gì chưa, chưa thì ăn đi nhá, tôi về đây.”

Ông Hoà Thanh ít khi đáp. Thiệp nhìn ông lần nữa như nhìn hai cây kèn câm quen thuộc, rồi anh lập lại, “Tôi về đây,” và lặng lẽ mở cửa, lặng lẽ đi ra. ”*

Cứ vậy đó mà lần này sang lần khác. Kể ra có gì vui đâu mà lặn lội thăm nhau. Vậy mà người đến thì cứ đến. Người chờ thì cứ chờ. Lần này sang lần khác. Và bên ngoài, dòng đời cứ tiếp tục theo cái lẽ phải có. Chẳng hạn, viên cựu đại úy, bỏ xứ chạ̣y qua xứ người, sau những bở ngở ban đầu rồi cũng xông xáo lao vào cuộc tranh sống mới. Và kể ra cũng thành công. Vậy mà có lần bạn bè em út giục cưới vợ lại cứ lần xần nấn ná. Đàn ông ai mà không thích đàn bà, nhất là sau khi đã trần thân trải qua bao nhiêu là khổ nạn gần như chết đi sống lại. À cái chuyện sống chết. Lứa tuổi của ông nếu là người Việt thì ai mà không từng trải qua thứ kinh nghiệm hỏa ngục đó. Vậy thì có gì mà đến nỗi phải ngại ngùng, một khi đã chạy chết rồi thành công được ở xứ người.

Nhưng không, đây mới là nỗi đoạn trường bậc nhất, đến nỗi đã trở thành một thứ bệnh tâm lý gần như bất trị của người cựu sĩ quan đã từng vào sinh ra tử. Từ lần bị vỡ trận cuối, ông đã trải qua một kinh nghiệm quá sức bi thương đến nỗi cứ bị ám ảnh không nguôi.

 

“ Thiệp bảo anh bị chứng ám ảnh, không luôn luôn, chỉ thỉnh thoảng, là khi vừa khỏa thân một người đàn bà anh sợ hãi đậy ngay mọi thứ lại. Anh thấy người đối diện không ai khác hơn là người yêu cũ. Cô ta ướt sũng, mặt nhợt nhạt, một bên mắt mở thao láo, một bên vú nát bấy,

máu nhuộm lên tới mặt và cổ, hình như gãy thêm mấy ngón tay. Đó là lúc anh đem đơn vị tháo chạy khỏi hậu cứ ở một tỉnh nào đó mãi miền Trung. Mặt đất nhầy nhụa tanh tưởi. Bầu trời đỏ ráng và khét. Tiếng thiết giáp hung hãn cày trên quốc lộ. Đạn pháo. Những tiếng hô xung phong. Những tràng súng liên thanh. Tiếng lựu đạn nổ. Tiếng kèn man rợ trộn với tiếng gào la đau đớn. Tất cả rối mù đến nỗi giàu kinh nghiệm chiến trường như anh cũng không phân biệt nổi đâu bạn đâu thù. Thế rồi Hoàng Thiệp hực lên với tiếng khóc trong cổ của người đàn ông. Anh bảo chính lúc ấy cô gái cứu mạng anh và nhiều đồng đội bằng một hành động liều lĩnh. Tới đó anh ngưng, không nói nữa. ”*

Thì ra vậy ! ( Người cựu chiến binh của cuộc chiến tự-vệ-và-bị-bán-đứng đó cũng như không ít những bạn đồng ngũ khác đã có cùng tình trạng chấn thương tâm lý, đã âm thầm mang thương tích hoặc trong các trại tù cải tạo rồi vùi nông thân xác đâu đó giữa rừng già, hoặc may mắn thoát thân sang bên nầy biển lớn, hoặc còn đang lê lết đâu đó trong sự bạc đãi của chính quê hương mình, những người cựu chiến binh đó, đã và đang âm thầm gánh chịu sự đục ruỗng âm ỉ mà dai dẳng của thứ kinh nghiệm máu xương. Thử nhớ lại chuyện những người lính Mỹ trở về sau cuộc chiến tranh Vùng Vịnh đã la hoáng lên về những vết thương tinh thần mà họ gánh chịu rồi nghĩ đến những người lính miền Nam đã chịu đựng trong sự quên lãng suốt cả phần đời còn lại ! )

 

Thì ra là vậy. Mà còn hơn vậy nữa “ cô gái cứu mạng anh và nhiều đồng đội bằng một hành động liều lĩnh ”* đó chính là con gái của người lính già, vốn đã nhiều phen thổi kèn truy điệu những đồng đội tử thương. Điệu kèn El Silencio với những nốt nhạc như từng giọt nước mắt khóc người, lặng lẽ.

Thì ra vậy mới có những cuộc viếng thăm gần như máy móc, thành ra mới có những lần trò chuyện dấm dẳn, lạt lẽo và lắm khi khích bác ... giữa hai người đàn ông sống sót sau cuộc tan vở kinh hoàng cuối tháng 4 năm đó. Nhưng rồi dẫu là vậy, nhưng chưa đủ. Còn nữa. Còn một điều bí ẩn mà dường như ngoài hai nhân vật chính, chắc chỉ có nhân vật thứ ba, cô gái, nếu còn có một cõi linh thiêng nào đó, mới biết. Điều bí ẩn được giấu kín vốn là cốt lõi của truyện, làm nên ý nghĩa của những dòng chữ bưng đầu viết ra, hàng hàng từ nét thứ nhất. Chuyện tới đó đã đủ là một bi kịch. Loại bi kịch xảy ra hằng hà sa số trong suốt cuộc chiến 20 năm vừa qua. Nếu muốn, người ta có thể viết thành trường thiên tiểu thuyết. Riêng phần mình, ông Hà Thúc Sinh còn thắt thêm một cái gút, chặt tới nỗi cũng khó mà gở ra. Sao tôi nghĩ, chắc ông cũng không muốn gở ra. Vì nếu gở ra chắc chính ông sẽ là người khổ tâm trước nhất. Tập sách Đại Học máu của ông đã nói trước điều đó.

Tuy nhiên, như mọi cốt truyện đều phải có thắt, mở rồi kết. Dù muốn hay không. Dù vui hay buồn.

Và rồi ... truyện kết thúc với sự xóa bỏ một lời thề. Lời thề ?

Vâng một lời thề. “ Phải như Trần Hưng Đạo đã chỉ xuống sông Hoá mà nói, ‘Trận này không phá được giặc thề không trở lại khúc sông này nữa? ”*

 

Không, không trang trọng và cũng không xa xưa như vậy. Gần đây thôi, đôi mươi năm trở lại đây thôi ... trên xà lan ấy có người sĩ quan nói rằng, “Đi rồi về, về chiến đấu không về đầu hàng! ”* sau khi sống sót trong lần tan hàng thảm hại ấy, nhờ vào sự hy sinh của cô gái con của người lính thuộc hạ.

Thử hồi tượng lại một chút. Đã có một mối tình chân thành đến đỗi sắp đi tới hôn nhân rồi xảy ra thảm cảnh. Cô dâu chưa kịp may áo cưới đã đổi mạng sống mình cho sự an toàn của người yêu và đồng đội. Trận chiến tàn. Đám người sống sót thoát chạy trên một chiếc xà lan. Và chính trong lần thoát hiểm đó, khi mặt mày còn nám khói đạn bom, người đàn ông, người tình, người sĩ quan thất trận đã nói rằng “ Đi rồi về, về chiến đấu không về đầu hàng! ”*

Câu nói giản dị mà nghe ra lời khẳng quyết. Nhất là người nghe là người lính thuộc quyền và là cha của người con gái vừa mới hy sinh. Cái gút là chỗ đó. Thảm trạng là chỗ đó. Giao tình là chỗ đó. Mà hận tình cũng là chỗ đó.

Có những chuyện khó nhớ. Và cũng có những chuyện người ta không thể quên. Nhất đó lại là người cha của người con gái bạc phận. Ông đã chứng kiến tận mắt sự hy sinh phi thường của con gái cho người chồng tương lai của mình. Phi thường tới nỗi, sau cơn hãi hùng, những người còn lành lặn đã xúc động tột cùng để khăng khăng một lời thề. “Đi rồi về, về chiến đấu không về đầu hàng! ”*

 

Có điều dù không phải người ta đã dễ dàng chối bỏ, viên đại úy và nhiều nhiều người khác nữa ... sau những chạy vạy, những toan tính, những hợp quần rồi tan rã ... đến một lúc, một lời thề hay vạn lời thề, rồi ra ... đến lúc ... cũng đành ..!

“ Thời thế đã thay đổi anh ạ. Với lại mình cũng cần sống.”*

 

Một câu giải thích hay biện hộ ngắn, gọn. Đúng ra, đó cũng chỉ là một nhận định công bằng và dễ chịu cho hết thảy ai ai. Thời thế đã thay đổi. Năm chữ thôi. Kể ra đã đủ. Nhưng làm sao đủ hết cho hằng hằng uẩn khúc còn trong lòng của bao nhiêu kẻ đã buông súng vì một lệnh đầu hàng tức tưởi, vì một tính toán sai lầm, vì một sự bội phản trắng trợn, vì đã hết dạ hy sinh ... Làm sao đủ hết cho mênh mông nước mắt, cho trùng trùng oan khuất mà triệu triệu người vô tội đã gánh chịu từ sau cơn đại nạn. Nhưng thôi. Đã bao nhiêu dâu bể được lấp đầy bằng hai chữ “ thời thế ”. Và lần này cũng vậy. Chỉ hai chữ đơn giản đủ để xóa đi những lời thề. Nhưng thật ra có xóa sạch được hết không, những tàn phá sau cơn địa chấn. Biết vậy, nhưng sự chịu đựng rồi cũng có lúc nặng quá sức người. Con đường trước mắt, có lúc bỗng dài tới ... vô tận. Mà lời thề rồi trở thành viên thuốc đắng khi đường xa mấp mé tới bên bờ ảo vọng. Người ta còn một phần đời phải sống ! Dù vinh hay nhục. Dù gian truân hay thanh thản. Số phận con người là phải đi cho hết con đường mà định mạng đã vạch ra.

..................

“ Thiệp lấy giọng bồi hồi:

“Mười chín năm nhưng Thoả - tên cô gái - vẫn bên tôi. Rõ như thảm kịch và lời thề. Tôi như kẻ bị đeo đuổi. Làm sao anh giúp gỡ hộ tôi lời thề.”*

......................

“ Hoàng Thiệp đành im. Anh ngồi nghe từng tiếng kim đồng hồ treo tường khá lâu thì giọng ông Hoà Thanh mới trở lại, y như mấy giọt nước đục:

“Thôi được…”

Ông ngập ngừng. Hoàng Thiệp nhìn ông chìm trong khoảng tối. Bất ngờ anh ta ngỡ ngàng. Ông Hoà Thanh chầm chậm giơ cao một bàn tay run rẩy chào anh theo quân cách, rồi nửa lạnh lùng, nửa thổn thức, ông lập lại, “Thôi được, từ hôm nay coi như sòng phẳng. Tôi liều gỡ lời thề cho đại úy vậy. Tôi hứa giùm con tôi coi như nó chưa từng thấy nơi bờ duyên hải ấy có một nấm mộ

vùi nhanh, chưa từng nghe trên xà lan ấy có người sĩ quan nói rằng, “Đi rồi về, về chiến đấu không về đầu hàng ! ”*

......................

 

Kết truyện buồn lắm. Buồn như hai câu đối đáp sau đây.

Một người nói :

“ Chạng vạng lúc nào cũng buồn.”*

Người kia dậm thêm :

“ Phải nói chạng vạng của một niềm tin lúc nào cũng buồn.”*

 

Câu viết, với tôi là một tuyệt xảo của chữ nghĩa. Chạng vạng của một niềm tin cũng là quảng cuối của một đời người. Vì thật ra, con người với niềm tin của họ chỉ là một. Sau lần chẳng đặng đừng giải oan cho lời thề cũ, người cha già bệnh hoạn, người lính kèn ngày xưa bỏ đi mất. Chỗ trống để lại như để thú nhận về sự thất bại của một niềm tin. Y như sau khi chạng vạng thì đêm tới mịt mù. Mọi hình thù đều lẫn mất vào bóng tối. Mọi chuyện được xóa sạch như chưa từng xảy ra. Y như chính ông đã có lần kiêu hảnh xác nhận giá trị tiếng kèn của mình trong đời sống quân ngũ. Người nghe hoặc sống để xung trận hoặc đã chết. Lý tưởng không thành thì mọi thứ đều là vô nghĩa :

 

“ Ít ngày sau các cụ già trong khu dưỡng lão đường 75 khám phá ra người đàn ông bị chứng Parkinson đã âm thầm dọn đi. Nhưng điều người ta bàn tán nhiều hơn cả, đặc biệt những cụ già bản xứ, là những bài kèn tuyệt vời lần đầu cũng là lần cuối họ được nghe vọng ra từ phòng 304 vào rất khuya đêm ấy .”*

Điệu kèn chót của người lính già dường như chỉ là tiếng vọng của từng nỗi oan khuất ông giữ lại cho riêng ông. Và lẫn lẫn trong những nốt âm thanh trầm bỗng, ngân dài hay hụt hẩng dường như chỉ là tiếng động của những giọt nước mắt ứa ra từ đôi mắt vốn đã khô ran. Lối xóm ai nấy đều ngẩn ngơ rồi ngớ ngẩn.

 

“ Tôi có tìm hỏi một cụ Việt Nam ở đây, cụ bảo đồng bào cụ đều buồn và sợ tiếng kèn ấy; đó là tiếng tiễn đưa một chiến hữu đã chết dù trong trường hợp nào, và người ta gọi nó là khúc Chiêu Hồn Tử Sĩ.”

Có phải không, tiếng kèn đêm đó của người lính già còn là để hạ huyệt một niềm tin đã lỗi, cùng lúc để truy điệu hồn chiến binh nơi ông, thêm một lần bỏ súng.

 

Truyện không biết viết từ lúc nào mà làm xúc động như mới hôm qua hôm kia. Và sẽ còn làm xúc động tới năm sau, năm sau, năm sau nữa ... tới khi nào còn những người Việt đã có lúc chiến đấu cô đơn cho sự sống còn của miền Nam, rồi phải bỏ nước ra đi, xứ lạ, rồi vẫn còn tiếp tục cuộc chiến đấu bị bỏ dở. Sự xúc động đó, sẽ còn đó, cho đến khi ... lớp người đó lần lượt ra đi, cho tới lượt sau cùng, người cuối. Những lời thề, rồi sẽ được tẩn liệm theo. Ngày, tháng, nắng, mưa, vòng quay vật vã của đời sống và sự quên lãng thường tình của lòng người sẽ làm phai mờ hết dấu vết. Thế giới còn lại sẽ phơi phới, hồn nhiên như chưa từng có gì đã xảy ra.

 

Truyện chấm hết mà hồn truyện cứ chờn vờn như muốn vượt ra ngoài giới hạn của chữ nghĩa ... Y như người lính kèn bỏ đi rồi mà vọng lại không thôi những hồi kèn ứ nghẹn uất hờn. Giọng văn thản nhiên, trung tính, chữ nghĩa khít khao, chắc nịch, không thừa không thiếu. Chuyện được kể lại như tự nó là vậy, như thị, làm như không có sự can thiệp của tác giả. Bi kịch ở đó và nghệ thuật cũng ở đó. Sự việc diển tiến theo một trật tự tự thân, lạnh lùng đến vô cảm. Từ đó làm người đọc mủi lòng. Nói vậy có nghịch lý không ? Không ! Chính vì cung cách rạch ròi, dứt khoát, vô tính của sự việc được “ liệt kê ” gần như dửng dưng càng làm người đọc cảm ra cái vô tình đến bất nhân của lịch sử ! Tác giả viết truyện bằng lối văn khô mà “sốc”, chữ thô nhám như đục đẻo từ đá núi, cứa đau tới tận những nỗi niềm. Chắc tại vậy, đọc xong rồi thấy sao ngồi bất động, đáy con mắt cay cay. Chợt nghĩ đến những người lính già, anh em tôi, bạn bè tôi, lứa tuổi đã sống chết trọn tình trọn nghĩa với cuộc chiến tranh ám muội mà hậu quả còn mãi đến bây giờ. Những người còn may mắn sống sót, giờ lay lắt cuối đời mình trong những góc phòng chung cư hẹp té, những nhà dưỡng lão om xòm tiếng nói lạ hoắc lạ huơ ... lơ ngơ trên một góc giường xô lệch, lọt thỏm trong chiếc ghế bành quá cỡ, loay hoay với những viên thuốc tim thuốc suyển ... ở đâu đó, trong góc đời lẻ loi, trên xứ người lạc lõng ... Đã có khi nào, một sớm mai nhợt nhạt, một chiều hôm lặng lẽ, một khuya im chập chờn ... quanh đi quẩn lại trống trơn ... bỗng nhớ, bỗng tiếc, bỗng hận ... bỗng buồn!

Ngày tháng tiêu hao ...

Họ đã sống quá đời họ, sống hơn những đòi hỏi của bổn phận và trách nhiệm thường tình, sống thay cho thế hệ mình để cố lội ngược dòng những cơn lũ. Tuổi trẻ họ dìm trong lửa đạn, chết chóc, tù đày ... Họ đã trần thân đi suốt con đường thập giá của chính mình và của quê hương. Để sau rốt, trong cơn hấp hối của niềm tin, còn cố vớt vát vá víu từng mảnh rời hy vọng cho dẫu nhỏ nhoi, dẫu mong manh hơn bọt bèo đi nữa.

 

Rồi đến lúc, niềm tin cũng chỉ còn là ảo ảnh của những thề nguyền.

 

Rồi đến lúc, ngay chính họ cũng chỉ còn là cái bóng của chính họ, xiêu vẹo nhạt nhòe khi trời chiều trở mặt sang đêm.

 

Đâu có gì buồn hơn khi ngày đến hồi ... chạng vạng.

 

 

Cao vị khanh

*Kính tặng những người anh ...

 

* trích từ truyện Người lính kèn và viên đại úy

Hà_Thuc_Sinh_by_Ta_Ty.png
Hà Thúc Sinh by Tạ Tỵ
Source: Internet
_____________________________________

chữ nghĩa giữa hồi “đại dịch”

CVK_chunghia.jpg

- Đọc Nguyễn Viện, người viết văn ở xứ “ chxhcn Việt Nam ” -

 

 

Đã lâu lắm, lâu từ cái lúc ôm nỗi nhục bỏ nước trốn đi, tôi ít khi tìm nhớ lại khoảng thời gian tôi đã sống qua ở đó, sau tháng tư năm bảy mươi lăm. Trại tù. Học tập. Cải tạo. Chợ trời. Phường. Khóm. B2 B3. Biểu ngữ. Tuyên cáo. Nghị quyết. Những chiếc loa phóng thanh ra rả đêm ngày. Nón cối. Dép râu. Túi dết. Những cuốn sách trân quí như người tình đầu đời bị chất đống trên những chiếc xe ba gác truy-lùng-sách-vở-phản-động (sic). Và phừng phừng ngọn lửa phần thư nơi đầu đường xó chợ. V.v... và v.v...

Tôi cố quên những hình ảnh, những cảnh tình đã sống trong 5 năm trót được ... “giải phóng”.  Tôi cố quên như cố quên một mụt nhọt đến hồi làm độc, sưng tấy máu mủ đau nhức cùng cực rồi thời may lặn mất. Vậy rồi, riết thành quen, tôi quên luôn tôi đang có một nước Việt Nam không còn dính dáng gì đến tôi vì thứ chính trị cuồng tín dựa hoàn toàn trên sự ngụy trá, một nước Việt bị tàn phá còn điêu tàn hơn cái lúc bị dập vùi bằng súng đạn. Tôi sống lơ ngơ ở xứ người, may là lao động để kiếm ăn chớ không phải lao động để vinh quang như lời bác-và-đảng (?!) đã dạy nên dù cực thấy mồ mà vẫn thấy khỏe ru, lúc rảnh rổi lại cải lời « bác-và-đảng » (?!), vảnh tai nghe nhạc vàng đến nỗi đâm ra mê mẩn, rồi lại lục lọi tìm đọc cho được thơ văn của những tên tuổi cũ từ thuở Sài-gòn chưa đổi tên, đôi khi chen vào những cuốn phim tây, phim mỹ ... Tại ( nhờ !) vậy mà rồi quên bẳng cái thiên đàng xhcn mà « bác-và-đảng » (?!) đã dày công chụp giựt cho được, bất kể bê bết máu xương.

 

Thật ra không phải tôi muốn quên, chỉ là tôi không muốn nhớ.

 

Tôi không muốn nhớ lại vì chỉ vỏn vẹn trong 5 năm ở đó mà tôi thấy như mình vừa trợt chân tuột lại phía sau hằng hằng thế kỷ trên biểu đồ tiến hóa của nhân loại. Kiểu như đã có lần ông Nguyễn Chí Thiện bóng gió... Từ vượn lên người mất mấy triệu năm. Từ người xuống vượn mất bao năm ? Thật ra có cần gì đợi tới bao năm. Liền-tức-thì. Ai đã sống ở miền Nam sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 hẵn là không cần gì phải đợi. Không phải đơn thuần là sự thiếu thốn vật chất. Mà chính là trên bình diện tinh thần, tôi không chấp nhận sự thay đổi đó. Những người mới cướp được chính quyền đã moi móc hết mọi thủ đoạn để chèn ép, xua đẩy người miền Nam xuống loại công-dân-hạng-nhì, với chủ trương kỳ thị hẹp hòi không ngoài mục đích trả thù nhỏ nhen của họ. Cuộc trả thù bất nhân, hậu quả của một cuộc chiến vô đạo !

Dĩ nhiên, sau một cuộc thay đổi chế độ, không ai đợi phải được ân cần đối đãi. Người miền Nam mà không bị lùa như từng bầy súc vật bị lùa vào lò sát sinh khi Khờ-me đỏ tiến vào Nam Vang đã là phước đức. Tuy nhiên nếu không bị xử tử bằng mủi súng lục kê vào màn tang mà bị ... cải tạo để xây-dựng-con-người-mới-xả-hội-chủ-nghĩa kiểu như ở miền Nam buổi đó thì nói thiệt có khác gì cái lối mấy ông vua tàu hồi xưa xử người ta theo lối lăng trì, xẻo từng miếng thịt cho chết dần chết mòn, vừa chết vừa đau nhức ... Chẳng vậy mà hồi đó, người ta hay nói cái cột đèn mà có chưn chắc cũng ... vượt biên. Biết bao nhiêu oan trái đã ứ đầy nước mắt. Nhưng thôi, chuyện qua rồi. Nhắc hoài người ta biểu mình thù dai. Nhưng mà ....

Chỉ có điều, ngoài cái chuyện tù tội, đói ăn ... Cái chuyện làm tôi ... “khủng” (!) nhất là thứ ngôn ngữ nói và viết của quí vị đi làm cách mạng từ rừng núi sình lầy của miền Nam hay từ bờ phía bắc của con sông Bến Hải trào qua !

Rõ ràng là sau khi xử tử nền dân chủ non yểu của miền Nam bằng đủ thứ súng đạn, dao găm, mìn bẩy, thừa-thắng-xông-lên, họ xài luôn thứ vũ khí tàn độc không kém gì mấy con vi-rút 19 bây giờ. Nó không nổ dòn như AK 47, không nổ tung như hỏa tiển 122 ly, mà nó nổ từ từ như thứ mìn nổ chậm. Đó là thứ chữ và nghĩa phát sinh từ những xưởng đúc người đồng bộ, những khuôn chế người đồng dạng, đóng khung suy nghĩ, triệt tiêu sáng tạo, che mắt bít tai bịt miệng hai mươi mốt năm miền Bắc ... nay được dịp phá rào cho đại dịch cộng sản lây tràn về Nam. Ngoài thứ chữ nghĩa với ẩn ý chính trị tráo trở nhằm để lừa gạt : xâm lược thì nói trớ lại là « giải phóng », bỏ tù thì lấp liếm là « cải tạo », tẩy nảo thì gạt gẫm là « học tập », giựt nhà giựt của thì dối trá là « quản lý », thưa gởi mà làm như quen rình mò nhau nên kêu là « báo cáo », cướp giựt tài sản thì mồm loa mép giải là « cải tạo công thương nghiệp » ... còn hằng hà sa số chữ nghĩa ngây ngô không kém gì bản mặt ngây ngô của mấy chú cán binh trước phố xá Sài-gòn bữa đại thắng-mùa-xuân !!! Kể ra sao cho hết, thứ chữ Việt mới và lạ. Mà quái lạ thiệt.  « Hải cảng » coi bộ chắc sợ bị Bắc-thuộc-lần-thứ-ba nên sửa là « cửa khẩu » bất kể từ « khẩu » – gốc Hán-Việt đã có nghĩa là cửa ! Sao không nói là cửa-cửa cho nó đúng điệu ... cà lăm luôn. Rồi còn cái « vụ » và cái « việc » nữa, coi bộ sợ chưa rõ nghĩa tới « đỉnh-điểm » nên lắp ba lắp bắp là « vụ việc » cho chắc ăn hơn ... Lắm khi lại còn lên mặt, cải lời ông bà xưa đã dạy ... dốt hổng chịu dựa cột mà nghe, lại cứ vênh váo nói chữ ... kiểu như phó-tiến-sĩ với lại tiến-sĩ cả nước. Ôi thôi kể ra sao cho hết ! « Ghi tên », làm như nghe ra giống ... ghi tên quá nên nâng cấp lên là « đăng ký ». Rồi « liên hệ », « giao lưu » « sự cố », « nhất trí »...  Rồi « học vị », rồi « xử lý » rồi « bồi dưỡng », « bảo quản », « tư duy », v.v... và v.v... Nghe mà tưởng chừng cả nước đều là « viện sĩ » của một viện Hàn Lâm ... « hoành tráng » !!! Nhất là cái lối xài chữ rổn rảng như phường tuồng, cứ làm nhớ đến truyện ngụ ngôn Con ếch muốn làm con bò của La Fontaine, “Đồng chí nhà bếp nấu cơm « khẩn trương » ( !?) lên nhé. « Tranh thủ » nhanh lên, đói lắm rồi đấy”. V.v... và v.v... Nghe mà rụng rời tưởng đâu là sơn hà tới hồi nguy biến ! Vậy mà đã hết đâu. Còn nữa, còn thứ chữ nửa nạc nửa mỡ, cái nhà căn nhà thành ra « căn hộ » (khi ghép chữ thì dùng cùng một loại chữ, nôm với nôm, hán việt với hán việt, không ai đem râu ông nọ cắm bên cằm bà kia), lính thủy quân lục chiến thì để cho đúng chủ trương trong-sáng-hóa-tiếng-Việt (?!) thì gọi là « lính thủy đánh bộ », phi công thì gọi là « chiến sĩ lái », « giặc lái », đàn bà con gái mà đi lính thì gọi là « chiến sĩ gái » khiến lắm khi vì ù ù cạc cạc tôi cứ tưởng là ... làm gái, trực thăng thì gọi là « máy bay lên thẳng », hai chữ kép « cương liệu » với « nhu liệu » trong ngành tin học nghe tư sản quá hay sao không biết mà đổi lại là « phần cứng-phần mềm », làm cứ tưởng là đang nói tới mấy cái phim sex ! Kể cả nhà bảo sanh cũng được gọi cực kỳ hiện-thực-xã-hội-chủ-nghĩa là « nhà đẻ » ! Hết ý !

 

Vốn dĩ là một thằng mê chữ -mê chớ không phải là giỏi- thiệt tình mà nói tôi buồn hết nói, kiểu như Thúy Kiều khi ngồi buồn trông ra cửa biển chiều hôm mà ngó bốn bên, bên nào như bên nấy cũng buồn hiu. Xui cái là nhằm ngay lúc ba-dòng-thác-cách-mạng đang nổ̉i lên ầm ỉ theo như tài liệu “đảng ta”  đã dạy, nên vểnh tai ra hướng nào cũng nghe ầm ỉ tiếng nhí nhố. Không lúc nào là không nghe, không khi nào là không dội vào tai những chữ những nghĩa cứ như đóng đinh vào tai. Số là sau khi coi như trả xong món-nợ-máu-với-nhân-dân vì cái tội ... đi dạy học trò học chuyện nghĩa nhân, được cách-mạng-khoan-hồng (?) thả ra, tôi tưởng mình đã hết bị tra tấn với thứ chữ nghĩa kêu như bò rống mà rỗng như cái thùng không do đám quản giáo với lại quản huấn thi nhau lải nhải khi còn trong tù. Ai dè, vừa thoát ra khỏi cuộc tra tấn thính giác này lại lọt vào trận tra tấn khác. Lần này cũng huyênh hoang không kém với mớ chữ nghĩa quái lạ, câu cú trục trặc, không biết được moi móc từ cái kho ngữ vựng văn phạm nào mà lại không kém phần ... vô nghĩa, vô lý và vô duyên quá mạng. Hẵn là sẵn đà ... « giải phóng dân tộc », bèn giải phóng luôn mớ chữ nghĩa vốn đã thành khuôn phép. Danh từ bị kéo xuống làm động từ, động từ bị đẩy lên làm chủ từ ... ngữ vựng ngữ pháp ... gì cũng bất kể. Mà kể chi cho mệt. Xài sao cũng được, trong triều ngoài nội gì cũng « tầm cỡ » như nhau !

CVK_MaiThao.jpg
CVK_NguyenSa_2.jpg
CVK_ToThuyyen.jpg
CVK_DinhHung.jpg

            Mai Thảo                Nguyên Sa          Tô Thùy Yên           Đinh Hùng   

 

Ôi, chữ quốc ngữ của tôi ! Thứ chữ đã sinh ra từ ước vọng thăng hoa của một dân tộc vốn đã quá điêu linh qua nhiều ngàn năm dâu bể, dẫu vậy đã trưởng thành và hoàn hảo không kém bất cứ một thứ chữ nghĩa văn minh nào khác. Những bậc tổ tiên uyên bác của tôi, đã vắt đầu vắt óc, nắn nót, chắt lọc, sắp xếp từng thanh âm, từng dấu phẩy dấu chấm ... để tiếng nói câu chữ càng lúc càng uyển chuyển, càng súc tích, càng trầm bổng ... Những bậc tổ tiên tài hoa của tôi đã biến cái mớ chữ không lấy gì làm trơn tru cho lắm lúc khởi đầu trở nên trong sáng, thông suốt, lảng lướt không thua gì những con sông nước ngọt quê tôi chảy xuôi một dòng ra biển. Họ đã làm thơ, đã viết truyện, đã diễn thuyết, đã dạy dỗ ... Từ khi Phan Khôi kéo dài ra cho con-mắt-còn-có-đuôi cho đến năm 1975, ngoại trừ một lúc yên bình ngắn như một cái chớp mắt, thời gian còn lại toàn là chiến tranh. Giặc giã liên miên, từ rừng núi kéo về đồng bằng rồi lan vô thành phố. Vậy mà giữa khi bom đạn mù trời vẫn lượn lờ những câu văn câu thơ đẹp tuyệt vời. Thử đọc lại mấy câu thơ của Quang Dũng những năm  40

Khói thuốc xanh dòng khơi lối xưa

Đêm đêm sông Đáy lạnh đôi bờ

Thoáng hiện em về trong đáy cốc

Nói cười như chuyện một đêm mơ

Chữ nghĩa, thi ảnh, vần điệu ... mọi thứ đẹp lung linh như chuyện Trang Sinh nằm mộng.

Hay vài câu thơ của Nguyên Sa những năm 60

Người dáng dấp bơ vơ của bầu trời hải đảo

Tóc bồng bềnh trên nếp trán ưu tư

Những ngón tay dài ướm trọn mấy nghìn thu

Mà men sáng trong xanh mầu trăng vời vợi

Thơ là thành tựu tuyệt vời của những vận động liên tục nhằm thăng hoa một ngôn ngữ vốn đã lắm lần bị chèn ép.

Hay Tô Thùy Yên những năm  70

Những người thuở trước bây giờ lạc

Trong dã sử nào như bóng mây,

Trong trí nhớ nào như giọng hát

Hỡi ôi, trời đất lạnh tình thay !

Thơ biểu hiện cho sự trưởng thành của chữ nghĩa, phong phú và xảo diệu, vượt  bỏ ranh giới hạn hẹp, thô nhám của vật chất (cụ thể) để vươn tới cõi lung linh của khái niệm trừu tượng (tinh thần).

Hai mươi tám chữ thôi mà thơ xô người ta té ngửa vào cõi minh triết diệu kỳ của mông lung Lão Đam thiên-địa-bất-nhân-dĩ-vạn-vật-vi-sô-cẩu.

 

Cả một thế giới hoa lệ của chữ và nghĩa đã được dựng lên với tâm ý chân thành và tình yêu dân tộc của bao lớp người đi trước, dù có học tàu học tây vẫn một lòng chung thủy với nước non, để ra sức điển chế một ngôn ngữ nôm na mộc mạc thành một ngôn ngữ văn chương giàu có và tinh tế. Đọc thử một câu văn của bất kỳ một nhà văn nào ở miền nam nước Việt trước năm 75 coi, nếu không hoa mỹ thì cũng trong sáng, dù giản dị vẫn rõ nghĩa, cú pháp chững chạc rạch ròi. Chủ từ, động từ, tính từ, túc từ, trạng từ, giới từ ... đâu đó phân minh, rạch ròi, rõ ràng như đinh đóng cột, chưa kể những thủ pháp mỹ từ, chính xác mà lả lướt không khác gì người họa sĩ vẫy cọ lên tranh mà đường nét và màu sắc hè nhau thoát bay ra ngoài khung gỗ.

 

Thử đọc vài câu tùy bút của Đinh Hùng về một mùa thu dĩ vãng.

... Thu năm nay, tôi lại đi trên con đường vắng này, nghe từng chiếc lá rơi trên bờ cỏ. Nắng ở đây vẫn là nắng ấm ngày xưa và linh hồn tôi vẫn là linh hồn tôi năm trước ... Tôi đem lòng về để gặp mùa thu thương nhớ cũ và may cũng thấy thu về để nước hồ xanh...

Trời ! Văn chương gì mà chữ nghĩa lóng lánh như ngàn đốm sao đêm trên nền trời đen mượt.

 

Đọc thêm chút Mai Thảo trong Chuyến tàu trên sông Hồng :

... Hình dung thấy con tàu đó trên con sông đó. Con sông Hồng. Như dòng máu đỏ tươi chảy băng băng khắp vùng trí nhớ bâng khuâng. Con sông như một đời sống vĩ đại. Bên này bãi lở. Bên kia bãi bồi. Tiếng sóng giữa dòng trùng trùng ca hát. Tiếng sóng dập cái tiếng dập mênh mông đầu ghềnh nơi tả ngạn bị hút xoáy mải miết, nước xôn xao róc rách đẩy lùi mãi những bãi dâu và những nương khoai vào những chân tre cũ. Nơi tả ngạn, ngọn sóng hiền lành mùa lũ này qua mùa lũ khác. Đứa nhỏ trôi theo con tàu trên dòng trường giang hùng vĩ chợt nhớ tới những con sông làng thon mềm dải lụa có trâu đầm từng đàn dưới bóng đa nghiêng, có những chiếc cầu đá dẫn tới một phiên chợ sớm đầu đình, có những cầu gạch mở vào những cái ngõ lang thang mất hút, có cỏ gà trên gò đống, cỏ ống trên mồ mả, có những cầu tre tay vịn chòng chành, đêm đêm có ánh đom đóm lập lòe, có ánh trăng mướt chở tới những khoảng sân gạch Bát Tràng nồng ấm hương lúa đầu mùa. 

Hay Nguyễn Đình Toàn trong Đêm lãng quên :

… Tôi đã nghe thấy tất cả cái hắt hiu tàn lạnh của một đời người, của những đêm mải mê trong các cuộc truy hoan, đỏ đen tích lại trong máu huyết, bây giờ đang muốn tắt đi cái dư vị cuối cùng, tắt đi cái chút lửa còn sót mỗi khi cơn bệnh bớt hành hạ, cho cái cảm tưởng, ta vẫn còn chân tay vẫn còn đời sống… Những buổi xế chiều, những sớm âm u, những giờ phút đời sống đã tự giấu mặt, đã lẩn khuất, đã lẫn lộn, tuổi già như một cơn nước lụt đã dâng lên tới ngang ngực, hơi thở đã khó khăn, những thú vui đã bị dìm cả xuống vực thẳm phiền muộn, những nỗi phiền muộn không tên…

Mà thật ra, cũng không cần phải nhắc chi đến những nhà văn nhà thơ tên tuổi. Ngay  cả một người học trò cấp trung học ở miền Nam thời đó cũng thừa khả năng viết thành câu đúng chính tả, văn phạm. Và rõ nghĩa như một cộng một là hai.

Viết gì thì viết, tả cảnh tả tình, tả chân hay lãng mạn, viết đơn xin việc hay viết thư xin tiền kể cả khi rộn ràng cưới hỏi hay ngậm ngùi cáo phó, câu văn câu thơ ở miền Nam trước khi cháy rụi vì ngọn lửa phần thư láo lếu đã rất trong sáng, mạch lạc, cú pháp rõ ràng chặt chẽ. Chẳng bù từ đó đến nay ...

Từ đó đến nay, chẳng những mạng người bị cách cái mạng thôi mà chữ nghĩa cũng chạy không khỏi nạn bị tẩy nảo đến độ dở dở ương ương.

Kể cả khi đã chạy bán mạng qua tới xứ người, những năm 80, chưa kịp hú hồn hú vía, tôi lại tá hỏa khi bất chợt nghe dội lại từ bên kia biển lớn mấy cái tiếng Việt ... lạ hoắc, lạ tới nỗi hai lổ tai lại lùng bùng : ùn tắc, quá tải, cười té ghế, siêu sao, bức xúc, tiền bo, fan cuồng ... và ... và ... kể cả mớ chữ cũ nhưng đã được cải tạo rốt ráo để thích hợp với con-người-mới-xã-hội-chủ-nghĩa (!) : giải phóng mặt bằng, vùng sâu vùng xa ... Muốn đúng điệu, nói phải có chứng, lẽ ra tôi phải kê ra đây bảng liệt kê dầy mo đó. Nhưng khổ nổi, tôi vốn dị ứng với những gì trái tai gai mắt nên nghe thấy rồi là quên rồi, bây giờ mà cố nhớ lại chắc không khác gì ... tự tra tấn. Nên đành ... Dẫu vậy, cũng xin kê ra đây một mẫu tin ... bất ngờ rồi vô ý ... để lọt vô mắt và bảo đảm trăm phần là có thiệt chớ chẳng phải fake news thời thượng. Tin như vầy: 

             Chuyên gia dịch tễ nói gì về số ca mắc liên tục giảm?       

                  Báo Nhân dân điện tử ngày thứ hai, 06/04 /2020, 09 :46 :31

          Tin được in đậm theo mẫu chữ Helvetica cở 18. Bảo đảm không thêm không bớt nửa nét nửa chấm. Đó là bản tin của cơ quan ngôn luận chính thức của cái đảng đang cầm quyền tối thượng ở nơi quê hương khốn khổ của tôi.

Đọc rồi phát muốn bắt chước một cách nói liệu thường nghe trên miệng đời gần đây. Hiểu chết liền !!!

Sẵn trớn tới luôn cho đỡ phần ấm ức. Đã có lần nào đó, trên cái vùng đất đầy những cung-văn-hóa mà nhà nước đã hô hào xây cất, có một tấm bảng hiệu của nhà nước (lại nhà nước) được dựng lên bên đường để dạy dỗ dân. Như sau:

CVK_sign.jpg

Nhà nước mà viết văn chấm câu xuống hàng kiểu này, lỡ đàn ông con trai trên trái đất đang lúc nhúc người này đổ xô về xin tị nạn rồi lấy đâu mà gả bán cho đủ sau khi đã gả bán qua Đài Loan, Đại Hàn ! Hết ý !

 

Đành rằng ai cũng biết, ngôn ngữ cũng có đời sống, có sinh có tử. Không ai cản được, theo dòng đời sẽ có những chữ biến mất, những chữ mới sinh ra để thay thế hay để đáp ứng với những nhu cầu mới. Tuy nhiên, y như trong một xã hội, đứa nhỏ được sinh ra trong một gia đình có học thức vẫn thừa hưởng được chút gì vốn liếng của cha mẹ nên ít nữa hàng xóm làng giềng cũng đỡ phần bị phiền phức. Đằng này ... !

Lại nữa, thói thường, người ta vẫn phân biệt hai loại ngôn ngữ : nói và viết. Khi nói thì ba hoa chích chòe sao cũng không đến nỗi, ba cái tiếng lóng, tiếng địa phương, tiếng lề đường xã hội đen xã hội đỏ ... gì cứ mặc tình. Vui thôi mà. Tuy nhiên, khi viết, mỗi loại ngôn ngữ, Tây Tàu Anh Mỹ và ... Việt Nam v.v... đều có khuôn phép riêng của nó gọi là văn phạm. Văn phạm chính là cái khung chung làm mẫu mực để già trẻ bé lớn đàn ông đàn bà, thuận thảo hay chống đối, bán-vé-số hay đại gia ... gì gì khi đọc đều hiểu rõ chung một ý. Mười người, hay mười vạn người đều thụ nhận như nhau ... nếu biết đọc biết viết.

Đằng này ... Lại đằng này ... !!!

 

Tại vậy đó, mà lâu rồi, lâu lắm rồi, tự trong tôi có một phản ứng vô thức xúi tôi thà làm người vô tri hơn là hữu tri mà tri toàn chuyện ... dị hợm. 

Nhưng mà ... nói thì nói vậy chớ lắm lúc nghĩ lại thấy buồn lắm !!!

 

Cái thứ ngôn ngữ này, nó vốn « lây lan »(?!) không thua gì mấy con vi-rút thời nay. Một người dùng, rồi hai ba, rồi năm bảy ... Có người nghe rồi muốn giễu cợt, nói theo cho vui, vui rồi quen miệng lúc nào không hay. Sẽ đến lúc, y  như mọi loài vi khuẩn độc hại, nó ẩn núp trong cõi vô thức. Rồi dù không chủ ý, chữ nghĩa biến dạng, phát ra ... Mười mươi người. Chục. Trăm. Ngàn ... Cả đến không ít người bỏ công bỏ của chạy bán mạng, qua rừng qua biển, núp bóng tá túc xứ người. Vậy mà khi tụm năm tụm ba, có dịp vui miệng giễu qua giởn lại, nói năng theo kiểu quê nhà ... riết rồi một lúc nào đó, vô tình phát ngôn không khác gì người đang hoạch họe ở đó. Kể cả một số quí vị đã tự nguyện mang trọng trách đối với mấy cái cộng đồng người Việt lưu vong, nhảy ra làm báo, cũng vô tình –hay hữu ý (!?)- không biết mà lắm khi bê nguyên văn một bản tin được viết bằng thứ chữ Việt không lấy gì làm đúng văn phạm cho lắm ở bên đó mà in lên giấy trắng mực đen ở bên này !!! Hay trên cái không gian ảo gọi là báo ... mạng !!! Sao không kiên nhẩn thêm một chút, bỏ ra thêm năm ba phút, sửa chữ chấm câu cho đúng lề luật, cho bỏ công đã ê a tập đánh vần từ năm lên ba lên bảy, đã gò gẫm tập chấm câu từ tuổi chín, mười... mà mấy ông thầy bà cô già đã còng lưng sửa nắn cho mình ! Hởi ôi ...

Rốt lại, cái chuyện vượt sông vượt biển ... !

 

Nhưng mà rồi, nói thì vậy, không có nghĩa là tôi dứt tình với quê hương. Tôi thương lắm chớ cái xứ sở khốn đốn còn đang giẫy giụa trong bàn tay thô bạo của đám cầm quyền ... chẳng những thiếu chữ mà còn thiếu nghĩa với dân tộc, chỉ có biết hết lòng đem bán nước đợ dân.

 

Tôi đã cố quên. Chẳng qua như một thứ... giận lẫy !

 

Chẳng qua, vì sau 40 năm gọi là hòa-bình-độc-lập-thống-nhất dưới sự cai trị của người cộng sản, tôi chỉ thấy hết điêu tàn này đến điêu tàn khác trong lòng người dân Việt còn kẹt ở đó. Ở đằng sau những dinh thự cung đình, những tòa cao ốc ngất ngưởng, những phi trường, xa lộ phẳng phiu ... lần lần được dựng lên, tôi lại thấy quá nhiều những nhiêu khê phiền muộn chìm nổi trong lòng của những kẻ có lòng còn sống lây lất đâu đó trong cái xứ đứng chông chênh trên đỉnh-cao-của-trí-tuệ-loài-người (sic).

Vâng, sau hết, vẫn còn những tấm lòng điêu tàn đang bị chôn vùi đâu đó dưới những lớp phù hoa giả tạo. Do một tình cờ đẩy đưa, tôi đã bắt gặp một cõi điêu linh ... dữ dội còn ở đó.

Lần gặp gỡ đầu tiên, trên web Tiền Vệ từ vài năm trước, vừa đọc xong câu kết một truyện ngắn,  tôi bỗng thấy chới với ! Truyện ngắn “Gió ở lưng ” !

 

Y như thứ cảm giác choáng váng ớn lạnh khi bất ngờ đối diện với khoảng trời rộng vô biên nhưng lần này thì lại như úp mặt vào một hố sâu vô tận. Hai tâm cảnh dường như giống nhau nhưng lại khác nhau như trắng với đen. Cái trước, choáng váng vì sự bao la, lớn lao, khoáng đạt ... gợi mở cho những viễn tượng. Cái sau choáng váng vì cảm giác bít bùng, nghẹn ứ ... làm tắt nghẽn hết mọi dự phóng. Như bỗng dưng rồi lọt vào tuyệt lộ.

Đọc một lần rồi đọc lại lần nữa. Vẫn nguyên cái cảm gíác như bước hụt một kè đá rồi lọt tỏm vào một hố sâu. Sâu không đáy. Chung quanh bít bùng tới ngộp thở. Mà cũng chẳng phải tác giả kể chuyện khoa học giả tưởng hay thần kỳ ma quái gì. Truyện chỉ là loại chuyện hằng ngày, xảy ra ở bất cứ đâu đó ở cái miền Nam VN, được viết 32 năm sau ngày hô hoán lên đã giành được độc-lập-tự-do-hạnh-phúc.

Truyện bắt đầu như vầy :

1.

Ông đi ngang quán cà phê lợp lá lụp xụp. Có hai ba cô gái ngồi phía trước. Một đôi mắt nhìn theo ông. Bà chủ quán quen bảo: “Ông cứ thấy quán nào có mấy cây dừa che phía trước, bên trong có mấy cái ghế bố, thế nào cũng có em út”.

 

Vậy đó, chuyện kể lẩn quẩn loanh quanh giữa một người đàn ông chưa già nhưng hẵn không còn trẻ, vợ chết, sẵn tiền bạc giữa khi có rất nhiều, rất nhiều người chung quanh ông ta đang phải chạy gạo từng bữa... và những cô gái, những người đàn bà cô thế, của cải chẳng có gì ngoài cái thân xác cha sanh mẹ đẻ nên đem ra làm vốn kiếm ăn. Chuyện về thứ nghề xưa nhất trái đất này chưa bao giờ thiếu, ở đâu và thời nào cũng có. Dù có đổi tên, sửa chữ thế nào thì vẫn là thứ chuyện muôn đời. Hồi xưa đã có. Bây giờ cũng có. Mai mốt chắc cũng vậy. Tây, Tàu, Ma-rốc, Mỹ Nga ... Tuy nhiên, chuyện xảy ra ở VN, dưới thời xhcn, lại với phong cách của ông Nguyễn Viện thì khác, khác trăm phần !

Chuyện chẳng có gì éo le mà lại toát ra vẻ bi-hài đến thê thảm khi mọi giá trị xã hội bị đảo lộn tùng phèo trong thời chó nhảy bàn độc. Những câu đối thoại cộc lốc, sống sượng  theo lối phang ngang bửa củi, biểu lộ tính chất đốp chát của một thời kỳ mà nền đạo đức lễ giáo ngàn đời đang bị cố tình đập phá để dựng lên một cái khung xã hội mới mà người ta gọi là đạo-đức-xã-hội-chủ-nghĩa.

Tác giả có một lối viết ngắn, gọn và sắc, sắc như lưỡi dao dùng để chém treo ngành. Câu văn, chữ dùng giản dị, rạch ròi, thực, thẳng mà ẩn tàng kim chích của bầy ong vò vẽ. Thứ văn chương khi người ta bị bịt miệng, che mắt và treo lủng lẳng trên đầu những lưỡi gươm Damoclès.

Trong truyện có kể những mối tình trai-gái, kể cả gái-gái– mà thực sự có thể gọi đó là tình yêu theo cái nghĩa chân phương nhất của chữ ? Những người đàn ông qua lại cốt để thỏa mãn nhu cầu tình dục, những cô gái giang hồ – mà thực sự có thể gọi đó là những cô gái giang hồ theo cái nghĩa đen của nó, nghĩa là có tính cách chủ động, chọn lựa. Hay là phải bán thân nuôi miệng, nuôi gia đình khi cảnh nhà dưng không rồi lâm vào tình trạng tuyệt vọng. Đã có một thời người ta xếp loại con người theo lý lịch ( ba đời ). Ông bà cha mẹ cao tằng cố tổ gì cũng được moi ra mà đánh giá, sàng lọc kiểu như sàng thóc rồi hoặc bị xô xuống làm hậu duệ ngụy-quân-ngụy-quyền để tịch biên gia sản hoặc được đẩy lên làm gia-đình-cách-mạng để chia chác của-cải-mới-được-giải-phóng. Đã có không biết bao nhiêu gia đình người miền Nam bỗng chốc bị thiếu cơm thiếu áo khi vừa dứt tiếng súng, cha, chồng, con trai hè nhau bị bắt nhốt vào các trại tù gọi là cải tạo, sau khi đã đuổi nhà giựt của ... Khổ nổi, đôi khi họ là nguồn sống duy nhất của người mẹ trẻ vừa sanh đứa con đầu lòng, của người vợ với bầy con sinh năm một, là chỗ nương tựa duy nhất của những cặp cha mẹ già mòn mỏi giữa bầy em ngơ ngác ...

Những cô gái trẻ măng, những người đàn bà quá lứa ... từng ngày tô son trét phấn len lách qua những túp lều, những quán lá chắp vá bên lề đường trong ngõ hẻm để gọi là ... cạo gió cho mấy ông khách ... trúng gió. Có thể đó là công việc chính thức để « đăng ký » với phường, khóm, công an ...? Nhưng gì thì gì, nội cái tựa của truyện đã là một cái nhếch mép cười ...như mếu. Gió ở lưng ! Hay là một tiếng rủa thầm vào cái bản mặt đạo đức giả của một chế độ chuyên trị ngoa ngôn xảo ngữ ? Ai biết !

 

1.

.........................

Người bạn giơ một ngón tay út. Cô gái cũng đưa ngón tay út cho anh ngóeo. Cánh tay của cô gái đầy lông bất chợt xỉa vào mắt và làm xốn dưới bụng ông. Cùng lúc, ông nhìn thấy về phía cánh tay cô một tấm bảng nhỏ treo trên vách: “Cạo gió-giác hơi-đấm bóp”. Ông hỏi ngay:

-Cạo gió giác hơi đấm bóp, ai làm vậy?

Cô gái trả lời:

-Trước kia má em làm. Bây giờ là em.

Ông cảm thấy mình có cơ hội cho một cuộc vui.

Vậy đó, chẳng có gì là lâm ly. Những người khách đến rồi đi, chụp giựt, bốc hốt. Đồng bạc ném ra, không mất. Vì đồng bạc ném ra là để thu về một món hàng không giá. Cuộc trao đổi sòng phẳng nhưng không thể không ngậm ngùi. Kẻ mua người bán thuận thảo, tiền trao cháo múc, không có người bóc lột và kẻ bị bóc lột để cần phải phát động cuộc đấu-tranh-giai-cấp như đảng-và-nhà nước vẫn rêu rao nên những cuộc mua bán sòng phẳng đó rất được chánh quyền mới ngó lơ. Chẳng qua như một cái súp-bắp an toàn để giảm bớt áp lực trong cái nồi súp-de miền Nam đang sôi sùng sục vì những đòn phép gọi là cải tạo hết mực vô lý và hết mức vô đạo.

 

..........................

Hai ngày sau, ông quay trở lại một mình. Cô gái hỏi:

-Anh lại bị gió à?

-Chắc thế.

-Anh vào trong đi.

Ông lại nắm bàn chân cô ở công đoạn sau cùng.

Những lời đối thoại ngắn, gọn, như những mũi tên được bắn ra, qua lại vùn vụt. Hỏi-đáp. Đáp-hỏi. Những câu hỏi đáp như tự phát, không qua trung gian những nghĩ suy, do dự, đắn đo ... đâu như đã có sẵn, như từ trực giác của mỗi nhân vật. Điều đó có đưa đến câu hỏi ... tại sao. Tại sao nói mà không cần suy nghĩ như thói quen của cái loài ... sậy biết suy nghĩ ( L’homme est un roseau pensant. Pascal) . Tại sao ? Có phải vì nếu suy nghĩ đã chậm mất một tích tắc. Trễ một tích tắc có phải đã hụt mất một cơ hội. Sấp-Ngửa. Trắng-Đen. Ăn-Thua. Thành-Bại. No-Đói. Thiệt-Giả. V.v... và V.v... Đã có một thời. Thời bao cấp. Thời của những mánh mun, lừa lọc, gạt gẫm, lươn lẹo, chụp giựt ... Đã có một thời người ta giành giựt nhau tới u đầu sứt trán nửa thước vải, một chai nước mắm ... Đã có một thời người ta chen lấn, kèn cựa, chửi rủa, xô đẩy, giẫm đạp lên nhau để có được ... một cuộn giấy vệ sinh, một lít gạo mốc, vài trăm gramme thịt cá ươn ... Vâng, đã có một thời như vậy, sau ngày những người cộng sản chiếm được miền Nam. Và quê tôi, con người bị xô đẩy thúc ép tụt xuống hàng bản năng sinh tồn của loài thú bị thương. Lâu ngày, như một thói quen, chuyện trò trở thành đốp chát, ngôn ngữ trở thành vũ khí, theo kiểu bắn-chậm-thì-chết trong phim cao bồi miền viễn tây. Lời lẽ biến thành móng vuốt vừa để trấn áp vừa để tự vệ . Không có cái kiểu dài dòng văn tự lễ nghĩa lôi thôi của bọn-phản-động. Y như chiến thuật du kích. Đánh nhanh rút nhanh.

3.

........................

Một em mạnh bạo nói:

-Xả láng ngày mai trời lại sáng.

-Giỏi. Chị Tư khen đàn em. Chúng mày có biết Thúy Kiều không?

-Cái con đón khách ở đầu cầu Thị Nghè phải không chị? Một cô hỏi.

-Ừ, thì cũng đại loại vậy. Tuy nhiên nó là một mẫu mực tầm cỡ quốc gia chúng mày cần phải học hỏi.

-Nó làm tình hay lắm à?

-Ừ. Làm tình thì đẳng cấp quốc tế. Ngoài nghệ thuật làm tình, chúng mày cũng phải theo gương nó báo hiếu cha mẹ cho phải đạo.

-Tháng nào em cũng gởi tiền về nhà. Nhiều khi phải vay tiền để gởi nữa đó.

-Nói chung, tao thích đứa nào biết có trước có sau. Nói xong, chị Tư bảo: Nâng ly.

-Vô...

Cả đám nốc cạn.

Đọc thử thêm một đoạn ngắn về chuyện mấy cô gái bán thân bàn với nhau cách thức làm ăn. Không thua gì mấy bản quyết nghị hạ-quyết-tâm của đảng-đoàn-chi bộ ... vẫn thường được phổ biến buổi đó.

5.

........................

-Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Thúy Kiều vĩ đại:

-Ôm chân đại gia ngay khi có cơ hội.

-Sẵn sàng làm vợ bé, vợ hai, gái bao khi được chung chi đủ.

-Chiều khách theo yêu cầu.

-Khách không yêu cầu cũng tận tình phục vụ để câu khách quay trở lại.

-Báo cho khách biết khi có kinh.

.........................

Truyện được viết với lối văn cộc lốc, không hoa hoè hoa sói, không tả tình tả cảnh, cũng chẳng lý luận lý giải gì ráo, kể cả lắm khi sống sượng. Tác giả không ngại ngần, cũng chẳng lựa lời lựa chữ như phong cách cổ điển khi viết văn. Có- sao-viết-vậy-người-ơi. Chuyện xảy ra ở một nơi chốn mà ngôn ngữ ước lệ ( thưa gởi hay vâng dạ ) thường không được ưa chuộng. Kiểu như đòi một ông cán bộ trung kiên ăn nói mạch lạc, có đầu có đuôi, có tình có nghĩa thì chẳng khác gì là đi ... “ khiếu kiện” đời nay vậy thôi. Những câu đối đáp qua lại ngắn ngủn, cục mịch ... y như lối nói bạt mạng của những người đã bán mạng mình cho qủy dữ, đời chẳng dám nghĩ đến ngày mai. Chữ nghĩa như thứ trái cây sống sít, đắng chát, không đầu không đuôi, ngang bứa ... kể cả tục tằn. Tác giả viết mà như dang tay bưng nguyên cái quán lá với đầy đủ bàn ghế ly tách, cái giường sắt nhốp nhúa, khách khứa gái ghiếc ... với nguyên vẹn những đẩy đưa ong bướm, nguyên vẹn không thêm không bớt một tiếng cười, một tiếng cải lẩy, một tiếng rủa xả hay một cái nguýt háy ghen ghét. Y chang thứ không khí đùng đục thường trụ những nơi đó. Thật như không thể thật hơn nữa. Bởi vậy mà đọc tới đâu sững sờ tới đó. Những chữ và nghĩa trần trụi như thứ truyện không có chuyện lại làm toát ra một văn phong chững chạc. Chững chạc tới độ lạnh ngắt. Lạnh ngắt mà nóng hổi thời sự. Thứ thời sự mặn chát nước mắt nuốt ngược vì uất ức bởi những oan khuất mà cả miền Nam đã gánh chịu ngay sau khi vừa biết mặt mũi của hai chữ hòa bình. Ngược đời là chính những người tự xưng đã mang lại hòa bình cho dân tộc đã làm bùng nổ ra một cuộc chiến tranh khác, không ì ầm tiếng bom đạn mà lại tàn phá hồn dân tộc không thua gì bom đạn. Chính sự nghịch lý đó đã làm nền cho bức tranh hiện thực mà tác giả đã vẽ ra theo lối ý-tại-ngôn-ngoại.

Cả một nền đạo đức lễ giáo vốn dĩ là nền tảng dựng nước và giữ nước từ ngàn năm, bỗng chốc bị thẳng tay phá hủy đưa đến tình trạng cả nước như một ngôi nhà không còn kèo cột, mọi giềng mối bị phá tung, giựt sập ... Người có quyền thì mặc tình thao túng, nếu không cướp giựt ̣được công khai thì lương lẹo để cướp giựt, không phải từng-cây-kim-sợi-chỉ mà từng căn nhà, khoảnh đất ... rồi nhà lầu rồi xưởng máy v.v... và v.v ... Người bị cướp thì lê lết ra lề đường xó chợ mà mắt thì ngó dáo dác tìm đường ra biển ... hể được dịp thì hè nhau bỏ xứ mà chạy bất kể công an biên phòng, sóng gió, hải tặc ... Người kẹt lại thì như con thú bị mắc bẫy, lúng ta lúng túng, vật vã xoay trở đủ cách để sống còn, kể cả bằng bản năng sinh tồn của con-vật-người mà người ta luôn tìm cách chế ngự.

Thêm 10 năm, 20 năm, 40 năm sau ..

Thử đọc lại đôi dòng trong một bài viết của ông Hà Sĩ Phu có tựa đề là “Tổ quốc trước cơn liệt-khùng nhân cách”, chắc đâu khoảng mươi năm trước :

“ Sự liệt thường được hiểu là dịu đi, xỉu đi… nhưng sự liệt này lại kèm theo một hội chứng hung hăng đầy rẫy bạo lực : chưa bao giờ người Việt lại xài vũ lực với nhau hăng như bây giờ. Hành hạ, tra tấn, chém giết nhau như cơm bữa. Những cuộc “đấu tranh không khoan nhượng, một mất một còn” này, những cuộc “phê bình bằng vũ khí” này lại không phải là đấu tranh giai cấp như  Mác-Lê mô tả, mà toàn là trận chiến trong gia đình, trong nhà mẫu giáo, giữa bạn bè, thầy trò, giữa công an với dân… trong hàng ngũ cách mạng với nhau cả. Cô giữ trẻ cấm trẻ khóc bằng cách bịt miệng cho đến… chết, công an bịt miệng bị cáo giữa tòa án nghiêm trang, trò nện thầy ngay trên bục giảng, cô giáo bắt học trò liếm ghế của mình, bà là mẹ liệt sĩ mà bị cháu đánh gãy xương nên  cũng thành “liệt”… sĩ luôn, nhà trường giao học sinh cho công an dùng vũ lực dạy giúp, công an tống súng lục vào miệng học sinh để hỏi cung, công an tạt tai khách qua đường hoặc đánh cho lên bờ xuống ruộng chỉ vì quên không đội mũ hoặc đi ngược chiều …”

Rồi đem so với thời buổi bây giờ, ngày này tháng này năm này, thử coi có khác đi chút nào. Hẵn là không. Không một chút thay đổi, ngoại trừ tên gọi của nạn nhân, chức tước hay quyền lực của kẻ cầm quyền.

Mới đây, ngày 16 tháng 6 năm 2020, trên báo Người Việt lại đăng tin chuyện một người đàn bà, vốn là cô giáo, cởi quần cởi áo, bỏ thân lỏa lồ, chạy phăng ngoài đường phố để kêu la cho một nỗi oan ức. Thử nghĩ coi, một người đàn bà ( cô giáo ) với tất cả sự e thẹn, kín đáo cố hữu của phụ nữ mà đến nỗi lấy chính tấm thân trần truồng của mình làm phương tiện kêu la. Nỗi uất hận đó hẵn là lớn hơn gấp bội lần phẩm giá của con người !!! Đây lại không phải là lần duy nhất. Cái chuyện gọi là dân-oan-khiếu-kiện, kể cả cởi truồng để « khiếu kiện » dường như đã xảy ra hà rầm, ở đó.

Đọc xong bản tin, tôi vuột miệng chửi thề mà không kịp bịt miệng. Ủa, mà tại sao lại bịt miệng ? Tán thán từ nào trong chữ nghĩa Việt Nam đủ nồng độ để diển tả sự phẩn uất và chán chường trong tôi ngoài cái tiếng chửi thề tục tằn mà ai nấy chắc sẽ ngại ngùng khi nghe tới hay khi lỡ miệng tuôn ra.

Ấy là chưa kể tới ba cái vụ « biển đảo » với lại « tàu lạ » của ... Tàu phù !

Trên cái phông một đất nước với tệ trạng chính trị và thảm trạng xã hội như vậy, thử coi còn có thể lựa lời nào hơn để biểu lộ nỗi buồn, niềm đau xót và tức nghẹn cho cả ngàn năm lịch sử của một dân tộc đã có thời tự hào là văn hiến ở một góc trời đông !

Tôi đọc Nguyễn Viện và tôi hiểu.

Văng tục và chửi thề !!!

Truyện Gió ở lưng là một truyện ngắn được phân chia thành nhiều tiểu đoạn, đánh số từ 1 tới  32, cốt chuyện dù được phân chia như vậy vẫn giữ được sự liền lạc từ đầu đến cuối. Thời gian, không gian và nhân vật cũng như tình tiết vẫn xuyên suốt theo chủ đích của tác giả. Quán do ba chị em ruột trông coi với vài ba cô làm công, mua bán nước uống là phụ mà mua bán thân xác là chính. Ông khách quen, lần lượt thân thiết với cô út, rồi ăn ở với cô ba rồi gần gũi với cô hai. Xảy ra vài ba chuyện lủng củng trong nội bộ, cũng có thể gọi là yêu đương, ghen tuông, gạt gẫm này nọ như trong bất cứ quan hệ trai gái nào khác, đặc biệt là trong cái thế giới không còn rào cản của vòng luân lý quen thuộc trước cái hồi bị cơn đại dịch giải phóng. Nếu không có nghệ thuật riêng của tác giả chắc cũng không lấy gì làm lạ.

Chỉ có điều là giữa các đoạn, thỉnh thoảng tác giả chen vào những đoạn mạch không ăn nhập gì với diễn tiến của cốt chuyện, giống như giữa những phân cảnh trong một vở kịch có những màn phụ diễn, ca hát hay làm hề, để lấp đầy khoảng trống cho đào kép có thì giờ thay đổi  xiêm y. Dẫu vậy nhưng lạ một điều, xuyên suốt từ đầu đến cuối người đọc lại không bị lạc lối mà vẫn noi theo cái hướng của tác giả đã vạch ra cho tới khi ... muốn bật ngửa khi vừa hết chuyện. Điều đó có nghĩa là dẫu như chơi mà rất thiệt, tưởng là lu bu mà hóa ra nhất quán. Lối viết như diễn ra hai hoạt cảnh song song cùng lúc, chuyện tưởng tượng xảy ra bên trong chiếc quán lá với những nhân vật cô hai, cô ba .. và  chuyện thật đã và đang xảy ra ở bên ngoài cửa quán, từ những khẩu hiệu giăng đầy đường tới những cung cách thô bạo của đám cầm quyền, cũng như những thảm trạng xã hội ... Tất cả diển tiến song song y như kỹ thuật làm phim mới mà không gian và thời gian trùng lấp lẫn nhau.

Thử đọc một đoạn đối thoại giữa hai cô gái, cuối đoạn 7 với đoạn 8 :

7.

............................

-Mày không thích dâm thì nhường cho tao.

-Bộ chỉ có mày biết kiếm tiền hả?

-Tao vừa thích tiền vừa thích dâm...

 8.

Quỉ vương dưới hoả ngục cười kha kha: Nước có thể cạn, đá có thể mòn, song ham muốn của con người không bao giờ thay đổi.

............................

Hay như :

25.

.............................

Ông xoa nhẹ trên cái bụng căng tròn của cô, hỏi:

-Nếu có xe rồi em còn đi làm nghề này không?

-Em cũng chưa biết nữa. Cô bảo.

-Em có định về nhà để đẻ không?

Cô cười:

-Mắc cở chết.

-Có chơi có chịu, sợ gì.

-Không dám đâu.

-Biết ai là bố đứa nhỏ không?                               

-Chỉ đoán chừng được trong vòng 3-4 thằng.

Tay ông vẫn xoa trên bụng cô. Cô hỏi:

-Anh có thích đàn bà có bầu không?

-Anh thích vuốt ve những cái bụng bầu. Mặc dù nó không phải là con anh.

-Đẻ xong, em bỏ con ở cửa nhà anh nhé.

-Cũng được. Mà biết nhà anh chưa?

-Cho địa chỉ đi.

-Ngã ba Nguyễn Bỉnh Khiêm – Lê Duẩn, quận 1.

-Chỗ đó là Sở Thú mà.

-Đúng rồi. Anh là một con khỉ sổng chuồng.

 26.

“Ở thành phố biển Nha Trang có một nghĩa trang do một nhóm người thiện nguyện lập ra để chôn cất các thai nhi xấu số bị tước quyền làm người. Các em phần lớn được nhặt ở các bệnh viện và phòng khám tư...” (Báo Tuổi Trẻ ngày 23.11.2007). Riêng con của cô gái ở quán cô Út sau này bị vứt dưới chân cầu vượt trên xa lộ vành đai. Khi người ta phát hiện ra đứa bé thì nó đã bị lũ kiến cắn chết.

 Thêm một vài đoạn

Đoạn 4 : Bọn cớm đút súng vào mồm thằng ma cà bông bảo: Cho mày biết thế nào là văn hiến.

Đoạn 12 : Bọn dân quân xúm lại đá dập dái thằng nhóc đang học lớp chín, nói: Cho mày tập làm đại bàng.

 Đoạn 19 : Bọn cớm cùm chân một công dân lương thiện, bảo: Cho mày biết thế nào là công lý.

 Đoạn 23 : Ông giáo sư nói với cô sinh viên đổi tình lấy điểm: Hai vú của em đáng được điểm 10.

Đoạn 29 : Cô giáo nhà trẻ quát: “Đứa nào khóc tao dán băng keo vào miệng”. Tuy thế vẫn có đứa khóc. Cô giáo lấy băng keo bịt miệng đứa bé cho đến khi nó vĩnh viễn không thể khóc được nữa.

Đoạn 30

Ở quán cô Út. Cô gái nói:

-Quán hôm nay vắng, từ sáng đến giờ em chưa ngồi bàn. Anh vào trong với em nghe?

Ông cười không nói gì. Một cô khác đến ngồi vào lòng ông:

-Chỉ có anh là dễ thương nhất.

Một cô đứng sau lưng bóp vai cho ông:

-Chút nữa cho em ít tiền nhé.

Ông hỏi:

-Hôm nay có mấy em?

-Dạ, năm.

-Tụi em muốn ngồi từng em hay tất cả cùng vào?

-Vô luôn. Các em đồng thanh nói.

-Đi. Ông nói rồi đứng dậy.

Các em dìu ông vào phòng trong. Ông nghĩ,  một ngày tàn.

Đoạn 31 : Bọn cớm bảo: Biểu tình tự phát chống Trung Quốc xâm lược Hoàng Sa – Trường Sa là bất hiếu, bất trung, bất nghĩa, bất hợp pháp. Nói chung là láo.

Đoạn 32 :

Người đàn ông cảm thấy thế giới chỉ còn l ... là đáng kể.

Hết chuyện.

( - xin cho tôi hết lời tạ lỗi cùng tác giả về cái tội lược bỏ một nguyên âm (ô) với một phụ âm (n) và một dấu giọng (dấu huyền) trong câu kết truyện mà riêng tôi, tôi thấy trầm thống không khác gì thủ pháp sư tử hống. Nó khép lại để mở ra cả một thế giới dù bị cố tình che đậy vẫn cứ hở ra toác hoác trước mắt người thiên hạ. Khổ nỗi, như bất cứ một kẻ hèn nào lúng ta lúng túng trong mấy tấm lưới phong tục tập quán xã hội đạo đức giăng quanh nên đành.. tự-ý-đục-bỏ !!! )

Cái đời đọc sách ngắn ngủi của tôi so với sức sống vạn niên của sách vở chẳng khác gì như đem chim sẻ mà so với hồng hộc. Tuy nhiên, được cái là do tánh ý thày lay, tôi có thói quen đọc bất kể, chính trị lịch sử văn học phê bình hồi ký, trinh thám võ hiệp tâm lý ái tình đường rừng xã hội ... ngay cả dâm thư. Tôi đọc tuốt luốt, chẳng phân biệt best-seller với lại sách-in-tặng-không-bán, và cũng chẵng phân biệt chủng tộc, vàng đen đỏ trắng ... Vậy mà cam đoan chưa bao giờ tôi sững sờ, sửng sốt, sựng ... lại nín thở mấy giây đồng hồ như khi đọc tới câu cuối của Gió ở lưng ! Vậy mà khi hoàn hồn lại cười khà, như vừa nín thở nốc xong một ngụm rượu mạnh, khà một tiếng cho hả hơi mà cũng cho thỏa lòng khoái trá. Rồi lại muốn được đối ẩm cùng tác giả mà cụng ly cho thỏa lòng ngưởng mộ.

Thật vậy, có mấy ai mà dám hổn hào khi đem tung hô bộ phận sinh dục của người đàn bà một cách công khai và quyết liệt như vậy để đối chứng với thực chất của một xã hội ... dù vốn dĩ  bại hoại tới hết thuốc chửa. Mà lại công khai xài luôn cái tiếng nôm na, trắng trợn mà cả và thiên hạ ai nấy đều tránh né ngoài mặt dù trong lòng ... ! Ẩn nghĩa của câu văn là một phản chứng hùng biện nhất cho những khẩu hiệu tuyên truyền treo đầy đầu trên xóm dưới mấy chục năm qua ở đó, là lời kết án hùng hồn nhất về những tội ác mà đám cầm quyền đã chủ trương hoặc dung túng làm tình làm tội cả mấy chục triệu dân Việt từ khi độc quyền làm chủ đất nước.

Đúng ra, danh xưng đó tự nó chỉ để gọi một bộ phận trong thân thể người ta, như cái đầu, cặp môi, vầng trán, lá phổi, trái tim ... v.v.... Nó có danh xưng khoa học, nó có tên gọi văn hoa hoặc nôm na như mọi thứ trên đời này. Nó cũng vô tội như cái răng cái tóc là gốc con người mà ông bà đã dạy. Nó được chúa dấu vua yêu. Nó được ông Nguyễn Khuyến, bà Hồ Xuân Hương làm thơ nhắc nhở ... Nhưng rồi theo thói đời vốn vẫn thường mâu thuẩn, càng được yêu chuộng bao nhiêu lại càng bị ganh tị bấy nhiêu, rồi đem gán ghép với những ý niệm xấu xa, chẳng ăn nhằm gì hết đến cái thiên chức mà tạo hóa đã giao phó, rồi đem bêu riếu bằng những giá trị đảo ngược cho hả lòng ghen tức. Đôi khi lại bị mấy bà Hoạn Thư đời nay xách mé nói này nói nọ làm như chỉ có một bên mà làm nên tội lỗi. Bởi vậy, từ cái chỗ kín đáo nhất và thường được yêu vì vậy mà có khi trong cơn nổi tam bành mà nhất là vì ghen tuông, người ta có thể lôi nó ra mà rủa xả nhau, ví như là cái gì xấu xa nhất, ghê gớm nhất ... mà thật ra có gì khác đâu khi được yêu dấu hay bị ghét bỏ. Vì vậy đó mà cứ phải lánh mặt cho yên. Hẵn ai nấy chưa quên bức tranh L’origine du monde của Gustave Courbet được vẽ từ năm 1866 mà cứ phải che che giấu giấu cho mãi đến hơn trăm năm sau mới được đem trưng bày công khai ra cho công chúng thưởng lãm. Hể là hồng nhan thì phải đa truân chăng ? Cho đến cả tên gọi nữa cũng chịu chung phần số. Nói gì thì nói, mà hể động tới là già trẻ lớn bé gì cũng ấp a ấp úng, như líu lưỡi tìm cách quanh co để khỏi nhắc tới. Mãi riết rồi, người ta làm như ... kính nhi viễn chi, lục tìm đủ thứ lý do kể cả thuần phong mỹ tục ... để mà tránh né ! Bởi vậy mà chẳng mấy lúc, đã chẳng biết mang ơn thì chớ lại từ một vị thế thân cận, thiết yếu bậc nhất cho dòng sinh mệnh của nhân loại bỗng dưng rồi bị xếp vào loại ... cấm kỵ cho đành. Đặc biệt là trong văn thơ.. Vậy mà, lần này lại được .. lên ngôi !

.....................

Các em dìu ông vào phòng trong. Ông nghĩ, một ngày tàn.

Đoạn 31 : Bọn cớm bảo: Biểu tình tự phát chống Trung Quốc xâm lược Hoàng Sa – Trường Sa là bất hiếu, bất trung, bất nghĩa, bất hợp pháp. Nói chung là láo.

Đoạn 32 :

Người đàn ông cảm thấy thế giới chỉ còn l ... là đáng kể.

Truyện được kết thúc với sự tôn vinh tuyệt đối cái hình tượng vừa quen thuộc vừa cấm kỵ, vừa là cửa ngỏ của đam mê vừa là đầu mối của tội lỗi. Đem đánh đổi hết mọi rắc rối của đời sống, mọi khắc khoải trước vận mệnh của đất nước vào cái chỗ vừa được yêu vì vừa bị oán ghét đó như một phản ứng triệt để nhất về những tệ trạng đã và đang diển ra ngay trước mắt. Sự đồng hóa bằng cách nói nghịch đảo nỗi tuyệt vọng về nạn nước với biểu tượng sex đàn bà ở đây gần như là cách văng tục, một tiếng chửi thề, khi ngôn ngữ bình thường tới hồi bất lực. Đó là biểu hiện tuyệt đối cho ý thức vừa phủ nhận vừa chống đối cái nguồn gốc -chính thể- đã tạo ra thảm trạng đó. Với một cung cách khinh miệt độc đáo.

Đôi khi, chửi thề là cách thế sống ở đời !

Và dường như tác giả còn lắm phen phải chửi thề như vậy.

Còn nhớ, người Nam ta, ngay từ lúc còn nhỏ như củ ấu, vẫn thường được cha mẹ dặn dò kiểu như Mười điều tâm niệm của Hoàng Đạo, không được văng tục hay chửi thề. Ý như cả hai có cùng hậu quả như nhau. Lớn lên, rồi xa cạ với đời chìm nổi, lắm khi giận tím mặt nhưng rồi phút chót, lại nhớ lời xưa, nên đành dằn xuống ... mà lầm thầm ... mình chửi mình nghe !

Vậy mà đọc Nguyễn Viện rồi, tôi lại muốn hợp âm với ông mà ... văng tục với lại chửi thề. Dù vốn chủ trương văn chương vẫn phải là đẹp là sáng như nguyên nghĩa của hai chữ văn chương. Văn chương là trau chuốt, là gọt dủa ... cho đẹp cho sáng từ nội dung đến hình thức. Có điều khi thực tế đã vượt quá mức chịu đựng của con người. Và ước vọng sửa đổi đã thành tuyệt vọng thì phản ứng dung tục có khi là sự cần thiết để dằn cơn phẩn nộ. Không phải một sớm một chiều đã khiến tác giả phải vung bút phá vở cái khung mỹ thuật cổ điển của văn chương. Hẵn cũng  đã lắm lần đắn đo ... Một khi thực tế, đối tượng của sáng tác đã vượt quá khả năng chịu đựng của con người thì văn chương có còn phải giữ theo mỹ cảm xưa. Hơn nữa, lương tâm của người cầm bút vốn là rào cản cho họ, nếu đã ngăn cản họ thỏa hiệp với cái xấu, cái ác ... thì mọi sáng tác cũng chỉ là phản ảnh trung thực của chính cái thực tại mà họ đã sống, đã hảnh diện hay đã hổ thẹn. Có điều, có lắm khi, lời lời thân ái không bằng một cái quàng vai, có khi hàng hàng chữ không bằng một cái nhún vai, và cũng có khi hàng hàng trang giấy không bằng một tiếng chửi thề ( văng tục !)

Ông Nguyễn Viện còn viết nhiều lắm. Truyện ngắn, truyện vừa ... và thơ. Trong nhiều truyện khác, chữ nghĩa của ông còn sắc sảo, mạnh bạo, quyết liệt và bén nhạy hơn nữa để phơi trần những sự thật bỉ ố̉i được che giấu đằng sau những hào nhoáng giả tạo, lố bịch đến độ trân tráo .... Đôi khi ông mượn luôn những nhân vật có sẵn trong truyện Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du, từ Thúy Kiều, Đạm Tiên đến Sở Khanh, Mã Giám Sinh,Hồ Tôn Hiến ... giữ nguyên tên gọi với riêng từng cá tính đã thành danh của họ, mỗi tên gọi biểu hiệu cho một nhân vật đang cầm quyền, dựng lên một vở kịch đời nham nhở với đủ thứ bi hài để mô tả không run tay cái chính trường đang là hiện thực ở đó. Thích thú cho người đọc là nhờ chính tài năng và tính cương trực thêm một óc hài-hước-xám của một ngòi bút không để bị bẻ cong, ông đã khiến cho người biệt xứ dù xa xôi, vẫn gần như chứng kiến được tận mắt những trò ma mị bỉ ổi của hệ thống cầm quyền ở đó mà họ luôn tìm cách che giấu. Những trò đổi chác, mặc cả, lươn lẹo, lừa đảo, dối trá ... trên số phận của hàng chục triệu người dân vô tội qua miệng lưỡi của những tên Sở Khanh, Mã Giám Sinh ... thời đại khiến người đọc lắm lúc muốn mở miệng ... chửi thề !

Rồi buồn.

Ôi đất nước tôi xa ngàn dặm, có bao giờ tìm lại được niềm hảnh diện của quê xưa để đem khoe cùng thiên hạ !

Sau hết, xin đọc thêm một câu, chỉ một câu thôi, trong truyện ngắn có tựa là Đại gia của tác giả được viết năm 2008:

Quê hương, đồng nghĩa với những cô gái Việt mà Đại có thể dẩn vào khách sạn . – Đại là tên nhân vật chính trong truyện ngắn Đại gia.

Chấm hết. Thêm nữa một vài dấu chấm than !!!!!

                                                                                    Cao vị khanh

( *) Đọc thêm tác phẩm của Nguyễn Viện trên www.Tienve.org

CVK_NgVien.jpg

Nhà văn Nguyễn Viện

________________________________

CVK_chavacon_2birds.jpg

Ba và con 

 

Thời nhỏ dại ba chở con đi học

Xe đạp cao con tay vịn tay đeo

Đường thì xa cuối dốc nhỏ cheo leo

Nắng đổ lửa trên mình ba áo cộc

Con bé bỏng đòn dông đu lọc xọc

Ba nghiêng đầu bóng phủ suốt người con

Ba vươn mình bóng phủ suốt đời con

Bóng phủ dài như cả dãy Trường Sơn

Dang thân chống miền Trung cơn bão nổi

Những chiều lạnh ba co ro đứng đợi

Giấu con trong chiếc áo dạ sờn vai

Phố không đèn gió thổi lá me bay

Con thiu ngủ dựa lưng ba nóng hổi



Chúa nhựt nắng ba dắt con thăm nội

Đường quê nghèo đá sỏi trộn bùn non

Cầu tre cao vắt vẻo nhịp chân dòn

Cỏ dại lấp lối mòn qua xóm nhỏ

Quê nội đó giờ vườn hoang nhà bỏ

Bụi tre già cháy xám quắt queo cong

Qua đình xưa ba thắp nén nhang vòng

 Mắt xa vắng chừng có điều khó nói

Bóng tượng sáng theo từng tia nắng dọi

Dáng ba buồn con thấy cũng buồn theo

Nép mình bên khung cửa gỗ tiêu điều

Con  như thấy một trời ba sầu tủi

Ngày con lớn ba già thêm trăm tuổi

Chuyện học hành, thi cử, nợ nước non

Biết lo sao con sớm được vuông tròn

Ba thức trắng từng đêm theo con trẻ

Mùa thi đến tháng ngày qua thật lẹ

Con học khuya ba nằm đợi bên hiên

Gió đầu thu phe phẩy bụi kim tiền

Hương nguyệt quế thấm đầy trang sách học

Con thi đậu ba mừng như được ngọc

Sắp rượu mời cúng tạ đất trời cao

Con lớn thêm ba già tuổi trăng sao

Ngày tháng rụng trên đầu ba bạc trắng


 

Vận nước đổi thuyền đợi người bãi vắng

Bế bồng nhau chạy ra cõi muôn trùng

Con theo người tìm đất mới tạm dung

Ba ở lại chịu trăm điều cay đắng

Con nước lớn thuyền đi chiều tắt nắng

Lục bình xa từng cụm vật vờ trôi

Sóng thượng nguồn xô gió quợn chân trời

Ba đứng đó, tượng xa và bóng núi

Ba đứng đó như ngàn năm vẫn đợi

Lũ chim trời trốn lạnh trở về Nam

Chim cóng lạnh nhưng đường về nghẽn lối

Người chậm về Người hoá đá trăm năm



Mười lăm tuổi con theo ba chơi biển

Mũi Nai hiền bãi lặng sóng đùa êm

Ngoài khơi xa Hòn Phụ Tử lặng chìm

Trên bãi vắng ba dạy con xuất xử

Năm mươi tuổi con sống đời viễn xứ

Một mình con đối đãi chuyện cơ cầu

Mỗi lần hư ai nhắc chuyện bể dâu

Ai mở sách chỉ con trang Chiến Quốc!


 

Đời lạc hướng từ ngày ta mất nước

Mười lăm năm thương nhớ ngọn tử phần

Mười lăm năm đòi đoạn chốn dung thân

Giờ phút cuối con không nhìn được mặt

Con vẫn biết lẻ thường đời còn mất

Nhưng muôn trùng sao đứt ruột người ơi

Tim con đau như hụt mất nhịp đời

Mắt trống lạnh ngó trừng cơn đau dại

Con vẫn biết người đi là mãi mãi

Nhưng sao đi mà chẳng chịu chờ nhau

Không cho con quỳ lạy tạ ơn sâu

Chẳng chờ nghe con thưa lại lần đầu

“ Con đã sống như đời ba đã sống

Con sẽ sống như lời ba đã dạy

Không gian tham, khuất nhục, chẳng thay lòng

Giữ cho đầy chất ngọc của đời trong

Khinh phú quý đãi nghĩa nhân làm trọng ”

Con vẫn cố giữ mình trong tuyệt vọng

Hồn xuân thu đang phá vỡ miếu đền

Người kiêu sa vội tìm cớ lãng quên

Lòng khinh bạc học đòi câu thương nữ

 

Con bơ vơ lạc đường vào lịch sử !

 

cao vị khanh

NGHĨ TRONG THỜI CÔ-VÍT

CVK_covid.jpg

Cà-phê, thuốc lá và Em

Văn chương chữ nghĩa gẫm thêm cũng thừa

Rượu chiều đỏ vệt môi ưa

Công danh sự nghiệp cạn vừa đáy ly

Yêu thương đã một diệu kỳ

Sá chi thương phế mà ghi não nùng

Ơn Trời, ơn Đất bao dung

Tang thương dẫu mấy cũng lòng cưu mang

Ơn Người, tình dẫu quan san

Dấu son nhân ái còn lan dặm trùng

Nghĩ cho cùng, giữa lao lung

Cái thân chùm gởi dợm chừng ... chiêm bao.

 

Cvk

Dăm ba phút ...

CVK_dambaphut.png

Dăm ba phút đủ ngậm ngùi

Dăm ba phút đủ dập vùi thế gian

Ôi sắc trắng, ôi mịn màng

Vàng nâu đen đỏ tội phần tổ tông

Dăm ba phút đủ chạnh lòng

Trăm năm sau trước một vòng nghiệt oan !

 

Cvk

Thời buổi cách ly

CVK_Thoibuoicachly.jpg

                                     Picasso         

 

Thời buổi cách ly

 

1.

 Xin chào nhau giữa con đường ́́́́ ́ *

Khẩu trang phía trước, cái giường phía sau

Giữa thời dịch tể lao xao

Biết ai đi trước về sau, một mình.

Một mình, rất đỗi một mình !

* Bùi Giáng

 

2.

Cách ly buồn hết nói

Vọc chữ như chọc đời

Chuyện xưa giờ sắp mốc

Nhắc lại buồn khơi khơi !

Khi không rồi thất sủng

Lãnh cung bít bịt bùng

Ngó ra không thấy nắng

Ngó vô thấy buồn hung

Chẳng lẻ thời mạt vận

Thiên hạ rụng như sung !!!

 

cvk

Thời “cấm phòng”, đọc lại khúc ngâm Cung Oán 

... của Nguyễn Gia Thiều

CVK_cungoan.jpg

Đâu phải tới bây giờ mới có chuyện cấm cung, cấm phòng ... cấm cản người ta gặp nhau, gần gũi nhau, tay bắt mặt mừng, hay sít sao hơn tới nỗi quàng vai .. ôm eo ếch.

Lâu rồi, lâu lắm rồi, vẫn có cái kiểu sống lẻ loi, -hay bị sống lẻ loi một mình, rất một mình, dù người ta sanh ra là để sống với, sống cùng ... sống bầy đàn dù có lộn xộn như một bầy vịt hãn.

Tôi biết những người sống lẻ loi. Lệ là những viên đá xanh. Tim rũ rượi. Thanh Tâm Tuyền.

 

Hôm rồi, lẩn quẩn trong nhà riết cũng ngứa tay ngứa chân mà ngoài trời thì mùa đang nhấp nhỏm sang xuân, ngó thấy bụi phủ mờ trên mấy cái giá sách bị bỏ quên từ lúc “ chú gù "  lên ngôi bá chủ, tủi thân giùm cho mớ sách vở ố vàng, tôi đi tìm cây chổi lông gà ...

Rồi, quen thói dòm mấy cái gáy sách ... 

Rồi thấy lại tập sách cũ ...

Cung Oán Ngâm Khúc của Nguyễn Gia Thiều.

 

Ờ thì ra, lâu lắm rồi, lâu rồi, đã có người than oán cái chuyện cách ly, biệt lập, cô phòng ... dẫu chưa có cô-vít.

 

Trải vách quế, gió vàng hiu hắt

Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng CONK (câu 1-2)

Từ dòng đầu, hiện cảnh đã là một cái gì buồn hết nói. Vách phòng thì trét quế bôi tiêu bít bùng, mùa thì hẵn đã là thu với cái loại gió thổi không thổi mà lại cứ phều phào như có điều gì trăn trối, lá thì lính qua lính quýnh rụng như sợ bị bỏ lại không theo kịp bước mùa đi. Mặt trời coi bộ mệt đừ, chỉ he hé nổi chút ánh sáng như hà tiện từng sợi nắng. Đã vậy, sương, thứ sương mỏng dánh như vạt áo the trắng ai bỏ quên mà cứ lướt thướt trên mặt đất như ghẹo thêm sầu. Lại nữa, lâu lâu rồi thắt thẻo tiếng chim thiên di lạc bầy hớt hãi bay ngang, kêu như trách móc ... Vậy đó, rõ ràng mùa thu là cái mùa vốn dĩ trời cho buồn kiểu như em-là-con-gái-trời-bắt .... xấu. Buồn tới nỗi như đã nói, ngay cả gió cũng ... buồn. Phải chi thổi thì ra thổi, mà không thổi thì .. nín. Đằng này vừa thổi lại vừa nín, nên mùa thu là cái mùa lấp la lấp lửng, không động không tỉnh, không nóng không lạnh, không vui không buồn hay đúng ra cái-thứ-gì-không-ra-gì vẫn thường lại làm người ta ... buồn chết bỏ. Ôi mùa thu, em-nhớ-cho-mùa-thu-đã-chết-rồi kiểu như ông Appolinaire đã nói rồi ông Phạm Duy bồi theo. Khổ nổi, mùa thu không có chết – chết là hết chuyện rồi, còn cái gì mà nói nữa. Mùa thu không có chết. Mùa thu vẫn sống, sống lay lắt, sống lê mê, sống lặng lẽ, sống mà như chết hay chết mà như sống. Sống để làm buồn cho những người bị cướp mất lẻ sống.

 

Trải vách quế, gió vàng hiu hắt ...

Mà tại sao lại nói là gió ... vàng. Mặc kệ cái lối giải thích theo ngũ hành của mấy ông đồ xưa. Gió là do không khí quậy mà nên nỗi. Mà hể là không khí thì làm gì có màu sắc. Đã không màu thì làm gì có vàng hay đỏ. Thật ra, màu sắc ở đây, giữa cảnh thu, khi không gian bị niêm phong, thời gian bị trì kéo và thân xác bị tù túng, sắc màu không còn là độc quyền của thiên nhiên. Màu sắc đã trở thành màu sắc của tâm thức. Gió vàng là gió đang thổi qua những tấm lòng héo úa. 

 

Thử tưởng đến một bữa, lệnh từ trên chín bệ truyền xuống ...cho đày vào lãnh cung. 

Thử tưởng đến xuân thì đang độ, má còn hồng đào, tóc còn mun huyền, tay chân mình mẩy còn mọng nước như trái non đang độ ... mà nhận cái lệnh như trời giáng đó ... 

Thử tưởng đến, cả một sức sống đang hồi sung mãn, rồi bỗng chốc bị đày vào cái chỗ mà bốn vách tường trét quế kín mít, quanh đi quẩn lại chỉ còn vài ả thị tỳ, vài chú hoạn quan nói năng eo éo ! Ngày rồi qua ngày, tuổi tác theo mùa màng rụng xuống như cái đám lá vàng tất tả ngoài vườn thượng uyển. Hồi đó, vậy gọi là ... cấm cung.

Nhớ vậy rồi, thấy thương ơi là thương cho cái phần số hẩm hiu tù túng giữa bốn vách phòng, vách nhà, vách chung cư, vách cao ốc ... của những kẻ lỡ sống trong thời ... đại dịch !

Và càng thương hơn những người sống lẻ loi, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, khi người ta sanh ra là để sống cùng, sống với ... Tôi biết những người sống lẻ loi. Lệ là những viên đá xanh. Tim rũ rượi. Thanh Tâm Tuyền.

 

Trải vách quế, gió vàng hiu hắt ... 

Vâng, đã có lúc có những người con gái, có những người đàn bà, chẳng tội tình gì ngoài cái tội trời cho ... đẹp –đẹp đến nỗi mà bóng gương (chỉ mới) lấp ló trong mành mà cỏ cây (đã) cũng muốn nổi tình mây mưa ( CONK câu 15-16 ). Đọc lại tới đây thiệt tình mà nói là phải cúi đầu bái phục ông Nguyễn của tôi. Ngay lúc mà văn học chỉ được coi như một thứ phương tiện để truyền bá đạo lý- văn dĩ tải đạo- mà dám làm một câu thơ tình trắng trợn quá mạng như vậy thì phải nói là con cháu đời sau nếu không tung hô là sư phụ thì biết còn để vào đâu mà bái phục nữa. Khi mà dục tình còn bị coi là điều cấm kỵ, chỉ dám nhét giấu dưới mấy tầng ẩn ức mà ông nói huỵch tẹt ra ngon ơ. Mà còn lại nói thành thơ nữa chớ. Bóng gương lấp ló trong mành. Cỏ cây cũng muốn nổi tình mây mưa. Nhất ông, ông Nguyễn ơi ! Rồi sẵn đà ông phóng bút lả lướt như xiêm y sút xổ mà gợi ý gợi tình không thua gì rồng lộn thấy đầu không thấy đuôi. Nệm hồng thúy thơm tho mùi xạ. Bóng bội hoàn lấp ló trăng thanh. Mây mưa mấy giọt chung tình. Đình trầm hương khóa một cành mẫu đơn( CONK câu 145-148 ) Mấy giọt chung tình. Kể chuyện phòng the mà như tả cảnh trăng thanh gió mát thì thiệt là ... kim cổ kỳ quan ! Tôi biết nói vòng vo có thể làm lệch lạc bài vở mà không nói thì thấy ấm ức làm sao cho cái giống nòi tình thiên cổ lụy. Bởi vậy dù tác phẩm đã được nhắc tới nhắc lui, khen chê đủ điều từ hơn mấy trăm năm nay, sao còn muốn lôi ra đọc lại, đọc lại rồi lại muốn dông dài ...

 

Ờ thì nói trở lại về những đóa hồng nhan mệnh bạc đó, nàng đẹp tới vậy mà rồi khi không bị tống vào chỗ thâm cung tẻ lạnh để nghe hoài gió thổi ngọn vàng phai. Nhất là cái chuyện bị cách ly với hết mọi thứ bên ngoài thành vách của cấm cung, bỏ trời bỏ đất, bỏ lại hết cái nhịp sống miên man của dòng đời bất-xả-trú-dạ. 

Chuyện đầu đuôi thế này. 

 

Con gái nhà ai không biết, tuy nhiên như đã nói, nàng đẹp lắm. Đẹp tới nỗi 

Chìm đáy nước cá lừ đừ lặn

Lửng da trời nhạn ngẩn ngơ sa (câu CONK câu 17-18)

Dĩ nhiên đây chỉ là lối miêu tả có tính cách thậm xưng của người xưa, chớ chim với cá thì ăn nhằm gì với nhan với sắc. Còn tài năng thì thôi khỏi nói. Đàn ca múa hát thơ phú gì cũng trùm thiên hạ. Kể cả mấy chuyện nhậu nhẹt nàng cũng chẳng thua ai. Cờ tiên rượu thánh ai đương. Lưu Linh Đế Thích là làng tri âm (CONK câu 23-24) Chỗ này chắc phải dè dặt chút đỉnh, chớ đàn bà con gái mà rượu chè be bét thì coi sao đặng. Tuy nhiên, ông bà mình hồi xưa, theo cái học cỗ đầy điển tích của mấy ông-con-trời nên cũng thường hay quá tay chút chút ... Cũng hổng sao, trí tưởng tượng của con người không ai đánh thuế nên cứ việc thả dàn ..

Đẹp, thượng hạng ! Tài, ngoại hạng ! Bởi vậy cho nên nỗi. Dẫu vậy, thế nhân cũng chẳng nên thắc mắc làm gì. Cái lập thuyết tài-mệnh-tương-đố vốn dĩ là lối giải thích chắc ăn nhất cho những cuộc sống chung không lấy gì làm hòa bình giữa con người và cuộc đời của chính họ.  Một ông Nguyễn khác cũng đã có lần lên tiếng cảnh báo .. trời xanh quen thói má hồng đánh ghen. Bởi vậy đời nàng cũng giống như bao má hồng khác ... Đã má hồng thì có lúc sẽ lấm lem !

 

Tài sắc quá nên được (bị) tiến cung. Khổ nổi, con đường tiến cung là con đường độc đạo, có vô không có ra. Bởi vậy, cũng giống như bao nhiêu cung phi mỹ nữ khác, hàng trăm (?), hàng ngàn (?) sau khi được (bị) tiến cung rồi là coi như đổ lúc lắc xí-ngầu, được thua lắm lúc chỉ nhờ mấy cái lá dâu nhử mồi chú dê kéo xe vua (!). Rất có thể ... được vua yêu chúa vì, hạnh phúc cực điểm như ông Nguyễn đã cực tả bằng hai câu thơ phải coi là tả chân cực tuyệt mà lại bóng gió đến cực khéo. Cái đêm hôm ấy đêm gì . Bóng dương lồng bóng trà mi chập chùng (CONK câu 135-136)

Vậy mà rồi theo lệ, mọi thứ vở tan như bong bóng nước. Hạnh phúc cũng y như trúng số độc đắc. Có ai mà trúng độc đắc được hai lần !  Vậy rồi nàng bị bỏ quên, quên lửng đằng sau mấy cái vòm cửa thâm u của thâm cung thăm thẳm ...

Mặc dù vốn đã nghiệm ra lẻ vô thường của cuộc đời từ hồi còn con gái, hổng thua gì quí vị tu tiên tu phật

Mùi tục vị lưỡi tê tân khổ, 

Đường thế đồ gót rỗ khi khu, 

Sóng cồn cửa bể nhấp nhô, 

Chiếc thuyền bào ảnh lô xô gập ghềnh

Trẻ tạo hóa đành hanh quá ngán, 

Dắt díu người lên cạn mà chơi. 

Lò cừ nung nấu sự đời

Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương ̣ (CONK câu 69-76)

Nhưng rồi, y như thế nhân lục lục thường thường, hiểu thì hiểu vậy mà điều dễ gì bước trệch ra khỏi cái vòng tục lụy. Chính điều này đã làm cho người-nhân- vật trở thành người-đời-thực. Nàng hiểu thông mọi vẻ huyền vi nhưng nàng vẫn sống như mọi người trần mắt thịt với đầy đủ vui buồn ham muốn ... Hay chỗ đó mà khoái trá cũng chỗ đó. Khỏi có màn lên mặt dạy đời. Hãy nghe nàng kể lể ...

 

Từ lần được quân vương chiếu cố, tưởng như là cái thân Tây Tử lên chừng điện Tô, ai dè chẳng mấy lúc nàng bị thất sủng vì thói nghịch ngợm của trẻ-tạo-hóa, hay chỉ là vì cái thói trêu hoa giởn nguyệt của mấy ông vua già vua trẻ được cung phụng thừa mứa, để đến nỗi phải phó mặc long thể cho mấy con dê kéo long xa mỗi bận nhập cung cấm, xe dê ghé đâu vui đó, bất kể. 

Từ đó, nàng vò võ chờ đợi, ngày tháng qua, xuân thì theo bóng câu qua cửa sổ. Đời buồn như giọt nắng vàng. Từ đó, cấm phòng. Từ đó, cô đơn. 

Thử nghĩ coi, một người con gái-một người đàn bà-một người nào đó giữa lúc xuân tình còn nguyên nồng độ như rượu cồn 90 chữ, với đủ thứ hồn và xác, đủ cả lục dục thất tình, bỗng dưng một hôm nào tự dưng bị cắt đứt hết mọi giây mơ rễ má, cách lìa hết mọi thân sơ, kẻ thương người ghét, biệt lập với hết mọi chuyển động chung quanh ... Tự dưng rồi mình thấy mình trơ trọi như chưa từng có mặt. 

 

Trong cung quế âm thầm chiếc bóng

Đêm năm canh trông ngóng lần lần (CONK câu 209-210)

...................

Phòng tiêu lạnh ngắt như đồng

Gương loan bẻ nửa, dãi đồng xé đôi (CONK câu 215-216)

 

....................

Thâm khuê vắng ngắt như tờ 

Cửa châu gió lọt, thềm ngà sương reo (CONK câu 219-220)

Cung quế, phòng tiêu, thâm khuê ... toàn là những tên gọi mà từ âm vọng đến hình tượng đều mang vẽ quạnh quẽ tự thân. Đó là thứ không gian khép kín, biệt lập. Một thứ nhà giam được xây theo kiểu lầu vàng gác ngọc. Mà thật ra, mọi thứ nhà giam dẫu xây bằng đá tảng hay được lót với ngọc ngà cũng chỉ là vật chất, có đáng gì khi đem so với thứ xiềng xích trong tinh thần. Chính cái cảm giác bị bỏ rơi, bị xua đuổi, bị quên lãng, bị ruồng rẫy ... mới là hình phạt cấm cố ghê gớm nhất. 

Ngày sáu khắc tin mong nhạn lắng

Năm canh đêm lặng tiếng chuông rền.

Lạnh lùng thay giấc cô miên,

Mùi hương tịch mịch, bóng đèn thâm u. 

Tranh biếng ngắm trong đồ tố nữ,

Mặt buồn trông trong cửa nghiêm lâu. 

Một mình đứng tủi ngồi sầu, 

Đã than với nguyệt lại sầu với hoa. 

Buồn vì nỗi lòng đà khắc khoải, 

Ngán trăm chiều bước lại ngẩn ngơ. 

Hoa nầy bướm nỡ thờ ơ, 

Để gầy bông thắm để xơ nhụy vàng. 

Đêm năm canh lần nương vách quế, 

Cái buồn nầy ai dễ giết nhau

Giết nhau chẳng cái lưu cầu

Giết nhau bằng cái u sầu độc chưa ! (CONK câu 225-240)

 

Giết nhau bằng cái u sầu độc chưa ! 

8 chữ thôi đủ để giải thích cái cảm giác cô đơn, cô độc, cô lập, cô liêu, cô lẻ, cô tịch, cô quạnh ... cũng như cái hệ lụy lạc lõng, lạc loài ... lẻ loi, lẻ muộn ... của con người. Cái buồn không là sắt thép nến giết người không máu me. Cái buồn sát nhân rất lặng lẽ.

 

Thử coi, người đẹp làm gì khi từng ngày vò võ mình ên trong cõi cấm vắng hoe. Đêm thao thức. Ngày biếng nhác. Ra vô trông ngóng. Đi tới đi lui trong cái khoảng trống dù giới hạn giữa bốn vách phòng mà hổng chừng trống đến mênh mông. Nhất là kinh nghiệm của sự chung đụng giữa người và người đã hun đúc thành hiện sinh của nàng, đã và sẽ là một phản biện cùng cực cho cái hiện tại lẻ loi. Nàng đẹp vì có sự so sánh với người xấu. Tài vì có sự so bì với kẻ dở. Tự tin vì có người chìu chuộng v.v... và v.v... Rõ ràng nàng chỉ hiện hữu trong sự hiện hữu của người khác. Vậy rồi, đang tay cắt ngang sự liên lạc chằng chịt đó, hỏi làm sao không ngỡ ngàng. Ngỡ ngàng rồi ngẩn ngơ, ngẩn ngơ rồi ngờ nghệch ... rồi hốt hoảng, rồi bơ vơ, mất tự chủ. Phản ứng đầu tiên và cuối cùng là loay hoay tìm chỗ dựa. Hiện tại trống trơn thì quay lại quá khứ. Nhưng khổ thay, càng cố lấp đầy khoảng trống hiện tại bằng cách vói tìm lại hạnh phúc của quá khứ, cố gắng đó rốt ra chỉ làm tăng thêm, rõ thêm, nặng thêm độ nghịch đảo của nỗi vui và niềm buồn. Quá khứ, kỷ niệm rồi ra có phải chỉ là phát súng ân huệ cho người muốn quên.

Nào lúc tựa lầu Tần hôm nọ

Cành liễu mành bẻ thuở đương tơ. 

Khi trướng ngọc, lúc rèm ngà

Mảnh xuân y hãy sờ sờ dấu in (CONK câu 253-256)

 

Đọc thơ mà nghe chữ nghĩa cồn cào trong dạ !

Khi trận gió lung lay cành bích

Nghe rì rầm tiếng mách ngoài xa

Mơ hồ nghĩ tiếng xe ra

Đốt phong hương hả mà hơ áo tàn (CONK câu 269-2720)

Còn hình ảnh nào đẹp và buồn hơn. Một người chờ đợi một người mà biết rằng người được chờ trăm phần đã hết chín mươi chín phẩy chín mươi chín phần không đến. Vậy mà vẫn chờ vẫn đợi, rồi chỉ mới mơ hồ phong phanh bán tín bán nghi mà đã quơ quào sắp sửa để chờ. Mà sửa soạn cái chi ? - Đốt phong hương hả mà hơ áo tàn ! Có cần phải tán thán thêm không. Mà lời nào bình cho nổi. Thơ đẹp như ... thơ mà buồn như chính nỗi buồn tự tại ! 

Thử tưởng đến nỗi thất vọng khi ngả ngửa ra rằng mình đã tưởng lầm. Rồi bôi son khô phấn mốc. Rồi dẹp xiêm y đã tưa chỉ lợt màu ... Vâng thử tưởng thêm ... Tưởng thêm ...

Sự so sánh giữa cái đang mất và cái đã có thường là bước đầu cho một cuộc tuột dốc của lý trí. Sẽ đến một lúc, người ta buông xuôi ...

Như một hệ quả tất yếu, khi bị biệt lập người ta như con tàu bị mất phương hướng, mất điểm tựa thì lấy gì xác nhận điểm đứng của mình.  Người ta trở nên bơ vơ, lạc lõng ... lắm khi đến nỗi mất cả tự chủ ! Hậu quả lắm khi đưa đến chỗ tận cùng. Tự tử, như một thách thức với định mạng, từ chối sức ép của cô đơn. Sau khi đã quơ quào, bóc hốt bất kể, níu vói bất cứ giả định nào  ngay cả một niềm tin vớ vẩn nhất.

Phòng khi động đến cửu trùng

Giữ sao cho được má hồng như xưa (CONK câu 355-356)

Não nùng hông, thứ hy vọng tội nghiệp khi mọi lối thoát đã bị bít kín. Cùng đường, người ta có thể bấu víu vào bất kỳ một hy vọng nào, kể cả dù biết đó là ... ảo vọng !

 

Xét cho cùng, cảm giác cô đơn, cô độc vốn dĩ là bản chất của mọi sinh vật từ khi chui ra khỏi bụng mẹ. Nhưng rồi cái thế giới chung quanh với hết mọi phiền nhiểu của nó đến một lúc trở thành điều kiện cần thiết cho sự nẩy nở toàn vẹn của con người. Cần thiết ( với tất cả sự nghịch lý của sự cần thiết , trong ý nghĩa tha nhân chính là phản diện của chính mình ) đến độ đã có lần ông J.P Sartre phải la lên L’enfer, c’est les autres. Hay như Albert Camus cũng đã lắm phen thắc thẻo rằng ... thì ... là ... người ta chỉ là những người khách-lạ đến với đời giữa trùng trùng ngộ nhận. Khổ nổi, cho dù là địa ngục hay khách lạ, nhưng rồi trong sự chung đụng với ngoại thể riết rồi người ta tự thấy dính líu ( gắn liền ) với thế giới chung quanh lúc nào không hay. Dĩ nhiên không phải không có những trường hợp ngoại lệ. Đời không thiếu những kẻ không tìm ra được chỗ nương thân giữa đồng loại. Từ đó là một sự chống đối nhau thường trực giữa cá nhân và ý thức hợp quần. Nhưng thôi, chuyện đó để dành cho mấy ông triết gia mấy nhà xả hội học cải cọ. Ở đây chỉ nhắc chuyện ... thường thường. 

Sự liên hệ giữa người và người nghĩa là giữa người với đám đông có lúc khít khao tới nỗi con người rốt lại chỉ là phản ảnh của đám đông. Người ta sống, ăn nói, múa may ... theo cái khuôn mà đám đông đã vạch ra. Đám đông, tha nhân ... là ai vậy mà rốt lại là nguồn cơn của mọi hiện sinh, trở thành khuôn đúc cho mọi hình nhân có mặt trên đời. Người ta không còn là mình nữa. Người ta chỉ là biểu hiện của đám đông vây quanh. Mọi múa may, giận hờn yêu ghét là yêu ghét giận hờn múa may theo mẫu mực của số đông. Con người rồi ra chỉ là một con múa rối dưới mấy ngón tay điều khiển của một thứ quyền lực vô hình được tạo nên bởi đám đông vốn được gọi là xả hội. Cũng y như cái phán xét mà Nguyễn Gia Thiều đã ngậm ngùi chắc lưỡi cái quay bung sẵn trên trời ( CONK câu 92 ). Mọi sự đã được định sẵn hết kiểu như một vở tuồng mà tuồng tích và đào kép đều có vai trò nhất định, liên hệ chặt chẽ với nhau để đi tới một kết cuộc nhất định, không chút sai chạy. Bởi vậy, mà sống là sống với, sống cùng, sống bởi, sống vì ... Mức độ liên hệ thì tùy theo vai vế, nhưng gì thì gì vẫn là một sự liền lạc chặt chẽ như kiểu bứt mây thì động rừng vậy đó. Dính líu với nhau khít rim như vậy mà rồi bỗng dưng bị cắt đứt hết mọi liên hệ, biệt lập với hết mọi cái quen biết, ngay cả với cái biết mà không quen ...  sẽ làm người ta cảm thấy bất an. Cảm giác bất an như đã nói vốn là trạng thái hồn nhiên nhất của mọi loài sinh vật kể cả loài người. Chẳng vậy mà hài nhi mới vừa lọt lòng mẹ chỉ có khóc mà không cười. Hình ảnh mà ông Nguyễn đã vẽ vời từ cuối thế kỷ 18 làm thấy ra mà muốn rụng rời, gần 200 năm sau, bức tranh Le Cri của Edmund Munch có phải là biểu hiện tuyệt đối của cơn sợ hãi tiên thiên. 

Thảo nào khi mới chôn nhau

Đã mang tiếng khóc bưng đầu mà ra  (CONK câu 56-57 )

 

Bưng đầu. Tiếng khóc bưng đầu. Hình ảnh đập vào mắt. Âm thanh xoáy vào tai. Bưng đầu. Còn biểu tượng nào tuyệt vời hơn để biểu hiện cái cảm giác bất an vì trần truồng, trống trải, trơ trụi ... của đứa nhỏ vừa chui ra khỏi cái cửa ải hẹp dí đã nhào ngay vào một khoảng trống mênh mông và xa lạ ... mênh mông và xa lạ tới nỗi dẫu nhắm híp hai con mắt mà vẫn hãi hùng khi biết mình vừa lọt vào vòng trần thế, cõi lạ mà nó chưa bao gìờ biết đến. Có thể chuyện đó được hiểu như là hậu quả của sự thay đổi quá đột ngột cái môi trường sống từ lúc tựu hình. Thêm chút nữa, có phải vì nó chưa có chút kinh nghiệm nào hết, từ cảm giác đến ý thức về nơi chốn mới đến. Mọi thứ, cụ thể hay trừu tượng, hình thù màu sắc mùi vị ... chưa từng thấy qua, chưa từng nếm qua, chưa từng vui chưa từng buồn ...Vậy đó làm sao mà nó không sợ hãi, không hoảng hốt, không ... bưng đầu mà khóc ! Cái thế giới chung quanh đó, nhốn nháo những hình thù lạ lẫm, rổn rảng những âm thanh chói tai, lộn lạo màu sắc như bức tranh của một họa sĩ bất tài, lại hăng hắc mùi vị xào nấu của một đầu bếp vụng về ... làm sao nó không hoảng vía. 

Tiếng-khóc-chào-đời. Thói thường người ta hay nói vậy. Nhưng, tại sao nó không cười để người ta nói tiếng-cười-chào-đời nghe nó rôm rả hơn và hợp lý hợp tình hơn ? 

Mà thôi, chuyện vậy thì hay vậy. 

Đứa bé sơ sinh khóc từ khi có cái vụ gọi là sinh con đẻ cháu. Nó khóc từ đông sang tây, từ bắc xuống nam, sáng trưa chiều tối tới khuya lơ khuya lắc ... hể chui ra là khóc. Không khóc thì bà mụ vổ cho mấy phát mà khóc. Người ta biểu là khóc cho nở phổi. Nhưng mà há miệng cười rổn rảng phổi cũng phồng to ?

Vậy thì khóc chắc cũng có nguyên do. 

Mà không khóc sao được. Chỗ nó vừa nhào đầu vô y như là sân khấu cải lương, thay phông đổi cảnh liền liền, mới đó muôn hồng ngàn tía rồi bỗng không tàn rửa tiêu điều, dẫu có khi vui hết nói mà không thiếu lúc buồn chết bỏ ... 

Chưa biết, chưa quen, chưa có lần nào đụng chạm, rờ mó, sờ sọang ... hay cảm giác nóng lạnh hay cảm xúc buồn vui. Chung quanh, hoàn toàn là một thế giới lạ lùng, lạ lùng đến quái đản ... Đứa trẻ sơ sinh khóc, khóc vì cảm giác bất an, bất an vì không từng quen thuộc ...

Vậy rồi, mỗi lúc mỗi lớn lên, chung đụng cọ xát với những thực thể quanh quanh, hít thở ngửi nếm mùi vị trần gian kể cả thứ mùi tân toan,... nó sẽ quen dần, quen dần ... tới lúc trần gian trở thành trần trụi vì không còn gì bị che đậy sau cái quá trình thu nhận từng trải của nó. Nó sẽ nhận ra người quen kẻ lạ cho dù là lạ và không quen. Nó sẽ trở thành một phần tử của cái tổng thể loanh quanh nó, quen mắt quen tay, quen thuộc đến độ lắm khi trở thành một chỗ dựa tinh thần, hơn nữa như một thứ nón-bảo-hiểm hay dùng ở quê tôi, đội mà xe hàng tông thì cũng đi đoong nhưng dẫu vậy có cái gì xiềng quanh cái đầu thành quen, rồi tự nhiên cảm thấy an toàn-trên-xa-lộ ! Cái vốn liếng thu nhận bằng mắt thấy tai nghe mủi ngửi miệng nếm tay sờ, kể cả bằng những sợi giây thần kinh nhỏ xíu chạy lăng quăng trong cái đầu của nó ... Cái cảm giác bất an sẽ dần biến mất thay vào đó là sự yên tâm vô thức. Cả tới khi vào một lúc nào đó, nó bỏ nhà bỏ cửa bỏ quê bỏ cha bỏ mẹ mà đi xa, xa tới một cõi chưa từng, dẫu lúng túng, nó cũng đủ sức để đương đầu với những lạ lẫm. Hẵn vì nó đã được cọ xát với thế nhân tới độ dạn dầy, kiểu như thân xác đã được miễn nhiểm với mấy con vi-rút đã có lần bị nhiểm qua ... Tới một mức độ nào đó, nó được bảo vệ dù một cách vô thức bằng sự quen thuộc, quen mắt, quen tai, quen biết, hay ngay cả biết mà không quen ... ở giữa một thế giới người và người. Sự liên hệ đối đãi đó trở nên cần thiết như mọi nhu cầu sinh lý khác của con người để sinh tồn.

Nhưng rồi cũng chính từ đó, chính từ sự quen thuộc đối đãi đó, lỡ khi đời ngược ngạo, người ta lắm lúc không khác gì cô cung nữ của Nguyễn Gia Thiều, bị biệt lập chốn cấm cung, trơ trọi một mình, mất dần cảm thức an toàn, sẽ cảm thấy cần bầy bạn biết bao nhiêu, dẫu bầy bạn chỉ là người trần mắt thịt sau khi đã vói níu một cách vô vọng cõi tiên cõi phật ... mà rồi xa quá có dễ tìm ra đâu !

 

Nghĩ vậy rồi để cảm thương bà cung phi, nàng cung nữ ... hay bất cứ ai, có lần bị đày vào trong cái mê cung mênh mông kiểu như cung A Phòng của Tần Thủy Hoàng  mà Hạng Võ đốt ba tháng lửa cháy hoài không tắt ! ?

 

Xếp sách lại, lòng ràn rụa thâm ân mà người xưa đã để lại. Người thi sĩ, họa sĩ, nhạc sĩ ... kể cả có lần là tu sĩ, vốn con vua cháu chúa, ra vào chốn quyền môn như cơm bữa, ăn trên ngồi trước dù hẵn cũng đã lắm phen chìm nỗi chốn quan trường sao lại có tấm lòng mẩn cảm đến vậy. Ông viết Cung Oán vì hẵn do thân thế đã không ít lần được nhìn thấy chốn thâm cung, chỗ nhốt những nô-lệ-tình-dục ... nên đem lòng cảm thán. Nhưng từ chỗ xúc động mà đem viết thành thơ hẵn cũng đã trải qua một quá trình không kém phần lắt léo. Tìm sâu hiểu rộng hơn nữa hẵn phải nhờ ông Freud chăng ? 

Chỉ thấy là ông Nguyễn tài hoa lắm. Ông viết Cung Oán với giọng điệu ngậm ngùi và văn từ hoa lệ, phảng phất hồn thi ca trầm thống của Đường Thi Tống Từ. Dẫu vậy, đọc lên vẫn nghe ra hơi mát rượi của ngôn ngữ ảo diệu, pha trộn điển tích cao kỳ với lời ăn tiếng nói dân gian nên nghe ra vừa tinh lọc vừa gần gũi. Chữ nghĩa vừa trân trọng vừa thân mật như ngón tay đỡ đần người đọc đi vào cõi thơ riêng. Chẳng bỏ thứ ngôn-ngữ-đương-đại (?!) lục cục lòn hòn trúc tra trúc trắc đang hoành hành ở bên kia biển lớn Thái Bình mà sóng gió liên miên. Đề tài dẫu cũ kỹ, nhưng dưới nét bút lãng lướt phá chấp của một tay-chơi-điệu-đàng, ông phá vở cái biên giới cũ mèm của những cấm kỵ đạo đức, đưa người đọc bay cao, rắp ranh tới biên giới của lý tưởng tự do sáng tạo. Trong toàn ngâm khúc, đã nhiều hơn một lần nhắc tới chuyện rúc rích rục rịch của những ẩn ức dục tình bị đè nén. Hơn nữa, có khi còn phóng bút tới cấm địa chính trí của thời phong kiến. Dang tay muốn dứt tơ hồng, Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra (CONK câu 243-244) Ý thức phản kháng dù chỉ manh nha trong đầu vẫn là một cấm kỵ tuyệt đối của ý thức hệ phong kiến. Có phải dù là sản phẩm của chế độ, ông thường rất băn khoăn ... ! Hay là với tâm thức đó,  tài hoa đó ... con người đó làm sao khép họ vào khuôn khổ ! Sách xưa chép lại ... ông rõ là một tay phong lưu rất mực- nói theo ngôn ngữ bây giờ thì cũng là tay ăn chơi có hạng. Đã vậy thì có gì là lạ khi thơ văn bay bổng khôn cùng. Vấn đề là dù thích dật lạc, sao khi tỉnh rượu lúc tàn canh lại có những ý nghĩ trần tục và cùng lúc siêu thoát đến vậy. Nhưng mà vậy mới hay, mới đẹp, mới thực, mới đúng điệu ... thi nhân. Sống thực, viết thực điều mình sống, đều mình nghĩ có phải cũng là một thứ tự-do-đầu-tiên-và-cuối-cùng của con người như Khrisnamurti đã nói. Hổng nghe Đổ Mục tự thú sao ... Thập niên nhất giác Dương Châu mộng. Doanh đắc thanh lâu bạc hãnh danh. Tiếng tăm chốn lầu xanh ? Sá gì ! Miễn đã sống thực, sống hết mình, viết thực, viết hết tình ... cũng đã đáng lưu danh thiên cổ. 

Mấy trăm năm qua rồi, người làm thơ như bóng hạc vụt ngang, một lần mà rây rớt lại đời bao nhiêu là tâm ý. Có mấy người được đời chìu đãi lại đem lòng nghĩ tới những phận người bị đời bạc đãi. Có mấy người chịu nghe ra tiếng khóc thầm sau tiếng cười vui. Và có ai, chịu phóng con mắt thấu thị qua tầng tầng ảo hóa để vẽ vời bức tranh vân cẩu, để nhắc nhở một điều rất đơn giản là ... sự đời coi vậy mà không phải vậy !!! Lại nữa còn phóng bút tài hoa để nhắc nhở thêm rằng ... người ta sống là sống với, sống cùng, sống cho, sống vì ... 

Bao giờ còn những cấm cung, cấm địa, cấm cửa, cấm cản ... ngày ấy lòng người còn xiêu lạc.

 

Mà nói đâu cho xa, có cần gì tới cung cấm trong cái thời xa lắc xa lơ đó, giữa đời thực này, giữa ngay cái thế giới người lúc nhúc người này, chẳng may có lần cô bạn của cô đơn là cô-vít lỡ chân ghé lại, không nhiều thì ít, bỗng nghe vang rân tiếng kêu rên vì bị cách ly, cách biệt, cách núi, cách sông, cách đường, cách ngõ ... 

 

Sợ, không sợ gì bằng sợ cô đơn khi bị cô ... lan với lại cô ... lây !

 

cao vị khanh

 

- Lại nữa, nhớ cái lúc hồi đó, sách vở giáo khoa hay trách cứ sao ông móm vào miệng cô cung nữ non xèo những lời quá tiên quá phật, quá cao siêu, nghe ra gượng gạo thế nào. Ờ, có cao siêu thiệt nhưng ai cấm ... tuổi trẻ tài cao. Hơn nữa, người làm thơ, người sáng tạo ... thơ thẩn vẽ vời đục đẽo, trước hết và sau cùng là cho chính họ, - ngoại trừ cái số viết mướn hồi ký cho mấy ông trọc phú hay vẽ biểu ngữ tuyên truyền cho mấy cái đảng ... mắc dịch ! - Ai biểu người ngoài thấy sang bắt quàng làm họ rồi trách móc, rồi than phiền ! Lãng nhách !!! 

                   DỊCH ĐƯỜNG THI

 Click -->:  https://photos.app.goo.gl/i7L9JvN6y7tHjmmx9

(Sau khi click link trên, tất cả 60 trang hiện lên. Click vào bài muốn đọc. Có thể zoom lớn, kéo lên/xuống cho dễ đọc. Cám ơn)

CVK_DichDuongThi.jpg
CVK_DuongThi.jpg

HƯỜNG NHAN

CVK_Huongnhan.jpg

Má mang con trong bụng chạy giặc từ quận về làng khi tây trở lại, cuối năm 46. Xe cộ tàu bè gì cũng bị tịch thâu hết, cả đến mấy chiếc ghe xuồng ọp ẹp cũng bị xung công. Ba thì bị bắt cùng với bạn trang lứa đâu ngay từ tiếng súng hù dọa đầu tiên. Thân đã gầy như mai lại bụng mang dạ chửa, năm đứa con từ ba tới mười tuổi lúc thúc bên chân, đường dốc ngược mười lăm cây số hóa thành sạn đạo. Vâng bây giờ nghĩ lại, đường má đi suốt bảy mươi năm làm người đàn bà xứ Việt y thể như toàn sạn đạo. Con đường trúc trắc tai ương và lầy lội nước mắt, gần như đâu có quá một ngày vui. Mà có phải cùn mằn dốt nát gì cho cam. Từ thuở bé dù mồ côi cha sớm, vẫn được ngoại là phú hộ ở Chợ Thơm gởi cho đi học trường áo tím ở Sài-gòn ngay cái thời mà chữ nghĩa còn hiếm hoi như vàng. Hè về quê còn có tì tất líu ríu theo hầu. Ba đi học ở Nam Vang, vậy mà không biết mai mối ra sao, lại đem trầu cau theo nội chèo ghe từ cồn Bình Phụng ngược kinh Chợ Lách để cưới cho bằng được. Từ đó má theo chồng đi dạy học hết Tam Bình qua Vũng Liêm rồi về Chợ Lách. Thử nghĩ đến một thời mà giang sơn còn là mấy dãy sông nước mịt mùng, làng xóm hắt hiu thưa thớt, cô giáo trẻ ôm trắp bỏ quê lặn lội theo chồng giữa một vùng đất trời lạ lẫm. Má ơi đừng gả con xa. Chim kêu vượn hú biết nhà má đâu. Có đêm nào cô giáo lặng khóc thầm gọi má chăng?

Nhưng mà dù có thút thít gì đi nữa, phận dâu con đâu thể đèo bồng.17 tuổi, cái tuổi mà con gái thời nay còn được gọi là đám nhóc, chỉ biết ăn học rồi chơi nhỏng nhảnh, cô dâu trẻ thời đó đã phải lếch thếch đội ba cái chữ tòng và gồng gánh bốn cái chữ đức lớn quá khổ. Vậy mà má có sót chữ nào đâu. Phụng dưỡng cha mẹ, săn sóc chồng, đắp đổi em út, đút móm con cái rồi lại đèo thêm cái nghiệp dạy dỗ học trò trong những xó lớp nghèo nàn nóc lá vá đùm vá đụp. Cục phấn trắng mềm xèo, tấm ván sơn đen mốc thếch, cây roi mây dịu ngoặt má gỏ gỏ làm nhịp cho đám con nít tay chân bùn đất tèm lem tập đánh vần từng chữ cái. Nền đất thịt gặp mùa mưa ướt dột lổ chổ, má mang guốc dông mỏng dánh, lội lên lội xuống sửa miệng đứa này, nắn giọng đứa nọ. Hai gót chân đỏ hồng trầy trật giữa lớp sình dẻo quánh. Đám học trò đứa thì chiều qua lùa trâu về muộn bữa sau ngồi khật khà khật khưởng mắt nhướng không lên. Đứa đi cắm câu khuya khoắt mắt trỏm lơ miệng vừa ngáp vặt vừa ê a như mớ. Vậy mà học trò của má giỏi lắm. Chưa hết năm, cây điệp già ở góc trái mới vừa trổ nụ đã đọc vèo vèo mấy câu cách ngôn má dạy. Mỗi buổi tan trường học trò sắp hàng về lượn qua lượn lại như rồng rắn. Má đứng tựa cửa nhìn hút theo tới đứa cuối cùng khuất sau mấy bụi chuối lão rồi mới cặp sổ lửng thửng về nhà. Học trò má chưa về tới cửa đã quăng cặp quăng vở đi đặt trúm bắt lươn, tát ao mò ốc. Má mới về tới nhà đã xắn quần xách nước, vo áo xắt chuối cho heo ăn, rải thóc cho gà lượm. Bầy con năm đứa, đứa vòi vĩnh đòi bú đứa xum xoe bắt má chải tóc thắt bính cột nơ. Rồi bữa cơm riêng cho nội, cơm chung cho gia đình. Giàn bếp tối thui um um khói đục, má một mình quần quật nấu canh kho cá. Má ơi sao mà má giỏi quá vậy. Tiểu thơ như má lấy chồng nhà quê chẳng nệ mình liễu. Khuya tối má tần tảo gánh vác giang sơn nhà chồng. Vậy mà đã hết đâu. Con còn nghe kể có lắm khi mấy bà cô nổi hứng nặng nhẹ canh lạt cơm khô. Sao mà má chịu được. Cực khổ tay chân đã đành, ai bắt má ăn cơm mà pha nước mắt. Con như má chắc con đã bỏ đi mấy đời rồi. Có đâu cứ ở đó chịu trận. Hay là tại ngoại đã dạy má như vậy. Rồi dòm ra bạn bè má cũng chịu như vậy. Hay là tại má quá thương ba nên cũng giống như Tôn phu nhân đã gá thân về Thục, thì cứ phải đem má hồng ra mà trau tria cho trót. Nghĩ ra mà tội. Mấy ông đàn ông xưa khôn thấy mồ. Cứ dẻo nhẹo đem chuyện liệt nữ với lại tiết phụ ra mà dỗ ngọt cho nên má hồng mới đến nỗi lấm lem. Suốt mấy kỳ chạy giặc, ba còn tù tội trên tỉnh, nhà hết gạo, má phải chèo chống theo mấy con nước lớn nước ròng vô tuốt mấy ngọn kinh cùng, mấy vàm rạch cạn mua bán chút đỉnh hột vịt, dầu lửa đem về đổi gạo đắp đổi. Nắng sớm mưa chiều làm làn da mát rượi của má nứt nẻ như mặt ruộng khô nước. Mi mắt mệt nhừ xụ xuống như tấm rèm buông lửng chỉ còn ló có chút dạng mờ của hai hàng xuân sơn cũ. Cả cặp môi tươi rói của má cũng tái xám như cánh hoa úng nước. Tội nghiệp má, thân đàn bà mười hai bến đỗ, má ghé một lần mà đủ cả hai bến đục trong. Rồi tháng tháng, má ẳm con dắt theo chị kế, tay xách nách mang nửa đêm nửa hôm đốt đuốc ra sông chờ đò dọc. Đi tới trưa đến khám tỉnh thăm ba, cho ba nải chuối cục đường - duới quê ba bị nghi là việt-gian-phản-quốc, trên thành ba bị ngờ là việt-minh-nằm-vùng. Cứ như vậy mà ba đi tù tháng này qua tháng khác. Sáng sáng lính dẫn đoàn tù dài thậm thượt đi làm cỏ-vê mấy công thự. Má ngồi núp dưới bóng cây me cổ thụ, vạch vú eo sèo cho con bú trây, nói trỏng qua hàng rào kẻm gai hỏi thăm sức khỏe của ba. Có khi má vừa chậm nước mắt vừa giả lả kể chuyện nhà làm như mọi sự đều yên ổn. Rằng ông bà nội vẫn mạnh. Rằng anh chị con vẫn chơi. Rằng lẫm nhà vẫn đong đầy lúa thóc. Má ơi con biết gì đâu, con nằm trong lòng má mà như nằm trên đống gai chông đời má vậy. Má cực riết rồi thành quen. Gót chân bỏ guốc thả cho hà ăn chầy ngày rồi cũng chai cứng. Lâu lâu ngoại từ Cái mơn ngồi ghe sang thăm. Sông nước thăm thẳm, lòng ngoại chắc cũng bời bời. Ngoại bây giờ nghèo lắm. Nhà cửa ruộng vườn của ông cố để lại bị người ta nổi lên đốt rụi. Ngoại cũng làm cô giáo, đâu có gì ngoài tấm lòng chở theo con nước qua thăm. Ngoại vuốt tóc má rồi ngoại khóc. Con lẩm đẩm theo chân thấy má kéo vạt áo chấm lén nước mắt cho ngoại đừng thấy. Má ơi nước cứ chảy xuôi thì đâu má giấu ngoại được. Cũng như khi con xa má rồi thì con nhớ má có một mà má nhớ con gấp mười lần, vậy thôi.

Rồi thủng thẳng đâu đó cũng yên. Chòm xóm lục tục kéo về. Má lại đi dạy học, chờ ba. Học trò má chạy giặc tứ tán, chừng về lớn vọt lên như đám cải ngồng, mỗi sáng thay phiên ghé nhà cỏng con lội mương theo má ra lớp. Có khi con thơ thẩn ngoài sân lượm trái còng trái bả đậu tách làm râu giả mấy ông tây đi tàu sắt. Có khi bắt chước mấy anh lớn tập chơi đánh trỏng một mình chạy vòng vòng cái sân trường nhỏ xíu. Trưa trưa buồn tình con chui xuống gầm bàn nằm chèo queo nghe má giảng bài có người đi chơi xa cho đã rồi trở về làng mà nói tỉnh queo không đâu đẹp bằng quê hương. Tiếng má lanh lảnh mà ngọt ngào mở ra cho con cánh cửa đầu đời dẫn vào một cõi trời mới, sông núi sắt son. Rồi ba được thả ra. Mà phải ở lại thành. Vậy là một lần nữa má lại cụ bị tay xách nách mang bè chống bầy con lếch thếch bỏ quê lên tỉnh. Thành phố xa mã, lòng má tẻ quạnh. Cả nhà chui đục dưới chái nhà người bà con bên hông đình Ông, ba đi làm sớm về khuya cật lực, má quang gánh chắt chiu. Đám anh chị con được gởi tới trường. Mỗi đêm về chợ, má chong đèn vừa vá áo vừa khảo bài. Có khuya mưa nặng hột cả nhà nằm chùm nhum rút sát vào vách nhà người ta mà ngủ. Lần nào ba má cũng nằm tuốt bên ngoài dang lưng hứng bớt giọt trời nhọn hoắt như kim châm. Giông gió quậy trên mái tôn nghe tới rã trời rã đất. Lòng của ba má chắc cũng rã nát đến vậy thôi. Mưa tiếp nắng lần lữa qua được mấy mùa, còn ba má qua không biết bao nhiêu lận đận mà dựng căn nhà đầu tiên ở phố. Căn nhà sàn vách ván quét vôi trắng có chiếc lan can treo mấy chậu bông vạn thọ vàng rực như lòng má buổi đó. Cái tết đầu tiên sung túc, chồng con quây quần, má dọn mâm cơm cúng rước ông bà tươm tất. Con chắc lòng má vui hơn tết nữa. Má mặc áo dài, tóc chải sát bới cao sau ót, mặt nghiêm trang mà khoan hòa, đẹp không thua gì hình Cô Ba in trên mấy cục xà-bông thơm, đốt nhang lầm rầm khấn vái cảm tạ ông bà đất nước. Khói bay cao, thơm phức. Lòng má trải ra, rộng không chừng. Ôi những năm mười tuổi, con sung sướng như đồng tử đứng trên tòa sen năm cánh. Quần áo vải mới má cắt may mướt rượt, bánh trái hàng vặt liền miệng. Tết nhứt má gói bì gói nem cả xâu treo giàn bếp, dưa giá nhận cả khạp, thêm thịt ba rọi cắt vuông bằng nắm tay con nít kho tuyền với nước dừa tươi. Má còn xắc chuối khô thành sợi nhỏ, ngào với gừng và đậu phộng cả thố để dành cho ba ngọt miệng mỗi buổi trà. Má chu đáo không để ai thiếu món gì trong ba ngày tết. Sắp nhỏ thêm tiền đồng mừng tuổi. Đứa lớn thêm mấy lời vỗ về căn dặn. Ra giêng má lại đuợc nhận cho làm cô giáo trường tỉnh. Trường gần chợ, má áo hàng thanh đạm, dáng mảnh như cọng cỏ may lau lách giữa phố phường, bóp cặp nách, có đứa học trò nhỏ lẻo đẻo theo sau ôm sổ sách ngày bốn buổi đi về. Học trò của má giữa chợ đông biết bao nhiêu, đi đâu cũng gặp. Có chị lớn đại rồi, vậy mà gặp má giữa đường vẫn khép nép đứng lại khoanh tay thưa gởi. Có anh lớn tồng ngồng đang khòm lưng đạp xe, vậy mà gặp má là nhảy rột xuống lề, cúi đầu gần sát đất. Con đi bên má, cũng hả dạ lây. Đàn con má ngày một lớn khôn bắt đầu tập tành đỡ đần cho má một ít việc nhà. Chừng đó má mới rãnh rỗi đôi chút mà nghĩ tới phần mình. Mà cũng có phải tự má muốn đâu mặc dầu cái thú nghe hát cải lương vốn đã truyền đâu từ đời cố ngoại. Thuở mà nhà cửa còn như dinh thự, má đã được ông ngoại nuôi dạy như bậc nữ lưu, cho làm quen thói phong nhã trong những buổi tụ họp đờn ca tài tử tại nhà. Cô ba Trà vinh, cô năm Sa đéc đâu có lạ gì với má. Má rành ngũ cung với lại bài bản không thua ông soạn giả nào hết. Có khi còn lén viết chơi mấy khổ Trăng thu dạ khúc với lại Xuân tình nữa. Vậy mà chừng lấy chồng rồi là dẹp hết, quên luôn. Chỉ còn hát ầu ơ với lại ví dầu theo nhịp võng ru con kẽo kẹt. Tới chừng được thơ thới, ba mua cho má cái máy hát hiệu Radiola có hình con chó kê đầu bên cái loa thiệt bự. Chiều chiều cơm nước vừa xong, má nằm võng gọi con quây dây thiều hát dĩa cho má nghe. Riết rồi con cũng ghiền nghe Út Trà Ôn hát Sầu vương biên ải như má. Lâu lâu có gánh cải lương ghé ngang qua tỉnh, ba mua vé thượng hạng rồi giục ép má đi coi. Lần nào cũng vậy, hễ đi là má dắt con theo cho có bạn. Hai má con ngồi chen chúc một ghế. Con thì ráng hết mức mà mới nửa màn là đã gục lên gục xuống theo nhịp kèn tiếng trống. Tới màn đào kép xuống vọng cổ phựt đèn màu, giựt mình ngó lên là thấy má nhíu chéo khăn chậm mắt. Bộ lòng má có cả biển nước mắt hay sao. Vãn tuồng, má nắm tay dắt con về qua mấy hè phố vắng hoe. Con vừa ngủ vừa đi ngon ơ không cần nhắm hướng. Có má ở kề bên dễ gì má để con lạc đường hả má. Nghĩ lại mà tiếc má ơi, phải chi tuồng đời cũng có hậu như trên sân khấu thì má con mình đỡ biết mấy. Cứ dắt nhau đi xem đào kép khóc cười theo cảnh giả rồi về. Đằng này ngoài đời mấy vở trường hận ai viết đâu mà cứ diển đi diển lại hoài làm kẻ khóc người cười đến hết hơi mặc dầu chẳng ai thuộc bài bản gì ráo trọi. Má ơi con cũng biết trời hay làm dâu bể nhưng đâu tính được tang thương ra đến nỗi ấy. Má đi vấp một bước thanh xuân mà trần ai lai khổ. Mãi tới tuổi xế chiều rồi trời vẫn cứ đòi đoạn đánh ghen cho được mới thôi. Khoảng thời gian sung sướng tròm trèm đâu có mấy năm. Con mới vừa xong trung học là đời lại làm thêm dâu bể nữa. Giặc giã liên miên, nhà cửa cháy tan hoang, của cải má giành dụm bỗng chốc thành tro thành khói. Năm đó má vừa tới tuổi về hưu. Vốn liếng hơn bốn chục năm dạy học gom lại còn cái huy chương chánh phủ gởi tặng mà chưa kịp nhận. Vậy mà má còn một bầy con phải lo tới nơi tới chốn. Nhà ở tỉnh, má vẫn muốn gởi con đi đại học ở Sài-gòn. Má tính ở nhà tiện tặn mắm muối gì cũng xong, miễn làm sao hàng tháng đủ tiền sách vở cơm nước cho con cái trọ học. Con có quên được đâu má. Tết Mậu thân giặc đốt nhà, ba dựng tạm cái chòi trên nền đất cũ, cây mận lão trước sân cháy nám tới đọt dòm thấy ũ rũ chẳng kém gì người. Con tính bỏ học mà má khăng khăng không chịu. Tới ngày con đi không biết má chạy vạy ở đâu mà sắm sửa cho con đủ thứ. Quần áo mới, va-li mới... rồi cứ theo con mà dỗ dành. Má nói mà không dòm lại mình trên người chỉ còn cái áo túi và chiếc quần lãnh đen đã trổ màu. Tóc má rối trắng như trăm đường chỉ mảnh mà lòng sấp ngữa chắc cũng cỡ lòng con vạc bị xáo măng. Con đi học xa bốn năm năm, má ở nhà đạm bạc với mớ tiền hưu còm cõi. Thiếu đủ con làm sao biết được. Có một điều con biết chắc là má nhịn ăn nhịn mặc cho con ăn con mặc, cho con ra ngoài không mắc cỡ với người ta. Mỗi lần về má làm món ngon vật lạ cho con đỡ thèm lúc ở xa một mình. Sáng ra xe trở lại trường, chiều hôm trước má xách nón "đi xóm". Đi đâu mấy đổi, khi về móc túi lấy tiền cho con. Tiền má cầm cố, tiền má vay mượn, con có biết đâu. Chỉ biết nhà thì túng quẩn mà con thì không thiếu thứ gì. Chắc má sợ con lo rầu mà xao lãng việc học. Trời ơi con có học làm vua làm chúa gì đâu mà má giựt gấu vá vai chẳng sợ muối mặt. Ngày con thành đạt chắc má mừng lắm hả má. Mà con có thấy má vui rộn ràng gì đâu. Vẫn dáng ung dung. Vẫn tiếng cười lặng. Vẫn câu nói nhường. Xong đứa này rồi má lo đứa khác. Má lo hoài lo hũy. Mà ngược đời thì thôi. Con cái càng lớn thì má lo càng nhiều hơn nữa. Con vẫn chăm bẩm học xong sẽ về tiếp má. Vậy mà con có nuôi má được ngày nào đâu. Mình tính xuôi đời lại tính ngược. Nó lộn lên lộn xuống làm má con mình điêu đứng. Mười năm cuối má lo còn nhiều hơn mấy mươi năm đầu nữa. Đến lúc sức đã kiệt, da mỏng te thấp thỏm đau mấy đường chỉ máu mà má có lơi tay được đâu. Sau đại họa 75, người ta lấy nhà, đuổi má về vườn sau khi bỏ tù một lúc bốn thằng con trai của má. Má khóc khô chớ nước mắt đâu còn. Rồi dang lưng còng ra mà tiếp tục hứng đỡ. Nay lặn lội thăm nuôi đứa này, mai lê lết đút móm đứa khác. Hồi trước má nuôi con mà má hy vọng. Lần này má nuôi con mà má tuyệt vọng. Má sợ không nuôi con kịp cho đến khi con được thả ra. Ở bên kia hàng rào kẻm gai má chết đứng chết ngồi. Gói muối mè lạo xạo hột mặn hột bùi. Lòng má con biết nát nhừ còn hơn cháo lỏng nữa. Má nuôi con chắc mót từng tàu lá chuối rọc phơi đếm bó, từng bẹ dừa sợi tước xướt tay, từng nia cau chẻ phạm đêm tối lửa cái ngủ vật vờ. Vậy rồi ra tù con bỏ má con đi. Đi tới mất biệt hết năm này qua năm khác.

Má ơi hường nhan có một tấm lẻ mà phận mỏng cánh chuồng có tới cả đôi. Chiêu Quân biệt Hán sang Hồ  còn kẻ rước người đưa chớ còn má của con đẹp người đẹp nết mà sao đường truân chuyên thui thủi. Ngày má đau con không được lo thuốc thang. Ngày má mất con không lạy biệt. Mấn mủ con không đội, áo tang con xếp lại để qua bên, gậy tang con không về chống kịp để vừa đi thụt lùi vừa dang tay cản cho chậm lại phút giây má rời nhà lần chót. Nhưng mà thôi... dẫu níu chậm cách nào thì cũng không cầm lại được. Má đến với đời như một đóa phù dung mà mỗi cánh hoa chỉ là một hơi sương váng vất. Những hơi sương phả ra trên mặt đất buồn hiu này cho đau khổ có một chút long lanh, cho phiền muộn có một chút ngọt ngào và cho giọt lệ sau cùng... rồi ra cũng có chút niềm hạnh phúc.

 

Ôi một tấm hường nhan mấy thuở...

 

                                                                                   Cao vị khanh

CVK_Lesu.jpg

Lệ Sử

 

Người thức từng đêm theo vận nước

Lệ sông Gianh thấm ướt ngàn sao

Tội những người đi xanh tóc mượt

Kéo về chết thảm trắng chân hào

 

Em có nghe rền theo thiên cổ

Lời nguyền rủa động suốt thiên thu

Em có nghe rì rào sóng vổ

Nợ tiền khiên kêu réo oán thù

 

Ôi có phải từ cơn mộng dữ

Mà người bày vẻ chuyện trăm năm

Đến lúc chia tay về viễn xứ

Hẵn người tiên nghiệm chuyện mất còn


Người vác nát tan lầm lũi bước

Chín tầng thảm họa bủa giăng giăng

Người chết hai lần không thấy được

Cõi dương gian sống giữa mộ phần

 

Tôi thức trắng đêm sầu trắng mất

Ngó dòng sông nhỏ hệt chỉ tay

Ai xắn lằn dao đau xé đất

Để rần rần máu chảy đêm ngày

 

Tôi đã khóc tin anh chết trẻ

Cánh dù xưa giởn gió chín tầng

Anh nổ súng, trăm năm bỗng nhẹ

Đất sững sờ, trời cũng bâng khuâng

 

Tôi đã khóc đêm anh trốn trại

Xác vắt hờ, rào kẻm gai cao

Tay bấu víu mộng đời bất toại

Mắt nhớ người ấp lạnh hôm nào

 

Tôi đã khóc tin em vượt biển

Xác bập bềnh vùi lấp bãi hoang

Em rồi tới cõi không hư huyễn

Tự do thường đòi giá trái ngang


Ôi đảo khổ, người hung, biển dữ

Mộng tan hoang hờn gió tha phương

Ai cắm vội hàng bia kẽ chữ

Sống lênh đênh, chết lỡ độ đường

 

Tôi đã khóc khi thuyền cặp bến

Hồn lao đao, rừng lảo đảo cao

Ngó trùng trùng người ngơ ngác đến

Ngó cờ vàng ba vết đỏ gào

 

Em có biết mùa đi rất lạ

Tháng trọng xuân, lòng thấy lạnh tanh

Tim thắc thỏm nỗi niềm khó tả

Dường trong ta, thương phế không lành

 

Ôi xứ sở muôn trùng, bỗng nhớ

Những oán hờn trầm tích chưa tan

Tôi đã sống tột cùng tan vỡ

Chờ tin vui nhúm lại tro tàn

 

Đau thắt dạ, những lòng tội nghiệp

Vì tin vui hiếm muộn như thơ

Ôi đất nước có còn vui kịp

Một đời tôi héo úa từng giờ

 

!!!

 

Cao vị khanh

CVK_bietxu.jpg

Biệt xứ

 

 

Đường lên cực bắc, sa mạc trắng

Gió ngậm gươm đao xẻ thịt xương

Người qua đất trích tim khô cạn

Mắt trống khi lòng rất nhiễu nhương

 

Chiều lên Đông Bắc trời âm hiểm

Gió ngậm kim châm kẻ lỡ đường

Ta đi như xác đời đã lịm

Lòng chừng nguyên vẹn nỗi tang thương

 

Vách đá vây quanh rừng trắng bụi

Cầu treo trên vực đá chênh vênh

Quê hương đã mấy lần sông núi

Thì sá  chi thân chuyện thác ghềnh

 

Ta đi nhưng biết về đâu chứ

Đất nước còn chi những miếu đền !

 

 

Cao vị khanh

"sáu-câu"

CaoViKhanh_Vongco.jpg

Thương biết mấy!  Ôi giọng buồn cố thổ !

Nhớ làm sao điệu vọng cổ quê mùa

Cho tôi về làm đứa nhỏ quê xưa

Ngủ lòng mẹ, đêm cải lương, khuya khoắt

Thương biết mấy sáu giây đờn huyển hoặc

Cống, xang, xề, hò, xự, líu ...  ru mê

Lục huyền cầm nạo phím gọi buồn về

Tim run rẩy theo nhịp lòng áo nảo

Ôi chữ nghĩa như phượng hoàng tái tạo

Từ tro than ràn rụa lửa phần thư

Từ mẹ cha đút móm nghĩa nhân từ

Ý nhân hậu trải tấm lòng nam bộ

Chữ quằn quại trên quê hương thống khổ

Chuyển thành lời kể lể nỗi tang thương

-Những oan khiên, nghiệp chướng, chốn tình trường

Những khuất tất, những sinh ly tử biệt-

Năm cung oán réo điệu sầu bất tuyệt

Ngắt nhịp buồn đứt ruột, nỗi oan khiên

Làm sao nghe mà chẳng thấy muộn phiền

Nghe làm sao mà không nhớ quê hương

Dẫu sông núi đã dặm trường cách biệt

Ôi vọng cổ, tiếng mẹ ru bất diệt

Ướt lòng con, giọt nước mắt trăm năm

Thấm lòng con, ôi, từng giọt âm thầm

Như xát muối đời con, lòng biển mặn !

 

 

Ôi vọng cổ điệu buồn xưa cố thổ

Có ngậm hờn nuốt tủi giọng Hời oan ?

Sao kêu thương như tiếng vạc lạc đường

-khi quê nhà khuất dạng mấy tầng sương-

Lòng lưu lạc ngở chừng cơn trường hận !

***

Thương biết mấy, điệu buồn nay, vọng cổ !

cvk

CUỐI NĂM, THƠ

CaoViKhanh_Cuoinam.jpg

 đọc thơ Tô Thùy Yên

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

                                                                                       Edvard  Munch                                                                                                                                                                                

 

 

Tô Thùy Yên-Tôi giựt giành đổ máu với tôi

Từng chữ một.

 

Tôi đọc truyện ngắn của Tô Thùy Yên khi còn đâu ở trung học, những năm sáu mươi. Lớp mấy cũng chẳng nhớ. Truyện có tựa gì cũng đã quên luôn. Cái điều chưa quên là lúc đó, cuộc chiến tranh khốn nạn do những người cộng sản phát động chỉ mới vừa manh nha dù đã âm ỉ từ lâu ở Mạc Tư Khoa, Bắc Kinh ... Nay có tin một ông xả trưởng ở làng xa đêm qua vừa bị ám sát. Mai báo đăng quốc lộ số 4 bị đắp mô đâu ở khoảng Cai lậy, Cái bè. Mốt nghe tin một đồn dân vệ ven biên vừa bị mấy tên du kích vác oảnh-tầm-xào bắn phá lốc chốc mấy phát rồi bỏ chạy. Còn nhớ chắc thêm một điều, truyện được đăng trên tạp chí Hiện Đại của Nguyên Sa, vừa bỏ Paris với khói sóng sông Seine trở về Sài-gòn, đem hương thơ và hơi văn mới thổi phà vào sinh hoạt văn học của miền Nam thuở đó. Mười mấy tuổi chớ gì. Cái tuổi ăn chưa no lo chưa tới. Vậy mà ngay lúc đó, truyện đã nhéo vào cái bộ nảo non xèo của tôi một cái nhéo đau nhói. Rồi nhớ hoài.

Đâu như là ...

... trên một chuyến xe đò liên tỉnh miền đông chạy xuyên qua những cánh rừng lá im ỉm, hành khách bị nhốt kín trong lòng chiếc xe ọp ẹp hẵn không có chuyện gì làm ngoài chuyện ngủ gà ngủ gật vì tiếng máy chạy rì rì ( hoặc là vì chuyến xe đi quá sớm hay về quá trễ ? ), có thể cộng  thêm một nỗi lo lắng vu vơ nào đó ... thì bị một đám du kích nhào ra chặn lại xét hỏi để hoạch họe tuyên truyền. Hành khách nam nữ lão ấu gái trai già trẻ lớn bé gì cũng bị lôi tuốt xuống xe, sắp thành hàng lối, để cho quí-vị-núp-trong-quần-chúng ... ló mặt ra xăn quần, xắn áo, lận dao găm hay xách mã tấu hoặc dậm thêm vài khẩu súng xưa mốc thếch vốn đã được chôn giấu ngay từ khi có lệnh tập kết ... điểm mặt xem tên. Rồi, y như ba đời đã là cán-bộ-chính-trị-viên-có-ba-tăng dấm dẳn lên lớp để dọ dẫm dụ dỗ dày vò ... thả dàn cái đám con dân hiền lành ngu ngơ, gồng gánh đi buôn hàng bán lẻ kiếm ăn hay đi thăm bà con chòm xóm. Kiểm soát như vậy nghĩa là ai nấy phải xuất trình tấm thẻ căn cước. À, tấm thẻ căn cước ! Thuở đó, người ta từ mười tám tuổi trở lên, bất kể nam nữ, ai nấy đều lận trong người một tấm thẻ căn cước, ghi rõ tên tuổi, năm sanh tháng đẻ, số nhà, nghề nghiệp ... như một minh chứng cho sự có mặt hợp pháp của mình trong một đất nước mới được yên ổn mấy năm đang rục rịch ... trở lại bất ổn. Chính phủ hợp pháp đòi như vậy. Mà cái đám làm loạn với súng ống và dao găm lăm lăm trong tay cũng đòi hỏi như vậy. Dĩ nhiên với hai mục đích khác nhau. Nếu đối với phía thứ nhất, tấm căn cước là một bảo đảm cho sự lương thiện và tin cậy của người cầm thẻ, thì đối với phía đối nghịch, miếng giấy cứng có bọc nhựa đó có thể sẽ là bản cáo trạng hùng hồn để họ hùng hổ lôi đương sự vào rừng, vào bưng hoặc để giam giữ hoặc để đâm, chém, bắn giết hay bỏ vô bao bố thả trôi sông, tùy ý. Ờ thời buổi đó, tấm thẻ căn cước quan trọng sinh tử đến vậy.

Và cũng vì vậy, để bảo đảm an ninh cho những người làm việc dưới quyền mình, chính quyền thuở đó còn cấp thêm cho họ một loại thẻ căn cước thứ hai, thẻ căn cước dân sự. Nhất là đối với những người phục vụ đất nước trong những phạm vi liên quan đến hành chánh và quân sự. Tấm thẻ căn cước dân sự đó như một chiếc mộc che đỡ cho họ những nguy hiểm chực chờ như buổi sáng hôm đó hay buổi chiều hôm đó ...

Và như vậy, truyện kể ...

Đám hành khách khốn khổ đó bị lùa xuống xe, xếp hàng ... để chờ khám xét. Mọi người nhốn nháo. Lo lắng. Bồn chồn. Mỗi người một bộ mặt, một con tim, một bộ quần áo, một gia đình cha mẹ vợ con anh chị em, một người tình ... mỗi người một thân phận, một hoàn cảnh, một đắn đo  ... và ... một tấm thẻ căn cước. Nhưng chắc chắn chỉ có duy nhất một nỗi lo. Lọt vào tay cái đám sát nhân giả dạng người yêu nước.

Truyện kể tiếp ...

Vậy rồi từng người một bị xét hỏi, từng người một phải trình ra tấm thẻ căn cước, với hình ảnh, tên tuổi, ngày sinh, tháng đẻ, nghề nghiệp ... dưới những mũi súng hung hăng đang chỉa vào họ và chực chờ lảy cò. Người thứ nhất, người thứ hai, người thứ ba ... Mọi việc diễn ra suông sẻ. Không có ai là ngụy quân ngụy quyền, ác ôn ba đầu sáu tay, không có ai là tay-sai-mỹ-ngụy. Từ cụ ông đến người trai trẻ. Từ con gái đến đàn bà. Ai nấy đều không có tội-tổ-tông. Mẻ lưới tung ra như lọt vào chỗ không. Lúc đó, mặt trời đang mọc hay mặt trời đang lặn, thú thật, loay hoay qua cái chằng chịt của mớ trí nhớ rối mù, tôi không chắc, nhưng hề chi, mặt trời mọc hay mặt trời lặn, bởi vì rạng đông hay tà dương, thì những tia sáng chói lòa đó vẫn bung ra từ một cõi mênh mông, vượt khỏi cõi người trần thế.

Vâng, ngay lúc đó, khi những tia sáng đầu tiên - hay cuối cùng - của mặt trời vừa hắt lên thì bỗng một tiếng hét vuột ra khỏi cửa miệng của tên trưởng toán gian hiểm. Nghiêm. Một tiếng hô “nghiêm” bỗng dội ngược vào tai đám đông đang còn đứng lố nhố như một bầy tử tội khi không rồi được ân xá.  Ngay bon lúc đó, hay một tích tắc sau đó, có tiếng đôi giày da của ai đó chập vào nhau, sắc và gọn. Như tiếng giày saut chập vào nhau khi ... người lính nghe quân lệnh của thượng cấp. Cái thế đứng nghiêm, hai tay buông thỏng ép sát vào thân, hai chân chập lại, mặt ngẩng lên, cằm giương thẳng ... vừa như tuân thủ mà vừa như biểu lộ một sự tự chủ tuyệt đối. Cái thế “nghiêm” trong bài thao diễn cơ bản mà người lính đã học và tập bao nhiêu lần từ khi khoác vào đời trai bộ quân phục. “Nghĩ “. “Nghiêm“. Ôi cái huấn lệnh nghe đi nghe lại đến nhập tâm. Và trở thành cái phản xạ của bất cứ một người trai nào đã mang nghiệp lính vào thân.

Vâng, buổi sáng đó -hay buổi chiều đó -, bên bìa một khu rừng hiểm hóc, một người trai miền Nam, một người lính miền Nam, trên chuyến xe về phép, thăm cha thăm mẹ, hẹn hò người yêu ... , người lính trẻ mặc bộ đồ dân sự, cầm tấm thẻ căn cước dân sự ... đã đối mặt với định mạng, trực diện, rồi ngang nhiên chấp nhận cái số phận như một chọn lựa của ý thức, đánh đu tính mạng mình lên sợi giây sinh tử. Trong cái giây phút bất ngờ, bất chợt, bất định đó ... anh đã sống đúng phốc cái bản chất của người lính với tất cả vinh quang và tủi nhục của nó, với mọi bất trắc của một người con trai đi gánh vác chuyện nước non. Và ... chuyện phải đến đã đến. Toán du kích hí hửng như bắt được vàng, chỉa súng xúm lại ...

 

Mấy chục năm đã qua, làm sao tôi còn nhớ được lời văn, câu chữ ... Vậy mà tôi vẫn nhớ, cái tình huống mà tác giả đã dựng lên khi người con trai bị bắt trói bởi đám người cuồng tính. Lạnh như tiền. Vững như đồng. Khi đã biết chắc số phận mình, nhân vật chính, người con trai, người lính trẻ vẫn ngẩng cao mặt, thân thẳng, vai ngang, mắt quắc ... Ngay lúc đó, chính lúc đó, mặt trời, chính mặt trời với chùm sáng ngạo nghễ hắt lên mặt anh vừng hào quang lóng lánh nhất. Tôi nhớ, ngay lúc đó, tôi đã rùng mình. Ngay lúc đó hình ảnh con chó sói của Alfred de Vigny bỗng chồm lên trong trí. (*) Người thanh niên, dáng thẳng, mặt lạnh, lời câm. Cái hình ảnh mà tác giả dựng lên khốc liệt đến làm há hốc miệng mà không kêu ra lời.

 

Mãi nhiều năm sau, tôi mới tìm ra được chữ để gọi cái giây phút kết thúc đó. Bi tráng. Quả tình bi tráng. Bi đát một cách hùng tráng. Có mâu thuẩn không. Không. Đó là một bi kịch với một kết thúc táo bạo đến rùng mình. Và đẹp lẫm liệt như một thần thoại Hy Lạp.

 

Vậy rồi, đến chừng lên đại học, lại được đọc thêm thơ của ông. Những bài thơ tự do, thơ năm chữ, bảy chữ ... Chữ nghĩa vạm vỡ. Ẩn dụ minh mông. Hình tượng lẫm liệt. Đọc xong cứ như vừa chạy băng đồng. Thở dốc. Hụt hơi ... Mà rồi lại muốn bắt đầu một cuộc băng đồng mới. Đọc rồi như có điều gì muốn nói. Mà rồi lại ngậm câm. Chữ của ông như tẩm thuốc mê. Đọc xong rồi ú ớ. Có điều mãi mãi tôi vẫn muốn viết về thơ của ông. Thơ Tô Thùy Yên. Mà viết về cái gì. Chữ Nghĩa của ông ? Thứ chữ nghĩa tự nó đã biện minh cho sự hiện hữu phi thường của nó. Mỗi chữ đã là một giá trị tự thân. Tự nó. Chính nó. Nói gì thêm cũng chỉ là phù phiếm. Ý tưởng của ông ? Thứ ý tưởng lồng lộng như mây giông đầu hạ, giậm giựt bao nhiêu là sấm sét chỉ chờ dịp cựa mình. Như vậy thì viết làm sao cho ráo, bắt làm sao cho kịp những tia chớp, nháng lên từ những liên tưởng xảo diệu và ẩn mật đến sững sờ.  Vậy mà sao tôi lại dại dột loay hoay hoài với những bài thơ, những câu thơ, những vần những điệu, những chữ mà ý nghĩa của từng chữ từng câu cứ chực trào ra khỏi cái khuôn đang cầm giữ nó. Câu hỏi cứ lẩn quẩn trong cái đầu rối mịt của tôi. Đã lâu, lâu lắm ! Rồi bây giờ, mấy mươi năm sau. Sao vẫn cứ ý nguyên cái thắc thỏm như chính mình đã để lỡ một hẹn thề.

Từ những năm 60, 70, 80, 90 ... của thế kỷ trước, rồi vụt sang thế kỷ khác, những năm 2000, khi thân xác đã có chừng mệt mõi mà trí óc thì vẫn lùng bùng y nguyên thời còn trẻ, mỗi khi đọc lại thơ ông.

 

Thi sĩ Bắc Nam đều chết rạp

Ba trăm năm lịch sử làm thinh

 

Đủ chưa, hai câu thơ đó. Hai câu thơ đọc lúc trai trẻ đã muốn rùng mình. Bây giờ, vài mươi năm sau, đọc lại vẫn nguyên cái cảm giác choáng ngộp của Trần Tử Ngang khi leo lên chót đỉnh U Châu đài mà ngẫm nghĩ chuyện nhân sinh. Niệm thiên địa chi du du. Độc thương nhiên nhi lệ hạ. Thi sĩ có phải là bậc tiên tri thấu thị. Thơ làm từ năm 72. Vậy sao đọc lên lại thêm cái cảm giác hãi hùng khi nghĩ tới bước chân của lịch sữ đã và đang dẫm lên số phận của người Việt, nhất là từ khi người cộng sản dẫm đạp bằng những bước chân thô bạo lên cái dòng sinh mệnh của dân tộc. Hai câu thơ, 14 chữ, gọn bâng mà sao nghe rổn rảng tiếng trì chiết rủa xả, lời đay nghiến, giọng kêu thương của lớp lớp biển dâu, của trùng trùng oan khuất, của núi xương vô định, của mồ mã vô danh ... 

Làm thinh. Chữ nôm na mà nghĩa trầm thống. Chữ tĩnh mà nghĩa động thốn tâm. Thử đọc lên hai chữ làm thinh, làm thinh là làm thinh, là ngậm miệng, là nuốt tiếng ...  nhưng sao như nghe vọng lại từ đó bao nhiêu tiếng kêu gào rên siết, tắt nghẹn trong cổ họng ... của đám dân đen mỗi lần thay ngôi đổi chúa, của sông Gianh cắt lìa ruột thịt, của Bến Hải nước tẻ hai dòng, của đường 13 pháo chùm pháo chụp, của đường số 1 con bú xác mẹ, của đảo Ko Kra trinh tiết dập vùi, ... của từng đám tù nhân không-danh-số lê lết qua những trại giam ngụy trá. Lịch sử làm thinh hay chính lòng người ngoảnh mặt làm ngơ, bịt tai bịt mắt trước những lộng hành của cái ác. Từ khi nào thơ không còn là hoa trái của cuộc đời và người làm thơ bị coi là đồ thừa thải, bị giam cầm hay bắn giết, mặt đất này chỉ còn là sa mạc, thứ sa mạc làm khô khốc lòng người. Rồi ra, thơ chỉ còn là tiếng dội của vô vọng, là lời của vô ngôn, là mặt thật của vô cùng để lần cuối biểu dương cùng tận cái vinh dự lầm than của kiếp người ...

Vinh dự lầm than của kiếp người ?

Cái nghĩa nghịch lý của câu thơ đã đủ để biểu lộ cho con-mắt-trông-thấu-cả-sáu-cõi-tấm-lòng-nghĩ-suốt-cả-nghìn-đời (**) của bậc-vương-tôn miền-trí-tuệ chưa ! Lời thơ như sóng cuộn ì ầm mà dội lại tiếng vô thanh, vô thanh của vô cùng vô tận, như vẽ ra rồi lại xóa đi từng bức tranh vân cẩu, như mở ra rồi đóng lại cái vòng lẩn quẩn loay hoay của cuộc lữ miên trường. Mỗi câu thơ là một vấn nạn. Nhưng ... Thiên hà ngôn tai . Trời đất có nói gì đâu .

Và rồi tất cả sẽ nguôi ngoai  ?!

 

Rồi tất cả sẽ nguôi ngoai ...

Đã có lúc, làm thơ như dấn thân vào một cuộc đuổi bắt với vô vọng ... Mọi thắc mắc siêu hình vốn dĩ là cách thức ngạo mạn của kẻ chơi đùa với chữ nghĩa. Nhưng khác với lối đua đòi làm dáng, Tô Thùy Yên đã xua thơ mình chạy mút tới tận cùng để giáp mặt cái Cùng Tận đó, cái Vô Hạn đó, cái Hư Không ! Thơ sung mãn như cái hùng tâm truy lùng chân lý. Và vì vậy, ông đã gặp, tôi tin vậy. Bạn có nghe, này bạn có nghe. Vũ trụ miên man chuyển động đều. Chim đã bay quanh từ vạn cỗ. Gió thật xưa, mây thật già nua. Nên với một đời, bao biến đổi. Mà trong vô hạn có gì đâu. Bài thơ, những bài thơ làm trong giai đoạn này không ghi ngày tháng –mà thật sự có cần ghi ngày tháng không. Cái điều rõ ràng là người làm thơ chưa già mà thơ đã cỗi, cỗi như cả cái vũ trụ vô sở vô trú, cả cái dòng thời gian vô thủy vô chung, trùng trùng, điệp điệp ... Và tôi hiểu tại sao Trần Tử Ngang chảy nước mắt, tại sao Tô Thùy Yên sau khi đã mòn gót chân sương nắng tháng năm đã có lúc cũng phất phơ chéo áo đường thiên cổ, nước mắt hồng tuôn đến đá mòn.

Rồi sao nữa ? Rồi  là ... đáo bỉ ngạn !

Từ đó là thái độ tri kỷ tri bỉ, biết điều như mọi kẻ biết-điều nhất trần gian. Vạn vật giai bị ư ngã, phản thân nhi thành, lạc mạc đại yên.  Hề, ta trở lại gian nhà cỏ. ... Ở đây ta có dăm người bạn. Phúc tự tâm, không lý đến đời. Ở đây ta có dăm pho sách. Và một dòng sông, mấy cụm mây. Hạnh phúc ở đâu mà lặn lội dang thân. Hạnh phúc trần gian ở đâu hay ở chính lòng ta đó. Dòng sông u hiển trôi vô lượng. Dòng sông hiền triết chảy vô tâm. Mà ta ngưỡng vọng như sư phụ. Mà ta thân thiết tựa tri âm ... Quên quên, nhớ nhớ tiền sinh kiếp. Thiên cổ mang mang thế sự nhòa. Trận lốc cười tròn trên quá vãng. Ta làm lại cả tâm hồn ta ... Ờ vậy thì còn tiếc gì mà không về ...

Tưởng tượng ta về nơi bản trạch ! Còn gì vui bằng khi mọi điên đảo của thế sự quanh quanh không còn đảo điên giữa lòng ta. Đó có phải là quê-nhà 

của mọi gã đãng tử sau cuộc tuần du bất tận. Với khám phá diệu kỳ : rồi tất cả sẽ nguôi ngoai

Rồi tất cả sẽ nguôi ngoai !

Nhưng rồi có thật sự tất cả sẽ nguôi ngoai hay vẫn bất tận nỗi đời hung hãn đó như chính ông đã mường tượng, một ngày.

 

Những năm 70, chiến tranh bùng lên dữ dội. Súng đạn hung hăng, lòng người hung bạo. Qua sông. Đò nghẹn đoàn quân xa tiếp viện. Mưa lâu, trời mốc, buồn hôi xưa. Con đường đáo nhậm xa như nhớ

 

Xa như nhớ. Trời ơi làm sao đo được cái khoảng cách ở hai đầu một nỗi nhớ mơ hồ. Xa như nhớ. Hoán dụ đến nỗi không còn tính được bằng cây số bởi dặm trường có ở đâu xa. Dặm trường ở ngay chính lòng ta đó. Tuyệt. 

Bộ mặt chiến tranh được vẽ ra bằng đường nét tự tại. Không lớn lối cũng chẳng e dè. Không thêm không bớt. Mà nghe ra như đã sầu đâu từ thiên cổ hận... Nao nao mường tượng bóng mình. Mịt mùng cõi tới, u minh tiếng rền. Xuống đò, đời đã bỏ quên. Một sông nước lớn trào lên mắt ngời.

 

Dĩ nhiên giấy bút làm sao tả cho hết cái bi kịch mà mỗi vai trò chỉ thoáng hiện thoáng mất như những chiếc bóng vật vờ, nhân vật chỉ còn là cái cớ. Diễn trường chính yếu là cái khoảng không còn lại, cái khoảng trống không sau khi vai diễn đã biến mất, mọi tiếng động đã bặt im. Cái còn lại là cái không-còn-gì, không-có-gì. Cái còn lại sau những cuộc tranh giành, dù thắng dù thua, cái còn lại chính là cái im ỉm của thiên địa trơ trơ, của thánh thần lánh mặt, của mất còn còn mất chỉ là hai mặt sấp ngửa của đồng tiền quay tít rồi ... bật ngửa ra, bất kể. Em chạy tìm anh ngoài cõi gió. Lửa oan khốc giỡn cười ghê hồn. Tiếng kêu đá lở long thiên cổ. Cát loạn muôn trùng xóa dấu chôn

 

Trên bối cảnh của một cuộc vật lộn giữa tử sinh không hồi ngưng nghỉ, thơ như một cầu cơ giáng bút. Điều gì khiến ông làm Trường Sa Hành. Trường Sa hay Hoàng Sa ? Ai biết ! Đọc thử hết trọn một bài của Tô Thùy Yên để thấy cái điên đảo của chữ nghĩa, cái lồng lộng của ý tưởng ...

 

Trường Sa Hành

Toujours il y eut cette clameur,
                         Toujours il y eut cette fureur...
                         Saint-John Perse

Trường Sa ! Trường Sa ! Ðảo chuếnh choáng
Thăm thẳm sầu vây trắng bốn bề
Lính thú mươi người lạ sóng nước
Ðêm nằm còn tưởng đảo trôi đi

Mùa Ðông Bắc, gió miên man thổi
Khiến cả lòng ta cũng rách tưa
Ta hỏi han, hề, Hiu Quạnh Lớn
Mà Hiu Quạnh Lớn vẫn làm ngơ

Ðảo hoang, vắng cả hồn ma quỷ
Thảo mộc thời nguyên thủy lạ tên
Mỗi ngày mỗi đắp xanh rờn lạnh
Lên xác thân người mãi đứng yên

Bốn trăm hải lý nhớ không tới
Ta khóc cười như tự bạo hành

Dập giận, vác khòm lưng nhẫn nhục
Ðường thân thế lỡ, cố đi nhanh

 

Sóng thiên cổ khóc, biển tang chế
Hữu hạn nào không tủi nhỏ nhoi ?
Tiếc ta chẳng được bao nhiêu lệ
Nên tưởng trùng dương khóc trắng trời

Mùa gió xoay chiều, gió khốc liệt
Bãi Ðông lỡ mất, bãi Tây bồi
Ðám cây bật gốc chờ tan xác,
Có hối ra đời chẳng chọn nơi ?

Trong làn nước vịnh xanh lơ mộng
Những cụm rong óng ả bập bềnh
Như những tầng buồn lay động mãi
Dưới hồn ta tịch mịch long lanh

Mặt trời chiều rã rưng rưng biển
Vầng khói chim đen thảng thốt quần
Kinh động đất trời như cháy đảo
Ta nghe chừng phỏng khắp châu thân

Ta ngồi bên đống lửa man rợ
Hong tóc râu, chờ chín miếng mồi
Nghe cây dừa ngất gió trùng điệp
Suốt kiếp đau dài nỗi tả tơi

Chú em hãy hát, hát thật lớn
Những điệu vui, bất kể điệu nào
Cho ấm bữa cơm chiều viễn xứ
Cho mái đầu ta chớ cúi sâu.

Ai hét trong lòng ta mỗi lúc
Như người bị bức tử canh khuya
Xé toang từng mảng đời tê điếng
Mà gửi cùng mây, đỏ thảm thê.

Ta nói với từng tinh tú một
Hằng đêm tất cả chuyện trong lòng

Bãi lân tinh thức âm u sáng.
Ta thấy đầu ta cũng sáng trưng

 

Ðất liền, ta gọi, nghe ta không ?
Ðập hoảng vô biên, tín hiệu trùng
Mở, mở giùm ta khoảng cách đặc
Con chim động giấc gào cô đơn

 

Ngày. Ngày trắng chói chang như giũa
Ánh sáng vang lừng điệu múa điên
Mái tóc sầu nung từng sợi đỏ
Kêu dòn như tiếng nứt hoa niên

 

Ôi lũ cây gầy ven bãi sụp
Rễ bung còn gượng cuộc tồn sinh
Gắng tươi cho đến ngày trôi ngã
Hay đến ngày bờ tái tạo xanh

 

San hô mọc tủa thêm cành nhánh
Những nỗi niềm kia cũng mãn khai
Thời gian kết đá mốc u tịch
Ta lấy làm bia tưởng niệm Người

 

Đọc lên thành tiếng. Trường Sa ! Trường Sa ! Đảo chuếch choáng. Thăm thẳm sầu vây trắng bốn bề ... Mùa Đông Bắc, gió miên man thổi. Khiến cả lòng ta cũng rách tưa. Ta hỏi han, hề, Hiu Quạnh lớn. Mà Hiu Quạnh lớn vẫn làm ngơ ...

Tôi sẽ nói gì thêm. Đã hỏi rồi. Đã nói rồi. Hiu Quạnh Lớn có nói gì đâu. Thiên địa bất nhân dĩ vạn vật như sô cẩu. Trời đất bất nhân coi vạn vật như chó rơm. Đã vậy thì còn gì để nói thêm ?

Còn. Còn rất nhiều điều để kể.

Đầu tiên ta kể về im lặng

Mà ý chừng kể để Hư Không nghe

Hư không, hư không có nghe không ? Có nghe Mùa hạn rên siết. Ở đây địa ngục chín tầng sâu. Cả giống nòi câm lặng gục đầu. Cắn chết hàm răng, ứa máu mắt. Chung xiềng nhưng chẳng dám nhìn nhau. Không nhìn nhau nhưng không phải không có gì để nói với nhau. Hay lắm khi im lặng còn nói được triệu lần hơn điều được nói.

Thơ Tô Thùy Yên có triệu điều để nói. Tuy nhiên giọt nước mắt ứa ra ít mặn hơn giọt nước mắt nuốt ngược vào lòng.

Thơ Tô Thùy Yên đọc thầm hay đọc ra rả cho át tiếng sóng vỗ ngoài biển lớn đều như nhau. Cả hai cách đều dội ngược vào người đến nghe đau mềm phế phủ. 

 

Thơ của ông như vậy là như vậy. Y như Hiu Quạnh Lớn. Còn nói nỗi gì. Còn viết thêm chi. Có làm rộn tai. Có làm xốn mắt. Mà sao vẫn cứng đầu cứng cổ mà run tay muốn nhắc muốn nói muốn viết. Mà viết cái chi. Khi mọi sự đã an bày. Hiu Quạnh Lớn có nói gì đâu. Có gì để nói đâu. Hay tại lớn đến choáng ngộp nên làm miệng ú ớ, tay cứng, chữ cùn ... Hay nói đại, nói bất kể, thơ Tô Thùy Yên ... Nói về chuyến Tàu đêm chở tù chạy như một cơn giông lửa ròng rã từ Nam ra Bắc, qua trùng trùng oan khuất. Tàu đi như một cơn điên đảo. Sắt thép kinh hoàng va đập nhau. Ta tưởng chừng nghe thời đại động. Xô đi ầm ỉ một cơn đau ... Con tàu chạy ngược, suốt con đường sắt xuyên Việt như trở ngược giòng lịch sử, từ văn minh trở lại man rợ, từ yêu thương trở lại thù hằn, từ khoan dung trở lại hẹp hòi, từ chân thành trở lại gian trá.

Muốn nín nhưng đọc thơ lòng như lửa đốt. Có gì cháy âm ỉ giữa lòng ta. Có gì cháy hừng hực giữa đầu ta. Lửa bắt từ xác chữ dị thường, cháy lan theo đường gân sớ thịt, nung đốt ý tưởng rồi làm tro than mọi ý tưởng. Vậy mà vẫn níu chữ chạy theo trối chết, để được tới nơi, cùng lúc với ông. Bởi vậy vẫn viết cho cố xác mà rồi cũng chẳng biết sẽ tới đâu. Vẫn muốn viết về thơ ông như lúc còn tưởng tay vói tới trời. Đến lúc biết trời cao tay không vói tới mà cứ vẫn loay hoay điều bất khả. Viết thêm. Viết thêm nữa. Điều bất khả. Làm sao, làm sao nói hết được cái hạo khí hừng hực bốc lên từ chữ nghĩa ông.

Cho nên ...

  • Giảng ! Bình ! Phê ! Luận ! Tán !

  • Nhảm !!!!

Khổ nỗi ! Ý bốc lửa. Chữ cuống cuồng. Những trang giấy trắng. Trắng minh mông. Trắng lạnh ngắt mà lại kêu đòi. Viết về thơ Tô Thùy Yên có phải là vẽ cái vòng tròn mà điểm cuối không bao giờ nối lại được điểm khởi đầu. Viết về thơ Tô Thùy Yên có phải là tả cái minh mông không cột mốc, không điểm tới cũng chẳng có điểm đứng. Cái dập dềnh của sóng, của gió, của mây, của nước mà mọi hình thù bị phá vở từ mỗi sát sa. Có phải là tung tóe theo cơn nổ hồng hoang. Hay là ngộp chìm theo cơn hồng thủy. Cái chết tru rân giờ nguyệt tận. Máu bung từ mỗi lỗ chân lông... Như tên phù thủy già điên loạn.

Lịch sử lên cơn dữ bất thường. Viết về thơ Tô Thùy Yên có phải là vẽ rắn thêm chân khi rắn đâu có chân mà vẫn bò vun vút, là châm nước thêm vào lòng biển lớn, là vùi thêm củi vào miệng hỏa diệm sơn.  Người mẹ trẻ buồn đôi mắt trũng. Thân gầy nhom, tóc cháy, da cằn. Địu con, một dúm thịt nhăn nhúm. Ra ruộng khê tìm mót cái ăn. Còn nói được gì thêm về tội ác ngút trời của loại hà-chính-mãnh-ư-hổ đã và đang cắn xé  mảnh đất vốn đã gầy còm ở bên kia biển lớn. Thơ của ông dữ dội lắm. Thơ của ông là bản cáo trạng không lời buộc tội dù được viết bằng máu và nước mắt chảy ngược của chính bản thân, thay mặt cho cả một thành phần dân tộc bị án tử oan tình. Vì mỗi hình ảnh ông kê ra đã là một bản án tự thân cho đám sát nhân tội đồ của nhân loại. Thơ ông là một bản J’accuse của Émile Zola để đòi lại sự thật cho sự thật. Đọc thơ ông, sống lại ngày dài trong trại-lán-cải-tạo, trong hầm kiên giam, dưới chòi canh hầm hừ, giữa lon cơm mốc thếch, trên bàn tay trần bươi đất, hay quằn đôi vai kéo cày thay trâu, trong mảnh vải bố nát che thân khi rừng núi lập đông. Ta khóc lẻ loi, cười một mình. Thu hình ẩn náu dưới tâm linh. Mắt chong kinh hãi đêm hư sử. Thân lõa lồ đau cháy khổ hình. Nguyễn Du xưa viết Kiều khiến người đời cứ tưởng nhỏ máu ra năm đầu ngón tay mà viết. Nay đọc thơ Tô Thùy Yên cứ tưởng ông đã mài đá ra mà làm mực. Thứ mực không bao giờ phai vì đã và sẽ trầm tích trong nảo cân, trong huyết quản của người đọc, đời này và cả đời sau.

Mà còn tuyệt vời hơn nữa, điều đó còn để xác nhận thơ và người thơ đã không bao giờ và sẽ không bao giờ bị thắt cổ bởi lòi tói xiềng gông. Bởi vì, nghĩ cho cùng, cái được gọi là trại cải tạo trong dãy quần đảo ngục tù mênh mông ở Việt Nam sau năm 75 chỉ nhằm một mục đích duy nhất là triệt hạ nhân phẩm của người tù, triệt tiêu mọi ý thức phản kháng, biến họ thành súc vật. Trại tù nằm bên bờ sông Mã ở Thanh Hóa mà tù nhân không được đi thẳng người, phải bò như con thú bốn chân là một điển hình.

Nhưng dù vậy, ác tâm hèn hạ đó đã và sẽ không bao giờ thành tựu được. Chẳng những vậy, con người, sinh vật thượng đẳng vẫn mãi là con người dù có bị đòn tra ép uổng tới tận tầng cuối của địa ngục. Hơn vậy nữa, người làm thơ, kẻ chịu khổ nạn nhất trong kiếp đọa đày đó vẫn mãi mãi là sinh vật tối thượng vượt hẵn lên trên lũ cầm thú giả dạng làm người. Ta về. Ta về-một bóng trên đường lớn. Thơ chẳng ai đề vạt áo phai ... Ta về cúi mái đầu sương điểm. Nghe nặng từ tâm lượng đất trời. Cám ơn hoa đã vì ta nở. Thế giới vui vì mỗi lẻ loi ... Ta vể như lá rơi về cội. Bếp lửa nhân quần ấm tối nay. Chút rượu hồng đây, xin rưới xuống. Giải oan cho cuộc biển dâu nầy.

Ôi, tấm lòng thi sĩ, người run giùm thế nhân hơi thu run rẩy, ấm giùm thế nhân tia ấm cuối đông, người đau giùm thế nhân cơn bội bạc của thế sự mà cũng vui giùm thế nhân sự thuận thảo của đất trời. Trên dưới trong ngoài đông tây nam bắc, có chỗ nào kềm giữ được đôi cánh chim hồng hộc. Tấm lòng thi sĩ bay lượn vượt thoát khỏi trói buộc của nhân thế,  nhạy như tơ trời, nhịp cùng nhịp với nhịp mùa, đập cùng đập với nhịp tim của thiên hạ. Tấm lòng đó, bao dung đến vô lượng. Hãy nghe ông xẻ chia với người quen kẻ lạ nỗi-vui-nhục-nhằn khi trở lại từ địa ngục trần gian. Ta về như hạt sương trên cỏ. Kết tụ sầu nhân thế chuyển dời. Bé bỏng cũng thì sinh, dị, diệt. Tội tình chi lắm nữa người ơi ... Ta về như sợi tơ trời trắng. Chấp chới trôi buồn với nắng hanh. Ai gọi ai đi ngoài quãng vắng ? Phải, ôi vàng đá nhắn quan san ? Ta về như tứ thơ xiêu tán. Trong cõi hoang đường trắng lãng quên. Nhà cũ, mừng còn nguyên mái vách. Nhện giăng, khói ám, mối xông nền ... Ta về như tiếng kêu đồng vọng. Rau mác lên bờ đã trổ bông. Cho dẫu ngàn năm em vẫn đứng. Chờ anh như biển vẫn chờ sông... Ta về dẫu phải đi chân đất. Khắp thế gian này để gặp em. Đau khổ riêng gì nơi gió cát. Hè nhà, bụi chuối thức thâu đêm... Ta về như hạc vàng thương nhớ. Một thuở trần gian bay lướt qua. Ta tiếc đời ta sao hữu hạn. Đành không trải hết được lòng ta.

Ta về như tứ thơ xiêu tán. Trong cõi hoang đường trắng lãng quên. Tù về mà thơ phiêu hốt như hạc nội mây ngàn. Nghĩ ra làm sao không khoái trá.

Đành không trải hết được lòng ta ? Ờ, làm sao nói cạn được tấm lòng thi sĩ. Người đau cái đau của nạn nước, gấp bao lần cái đau của nhân gian, người buồn cái buồn của thời vận, gấp bao lần cái buồn của nhân gian. Vậy mà rồi, cuối cùng, vẫn phá chấp để tìm lại bộ mặt tích cực của đời sống, để mở lòng yêu đời yêu người dù đã quá độ đắng cay.

Mặc kệ trời bày cuộc bể dâu, nhấn chìm hết mọi ước mơ, tắt lịm hết mọi dự phóng, vẫn nguyên si tấc dạ của đứa con lưu lạc trở về nhà. Thương hờn oán giận rồi ra cũng chỉ là mấy nét nhăn nhúm của bộ mặt trần gian khó ưa. Mặc kệ, vẫn còn đó, nụ hoa nở trái mùa, trái chín muộn trên cây ... Cũng chẳng biết triết lý nào đạo nghĩa nào đã nuôi hồn thi sĩ. Mà cũng chẳng cần biết. Vậy chớ lẽ đời tính vậy chẳng là ... phải phải lắm sao ! Giáo điều chi cho mệt. Đọc xong tôi cũng hả dạ lây. Ôi tâm hồn thi sĩ ấy !

Bởi vậy mà đọc lại thơ ông khi lòng đã lạnh mọi hương nguyền, chuyện đời đã trơn tuột ngoài vòng tay mà sao vẫn thấy xao xuyến như có gì muốn cà kê, muốn lải nhải, muốn trần tình, muốn kể lể ... muốn ... muốn ... muốn ...

Vậy thì nhìn vào những khung giấy bỏ trống bên dưới, có thấy không, chữ nối chữ, lời tiếp lời, đầy ắp ... những điều không nói được, vừa thảng thốt mà lại vừa thống khoái trong lòng khi đọc thơ ông. Thơ Tô Thùy Yên không có tính từ để ép uổng. Nói này nói nọ thật ra chỉ là cưỡng cầu. Hãy đọc thôi. Đọc bằng tấm lòng xích tử, khi ngôn ngữ chưa thành lời ...

_______________________________

 

 

 

Ở một chỗ

rất

gần sao... 

 

 

 

Có lần người bạn thi sĩ ở bên này bờ Hudson, phía New Jersey hứa mời tôi đi uống cà-phê ở một nơi rất gần với mấy vì sao. Những vì sao xa tít vốn dĩ là quê hương rất đỗi ngây thơ của những "Ông Hoàng bé ". Thử cho anh coi lại điệu vũ của bầy sao đêm. Anh ta nói với tôi như vậy. Mấy lần điện thoại rủ rê, cứ hẹn lần hẹn lượt tôi vẫn chưa uống được tách cà-phê pha giữa trời sao đó lần nào.

Chỗ tôi đang ở cũng là một thành phố lớn, nằm chênh chếch về phía đông bắc lục địa. Những con đường ngang dọc từ trên cao nhìn xuống cũng y như mấy miệng vực hun hút giữa khu rừng cao ốc. Mỗi lần ra phố chỉ thấy từng hẻm mây buồn rầu. Thuở mới đến, có bận nhớ nhà, tôi hay len lỏi đi tìm ngó trăng sao. Và lần nào cũng buồn ngẩn buồn ngơ vì trăng sao cứ trốn đâu mất biệt. Thay vào đó là ngàn ngàn con mắt đèn như bầy đom đóm đeo dính mấy tấm vách thẳng băng ngước nhìn tới mỏi cổ. Hơn nữa chưa hết tầm nhìn đã chóa mắt giữa hằng hà sa số ngọn néon xanh xanh đỏ đỏ. Riết rồi thua buồn cũng quên lửng luôn những vì sao đã chắt chiu mang theo như để đánh dấu điểm đứng của quê hương. Vâng, có ngôi sao chỉ mọc ở phương nam. Chắc quê hương tôi ở hướng đó.

Thuở mười một mười hai tuổi, mỗi lần được cho về quê nội, cứ đợi chiều xuống là tôi trèo tuốt lên mấy đụn rơm cao ngất ngoài bìa ruộng, dang tay nằm ngữa đợi trời tối. Ngó lên là trời vòi vọi cao, không một bợn mây mà lại xanh mướt, xanh ngọt cả lòng. Thuở đó tôi đâu biết tả ra sao cái màu ngan ngát của buổi chiều đương chuyển sang đêm. Chỉ thấy nó lâng lâng đến nổi hồn nhỏ cũng muốn bay bổng. Rồi chiều lánh đi thư thả. Ðêm nhón chân tới, rất nhẹ. Rồi con sao thứ nhất bắt đầu ló ra. Cũng êm ru như đã ở đó tự bao giờ. Chớp lia chớp lịa như để nháy gọi nhau, một chút nhẻo thôi là không biết ở đâu mà sao đã rải ra đầy trời. Ðêm trước mắt bỗng lộng lẫy như tấm nhung đen đính hàng triệu kim cương hột mẳn đều như tấm, nhiều đến ngó không xuể. Có lần tính thử đếm chơi nhưng rồi cứ vuột khỏi mấy lần bàn tay nên chán bỏ. Nhưng mà lần nào cũng không quên ao ước hể thấy có một vệt sao băng. Mà rồi y như lần nào cũng trễ, thành ra không kịp có một lời nguyện nào cho tròn. Cho đến một lúc thằng bé chỉ chờ sao lên thôi cũng đủ. Mỗi vì sao như chiếc cầu vòng nhỏ xíu dắt nó vào một thế giới khác, thần tiên. Rồi càng lúc đêm sao lại càng nở ra, trùng trùng điệp điệp. Ðứa nhỏ, tấm lòng hả lớn đến hết cở như muốn hớp cả vào người cái cõi bao la và bí nhiệm đó. Nhưng mà lòng nó nhỏ quá, vũ trụ thì quả thật mênh mông. Có khi nó chảy nước mắt mà không biết vì sao.

Từ đó, bầy sao  cứ lấp lánh theo tôi như những cặp mắt dõi theo từ quê nội, nấn níu chờ tôi lớn lên ở thành phố, đợi có ngày yên ổn rủ tôi trở về làng. Nhưng rồi cái ngày đó không có nữa. Tôi bỏ quê đi thật xa, xa đến mất luôn một lúc cả trời sao trăng nước ở một xóm nhỏ bên bờ kinh Hòa Nghĩa.

Bởi vậy mà chừng nghe lời bạn rủ rê đi ngó sao ở một chỗ thật gần, tôi náo nức lắm. Vậy mà rồi không kịp. Cái chỗ rất gần sao đó không còn nữa. Buổi sáng ngày11 tháng 9 năm 2001, lòng căm thù của con người đã làm nó nổ tung. Hai tòa nhà cao cả trăm từng cùng với mấy ngàn sinh mạng nát ngứu ra thành bụi. Mấy triệu tấn sắt thép và thủy tinh cộng với tim óc của con người dựng đứng thẳng lên trời giữa lòng đảo Manhattan như một thách thức với thiên nhiên bỗng vỡ tan như cám vụn. Nó đã chống chọi với gió cuồng bão dữ không suy xuyển. Vậy mà lần này nó không chống nỗi với cơn bạo hành của ác tính. Phút chốc cả một khối sống hừng hực bỗng hư vô chẳng đáng một mảy may. Phút chốc lòng tin của tôi cũng thành ảo. Phút chốc cái có đó đã hóa không. Có. Không. Không. Có. Không tưởng tượng nỗi. Cái đầu vốn vẫn thường nghĩ xa tới ngàn ngày, nghĩ rộng tới ngàn dặm mà vẫn như không đủ tầm cỡ để chứa được cái chuyện vừa xảy ra. Làm như cái việc vừa xảy ra trước mắt là không thể có được. Tôi sững sờ đến bất động. Cả ngày tôi cứ ngồi dán mắt vào máy truyền hình, nhìn cảnh máy bay đâm thẳng vào cái khối sắt thép lừng lững đó, rồi lửa khói bùng lên và sau hết cái nấm bụi khổng lồ bùng ra như một cơn lốc dữ mà bàng hoàng đến ngớ ngẩn. Miệng tôi không nói ra được một lời. Không có một lời nào nói ra được sự kinh khiếp đó. Sự hung dữ đó. Sự mù quáng đó. Rồi cảnh người sống chạy chết. Cảnh gạch đá sắt thép văng bay tứ tung. Còi xe cứu thương kêu rú in ỏi. Khói bụi bốc trắng mù mịt. Tôi ngồi chết trân nhìn trực tiếp cảnh tàn phá điên dại từ bàn tay con người. Con người. Tuyệt phẩm của thượng đế. Con người. Tuyệt phẩm của ma vương. Con người. Quả tình tôi không hiểu nỗi. Tôi muốn tắt máy mà lại cứ để mở. Nhìn ngó đến hãi hùng. Ống kính truyền hình thu không sót một góc. Nhưng có một cảnh mà máy không thu được. Một cảnh thiếu mất thốt nhiên nghĩ tới làm tôi hốt hoảng, chết điếng. Cùng một lúc, chớp mắt, mấy ngàn người tiêu ra tro bụi. Cùng một lúc, mấy ngàn người mới đó bỗng hư không. Một người cha, một người mẹ, một người con, một người tình... mới sáng đó còn hăm hở thức dậy sửa soạn ra đường, lái xe, đi métro, xe bus tới sở làm. Một tiếng đồng hồ trước đó còn hăm hở bước vào thang máy, cười với người quen này, nói đùa với người quen nọ. Nửa tiếng đồng hồ trước đó còn hăm hở ngồi vào bàn giấy, vừa đưa tay mở máy com-pu-tơ vừa bấm điện thoại gọi đến tiệm hoa nhắn gởi mấy cánh hồng cho người bạn gái. Năm phút trước đó còn vừa mở xấp hồ sơ vừa nghĩ đến bữa cơm chiều với vợ và bầy con nhỏ. Một phút trước đó còn vừa lau sàn nhà vừa nghĩ đến số tiền sẽ gởi cho bà mẹ ở một xứ Á xa xôi... Vâng cái cảnh thiếu sót trong mấy bản tin quá đầy đủ đó nó chỉ có trong đầu tôi thôi liền khi tòa nhà thứ nhất sụp xuống. Rồi tòa nhà thứ hai sụp xuống. Bỗng chốc. Xương thịt. Tro than. Cái cảnh không ai thấy được mặc dù đã xảy ra sờ sờ, cùng lúc với khi mũi phi cơ tiếp giáp với khung sắt thép, cùng lúc với tiếng nổ của hàng trăm tấn dầu, cùng lúc với lòng thù hận biến con người thành thú dữ. Cái cảnh không có trong phim ảnh bởi vì không có máy nào chụp được nhưng nó thật sự có đó, có đó rõ ràng giữa hiện trường, càng lúc càng lớn ra, càng lúc càng lớn ra, lớn đến khủng khiếp. Cái chỗ trống hoang bỏ lại của mấy ngàn nhân mạng mất đi cùng một lúc. Cùng một lúc thất tung. Cùng một lúc biệt tích. Cùng một lúc tan tành. Thịt xương. Niềm tin. Hy vọng. Cái khoảng trống im ỉm của pháp trường sau khi bọn đao phủ đã bỏ đi. Cái khoảng trống điêu tàn của mặt đất không còn người ở. Cái trống hoác ghê rợn nổi lên ngay sau khi lớp tro than đã lắng xuống. Không còn gì nữa. Có còn lại chăng là cái Trống Không khủng khiếp.

Có còn lại chăng, những ngày sau, là cái không vô cùng vô tận trong lòng tôi, trong lòng mọi người.

Mấy ngày sau, tôi thấy lại cái khoảng trống đó trên đường phố của một Nữu Ước thất thần, lơ láo trên những nến, hoa và nước mắt. Và đặc biệt trong những tờ giấy viết tay nhắc một cái tên, những tấm hình nhắc một khuôn mặt, những tiếng kêu thất thanh toát ra từ cặp mắt lặng lẽ của một người vợ tìm chồng, trong tia nhìn lạc lõng của một đứa con tìm mẹ, trong hai bàn tay bưng đầu bất lực của người lính cứu hỏa ngồi bệt xuống bên đường mếu máo, trong tiếng kèn đồng sầu thảm của người da đen vừa thổi vừa khóc khi chiều xuống ở một góc công viên... Cái khoảng trống lớn ra hoài không chặn lại được. Và sẽ còn lớn ra nữa. Một tháng sau. Một năm sau. Nhiều năm sau nữa...

Bởi vì sau buổi sáng tàn khốc đó, tôi biết trong tôi sẽ chỉ còn lại niềm tuyệt vọng.

Tôi bỏ xứ ra đi hai mươi năm, sống lây lất ở xứ người như một thân chùm gởi. Tôi bỏ trời sao của tôi lại cho một lũ điên khùng chưa bao giờ biết trời sao là ân huệ của thượng đế. Tôi xa xứ mà lòng cưu mang từng chuyện thương tâm hai mươi mấy năm trước. Những chuyện thương tâm chưa bao giờ kể đủ về những đọa đày gây ra bởi sự cuồng bạo của mê muội. Tôi đi mà cầu trời khẩn phật cho có ngày đất nước tôi sáng lán, người ở quê tôi tìm lại được tình thương và niềm tin cậy giữa người và người. Tôi chờ mà cứ sợ không còn dịp.

Giao thừa năm trước, cả hoàn cầu mở hội hoa đăng đón kỷ nguyên mới. Người ta nắm tay nhảy múa ca hát, ôm nhau hôn mừng giữa trời đất mới nguyên. Dường như có một lúc tôi thấy mọi người đều hớn hở, tin cậy, nhiệt thành, lòng mở ra vượt quá biên cùng của lề thói hẹp hòi, của nhỏ nhoi và hèn mọn, của thù oán và ghét bỏ, của hiềm khích và đuổi xua, của phân chia và chấp nhất, của lừa đảo và phản trắc... Có lúc sao tôi thấy dường như ai nấy cũng thân ái, nồng nàn, độ lượng, khoan dung... Ai nấy cũng sẵn sàng chín-bỏ-làm-mười. Mọi tiếng nói đều cười tiếng cười giống nhau. Mọi màu da đều mừng nỗi mừng giống nhau. Và như vậy nghĩa là mọi tiếng khóc cũng giống nhau như hệt, mặc kệ đen vàng trắng đỏ, mặc kệ nam bắc đông tây, mặc kệ tư bản cộng sản, mặc kệ chúa, phật, hồi giáo, bà la môn giáo, ấn độ giáo ... gì gì nữa cũng chỉ là một. Chỉ có một tiếng khóc cho nên chỉ có một niềm vui. Cái này, cái kia, cái nọ chỉ có trong đầu óc giặc giã của ta. Kẻ này, kẻ kia, kẻ nọ chỉ có trong cặp mắt loạn lạc của ta. Chớ thật ra tất cả chỉ là MỘT. Cái một tròn trịa nguyên vẹn. Cái một hồng hào hạnh phúc. Cái một lấy CON NGƯOI làm đấng cứu thế. Lấy con người làm đối tượng cho cuộc cứu rỗi. Cho con người và vì con người. Không còn chủ nghĩa tôn giáo chỉ còn con người. Không còn biên giới chủng tộc chỉ còn con người. Sẽ không còn diệt chủng ở Rwanda. Sẽ không còn thảm sát ở Kosovo. Sẽ không còn chôn sống ở Huế... Pháo bông bắn lên cao vút, lời nguyền bay lên cao vút, vụt khỏi mấy tầng mây, sáng át cả mấy chòm sao sáng nhất. Tôi thấy tôi trẻ lại. Và hy vọng. Và hứng khởi. Và tin tưởng. Kỷ nguyên mới. Kỷ nguyên của văn minh, của tiến bộ, của nhân ái. Những vòng tay cứ mở ra, mở rộng ra đến vô chừng tưởng như ôm giáp cả vòng lưng của địa cầu, ôm hết cả vòng eo của nhân loại. Tôi mừng như gặp lại tấm lòng " con đỏ " mà Lão Ðam đã mơ ước một đời. Biết đâu đất nước tôi cũng có cơ theo giòng vận hội mới... Tôi hào hứng đến nỗi làm được cả thơ vui...Tim sẽ cùng tim nối nhịp liền. Mắt bồ câu thoáng hiện nhơn duyên. Em xiêm áo mới quàng vai chị. Ðón gió ngàn năm kỷ mới nguyên.

Nhưng rồi xiêm áo đó rách bươm buổi sáng tháng chín này. Cái vòng tay khít liền đó gãy vụn ra, tan nát. Người của thế kỷ hai mươi mốt giống y như người của thế kỷ hai mươi, giống y như người của thế kỷ thứ nhứt, thứ mười, thứ mười lăm, giống y như thời của pháp đình tôn giáo với giàn hỏa, giống y như thời "thánh chiến " đẩm đầy máu Jésus và Allah. Lịch sử chỉ quay vòng vòng như trò chơi rồng rắn. Và con người thì vẫn đắm chìm trong ngu tối, dốt nát và thù hận. Ðã từ bao lâu, con người thôi ăn lông ở lỗ nhưng đâu thôi suy nghĩ và hành động như cái thời còn ở trong hang động. Chúa, Phật, Allah chắc cũng chỉ biết ngậm ngùi.

Hành động sát nhân một cách tỉnh táo của cái đám gọi là " tử vì đạo " đó làm tôi bần thần dã dượi suốt mấy ngày. Ðúng ra ai cũng có quyền dành cho mình một cái chết để phục vụ cho lý tưởng đã chọn. Nhưng lý tưởng nào để biện hộ cho việc lạnh lùng kéo nhập cục cùng một lúc mấy trăm người đồng hành và ngàn ngàn người vô tội khác vào chỗ chết một cách thảm khốc như vậy. Nhân danh - lại nhân danh! - một chủ nghĩa một niềm tin của người này để cướp lấy quyền sống của người khác có phải là phương thế để xây dựng một thế giới hoà bình, công bằng và bền vững?  Có thượng đế nào chứng nhận được việc đó. Có cứu cánh nào biện minh được cho phương tiện cùng hung cực ác như vậy. Và nếu việc làm đó để nhằm vinh danh một phần nhân loại thì chắc cũng phải vì nhân loại mà phủ nhận sự vinh danh đó.

Nhiều ngàn năm rồi không đủ cải hóa con người. Thú tánh vẫn còn đó. Những thông điệp kêu gọi cảm thông, vị tha, hòa đồng cứ bay lượn đầy trời như những đàn bồ câu trắng. Và vẫn tiếp tục bay lượn hoài trong sự lãnh đạm trơ lì. Con đường đi xuống địa ngục gần nhất vẫn còn là con đuờng đi qua lòng người. Lời nguyện đêm giao thừa giữa hai thế kỷ có thay đổi được gì đâu. Con người vẫn là kẻ thù nguy hiểm nhất của chủng loại. Có dấu hiệu nào đâu để tôi còn mơ ước cho quê hương?

Những đêm như đêm nay, ở thành phố đó sao vẫn mọc đầy trời. Nhưng còn chỗ nào gần nhất để tôi leo lên vói bắt ước mơ tôi.

 Cao Vị Khanh

_____________________________________________________

CVK_docthoTTY.jpg
CaoViKhanh_Cuoinam.jpg

Thơ văn

CAO VỊ KHANH

 

Montreal, Canada

CHS PTG-CGS Nguyễn Trung Trực, Rạch Giá

____________________________________________________

 

 

               đọc thơ Tô Thùy Yên

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

                                                                                                           Edvard  Munch                                                                                                                                                                                

 

 

Tô Thùy Yên-Tôi giựt giành đổ máu với tôi

Từng chữ một.

 

Tôi đọc truyện ngắn của Tô Thùy Yên khi còn đâu ở trung học, những năm sáu mươi. Lớp mấy cũng chẳng nhớ. Truyện có tựa gì cũng đã quên luôn. Cái điều chưa quên là lúc đó, cuộc chiến tranh khốn nạn do những người cộng sản phát động chỉ mới vừa manh nha dù đã âm ỉ từ lâu ở Mạc Tư Khoa, Bắc Kinh ... Nay có tin một ông xả trưởng ở làng xa đêm qua vừa bị ám sát. Mai báo đăng quốc lộ số 4 bị đắp mô đâu ở khoảng Cai lậy, Cái bè. Mốt nghe tin một đồn dân vệ ven biên vừa bị mấy tên du kích vác oảnh-tầm-xào bắn phá lốc chốc mấy phát rồi bỏ chạy. Còn nhớ chắc thêm một điều, truyện được đăng trên tạp chí Hiện Đại của Nguyên Sa, vừa bỏ Paris với khói sóng sông Seine trở về Sài-gòn, đem hương thơ và hơi văn mới thổi phà vào sinh hoạt văn học của miền Nam thuở đó. Mười mấy tuổi chớ gì. Cái tuổi ăn chưa no lo chưa tới. Vậy mà ngay lúc đó, truyện đã nhéo vào cái bộ nảo non xèo của tôi một cái nhéo đau nhói. Rồi nhớ hoài.

Đâu như là ...

... trên một chuyến xe đò liên tỉnh miền đông chạy xuyên qua những cánh rừng lá im ỉm, hành khách bị nhốt kín trong lòng chiếc xe ọp ẹp hẵn không có chuyện gì làm ngoài chuyện ngủ gà ngủ gật vì tiếng máy chạy rì rì ( hoặc là vì chuyến xe đi quá sớm hay về quá trễ ? ), có thể cộng  thêm một nỗi lo lắng vu vơ nào đó ... thì bị một đám du kích nhào ra chặn lại xét hỏi để hoạch họe tuyên truyền. Hành khách nam nữ lão ấu gái trai già trẻ lớn bé gì cũng bị lôi tuốt xuống xe, sắp thành hàng lối, để cho quí-vị-núp-trong-quần-chúng ... ló mặt ra xăn quần, xắn áo, lận dao găm hay xách mã tấu hoặc dậm thêm vài khẩu súng xưa mốc thếch vốn đã được chôn giấu ngay từ khi có lệnh tập kết ... điểm mặt xem tên. Rồi, y như ba đời đã là cán-bộ-chính-trị-viên-có-ba-tăng dấm dẳn lên lớp để dọ dẫm dụ dỗ dày vò ... thả dàn cái đám con dân hiền lành ngu ngơ, gồng gánh đi buôn hàng bán lẻ kiếm ăn hay đi thăm bà con chòm xóm. Kiểm soát như vậy nghĩa là ai nấy phải xuất trình tấm thẻ căn cước. À, tấm thẻ căn cước ! Thuở đó, người ta từ mười tám tuổi trở lên, bất kể nam nữ, ai nấy đều lận trong người một tấm thẻ căn cước, ghi rõ tên tuổi, năm sanh tháng đẻ, số nhà, nghề nghiệp ... như một minh chứng cho sự có mặt hợp pháp của mình trong một đất nước mới được yên ổn mấy năm đang rục rịch ... trở lại bất ổn. Chính phủ hợp pháp đòi như vậy. Mà cái đám làm loạn với súng ống và dao găm lăm lăm trong tay cũng đòi hỏi như vậy. Dĩ nhiên với hai mục đích khác nhau. Nếu đối với phía thứ nhất, tấm căn cước là một bảo đảm cho sự lương thiện và tin cậy của người cầm thẻ, thì đối với phía đối nghịch, miếng giấy cứng có bọc nhựa đó có thể sẽ là bản cáo trạng hùng hồn để họ hùng hổ lôi đương sự vào rừng, vào bưng hoặc để giam giữ hoặc để đâm, chém, bắn giết hay bỏ vô bao bố thả trôi sông, tùy ý. Ờ thời buổi đó, tấm thẻ căn cước quan trọng sinh tử đến vậy.

Và cũng vì vậy, để bảo đảm an ninh cho những người làm việc dưới quyền mình, chính quyền thuở đó còn cấp thêm cho họ một loại thẻ căn cước thứ hai, thẻ căn cước dân sự. Nhất là đối với những người phục vụ đất nước trong những phạm vi liên quan đến hành chánh và quân sự. Tấm thẻ căn cước dân sự đó như một chiếc mộc che đỡ cho họ những nguy hiểm chực chờ như buổi sáng hôm đó hay buổi chiều hôm đó ...

Và như vậy, truyện kể ...

Đám hành khách khốn khổ đó bị lùa xuống xe, xếp hàng ... để chờ khám xét. Mọi người nhốn nháo. Lo lắng. Bồn chồn. Mỗi người một bộ mặt, một con tim, một bộ quần áo, một gia đình cha mẹ vợ con anh chị em, một người tình ... mỗi người một thân phận, một hoàn cảnh, một đắn đo  ... và ... một tấm thẻ căn cước. Nhưng chắc chắn chỉ có duy nhất một nỗi lo. Lọt vào tay cái đám sát nhân giả dạng người yêu nước.

Truyện kể tiếp ...

Vậy rồi từng người một bị xét hỏi, từng người một phải trình ra tấm thẻ căn cước, với hình ảnh, tên tuổi, ngày sinh, tháng đẻ, nghề nghiệp ... dưới những mũi súng hung hăng đang chỉa vào họ và chực chờ lảy cò. Người thứ nhất, người thứ hai, người thứ ba ... Mọi việc diễn ra suông sẻ. Không có ai là ngụy quân ngụy quyền, ác ôn ba đầu sáu tay, không có ai là tay-sai-mỹ-ngụy. Từ cụ ông đến người trai trẻ. Từ con gái đến đàn bà. Ai nấy đều không có tội-tổ-tông. Mẻ lưới tung ra như lọt vào chỗ không. Lúc đó, mặt trời đang mọc hay mặt trời đang lặn, thú thật, loay hoay qua cái chằng chịt của mớ trí nhớ rối mù, tôi không chắc, nhưng hề chi, mặt trời mọc hay mặt trời lặn, bởi vì rạng đông hay tà dương, thì những tia sáng chói lòa đó vẫn bung ra từ một cõi mênh mông, vượt khỏi cõi người trần thế.

Vâng, ngay lúc đó, khi những tia sáng đầu tiên - hay cuối cùng - của mặt trời vừa hắt lên thì bỗng một tiếng hét vuột ra khỏi cửa miệng của tên trưởng toán gian hiểm. Nghiêm. Một tiếng hô “nghiêm” bỗng dội ngược vào tai đám đông đang còn đứng lố nhố như một bầy tử tội khi không rồi được ân xá.  Ngay bon lúc đó, hay một tích tắc sau đó, có tiếng đôi giày da của ai đó chập vào nhau, sắc và gọn. Như tiếng giày saut chập vào nhau khi ... người lính nghe quân lệnh của thượng cấp. Cái thế đứng nghiêm, hai tay buông thỏng ép sát vào thân, hai chân chập lại, mặt ngẩng lên, cằm giương thẳng ... vừa như tuân thủ mà vừa như biểu lộ một sự tự chủ tuyệt đối. Cái thế “nghiêm” trong bài thao diễn cơ bản mà người lính đã học và tập bao nhiêu lần từ khi khoác vào đời trai bộ quân phục. “Nghĩ “. “Nghiêm“. Ôi cái huấn lệnh nghe đi nghe lại đến nhập tâm. Và trở thành cái phản xạ của bất cứ một người trai nào đã mang nghiệp lính vào thân.

Vâng, buổi sáng đó -hay buổi chiều đó -, bên bìa một khu rừng hiểm hóc, một người trai miền Nam, một người lính miền Nam, trên chuyến xe về phép, thăm cha thăm mẹ, hẹn hò người yêu ... , người lính trẻ mặc bộ đồ dân sự, cầm tấm thẻ căn cước dân sự ... đã đối mặt với định mạng, trực diện, rồi ngang nhiên chấp nhận cái số phận như một chọn lựa của ý thức, đánh đu tính mạng mình lên sợi giây sinh tử. Trong cái giây phút bất ngờ, bất chợt, bất định đó ... anh đã sống đúng phốc cái bản chất của người lính với tất cả vinh quang và tủi nhục của nó, với mọi bất trắc của một người con trai đi gánh vác chuyện nước non. Và ... chuyện phải đến đã đến. Toán du kích hí hửng như bắt được vàng, chỉa súng xúm lại ...

 

Mấy chục năm đã qua, làm sao tôi còn nhớ được lời văn, câu chữ ... Vậy mà tôi vẫn nhớ, cái tình huống mà tác giả đã dựng lên khi người con trai bị bắt trói bởi đám người cuồng tính. Lạnh như tiền. Vững như đồng. Khi đã biết chắc số phận mình, nhân vật chính, người con trai, người lính trẻ vẫn ngẩng cao mặt, thân thẳng, vai ngang, mắt quắc ... Ngay lúc đó, chính lúc đó, mặt trời, chính mặt trời với chùm sáng ngạo nghễ hắt lên mặt anh vừng hào quang lóng lánh nhất. Tôi nhớ, ngay lúc đó, tôi đã rùng mình. Ngay lúc đó hình ảnh con chó sói của Alfred de Vigny bỗng chồm lên trong trí. (*) Người thanh niên, dáng thẳng, mặt lạnh, lời câm. Cái hình ảnh mà tác giả dựng lên khốc liệt đến làm há hốc miệng mà không kêu ra lời.

 

Mãi nhiều năm sau, tôi mới tìm ra được chữ để gọi cái giây phút kết thúc đó. Bi tráng. Quả tình bi tráng. Bi đát một cách hùng tráng. Có mâu thuẩn không. Không. Đó là một bi kịch với một kết thúc táo bạo đến rùng mình. Và đẹp lẫm liệt như một thần thoại Hy Lạp.

 

Vậy rồi, đến chừng lên đại học, lại được đọc thêm thơ của ông. Những bài thơ tự do, thơ năm chữ, bảy chữ ... Chữ nghĩa vạm vỡ. Ẩn dụ minh mông. Hình tượng lẫm liệt. Đọc xong cứ như vừa chạy băng đồng. Thở dốc. Hụt hơi ... Mà rồi lại muốn bắt đầu một cuộc băng đồng mới. Đọc rồi như có điều gì muốn nói. Mà rồi lại ngậm câm. Chữ của ông như tẩm thuốc mê. Đọc xong rồi ú ớ. Có điều mãi mãi tôi vẫn muốn viết về thơ của ông. Thơ Tô Thùy Yên. Mà viết về cái gì. Chữ Nghĩa của ông ? Thứ chữ nghĩa tự nó đã biện minh cho sự hiện hữu phi thường của nó. Mỗi chữ đã là một giá trị tự thân. Tự nó. Chính nó. Nói gì thêm cũng chỉ là phù phiếm. Ý tưởng của ông ? Thứ ý tưởng lồng lộng như mây giông đầu hạ, giậm giựt bao nhiêu là sấm sét chỉ chờ dịp cựa mình. Như vậy thì viết làm sao cho ráo, bắt làm sao cho kịp những tia chớp, nháng lên từ những liên tưởng xảo diệu và ẩn mật đến sững sờ.  Vậy mà sao tôi lại dại dột loay hoay hoài với những bài thơ, những câu thơ, những vần những điệu, những chữ mà ý nghĩa của từng chữ từng câu cứ chực trào ra khỏi cái khuôn đang cầm giữ nó. Câu hỏi cứ lẩn quẩn trong cái đầu rối mịt của tôi. Đã lâu, lâu lắm ! Rồi bây giờ, mấy mươi năm sau. Sao vẫn cứ ý nguyên cái thắc thỏm như chính mình đã để lỡ một hẹn thề.

Từ những năm 60, 70, 80, 90 ... của thế kỷ trước, rồi vụt sang thế kỷ khác, những năm 2000, khi thân xác đã có chừng mệt mõi mà trí óc thì vẫn lùng bùng y nguyên thời còn trẻ, mỗi khi đọc lại thơ ông.

 

Thi sĩ Bắc Nam đều chết rạp

Ba trăm năm lịch sử làm thinh

 

Đủ chưa, hai câu thơ đó. Hai câu thơ đọc lúc trai trẻ đã muốn rùng mình. Bây giờ, vài mươi năm sau, đọc lại vẫn nguyên cái cảm giác choáng ngộp của Trần Tử Ngang khi leo lên chót đỉnh U Châu đài mà ngẫm nghĩ chuyện nhân sinh. Niệm thiên địa chi du du. Độc thương nhiên nhi lệ hạ. Thi sĩ có phải là bậc tiên tri thấu thị. Thơ làm từ năm 72. Vậy sao đọc lên lại thêm cái cảm giác hãi hùng khi nghĩ tới bước chân của lịch sữ đã và đang dẫm lên số phận của người Việt, nhất là từ khi người cộng sản dẫm đạp bằng những bước chân thô bạo lên cái dòng sinh mệnh của dân tộc. Hai câu thơ, 14 chữ, gọn bâng mà sao nghe rổn rảng tiếng trì chiết rủa xả, lời đay nghiến, giọng kêu thương của lớp lớp biển dâu, của trùng trùng oan khuất, của núi xương vô định, của mồ mã vô danh ... 

Làm thinh. Chữ nôm na mà nghĩa trầm thống. Chữ tĩnh mà nghĩa động thốn tâm. Thử đọc lên hai chữ làm thinh, làm thinh là làm thinh, là ngậm miệng, là nuốt tiếng ...  nhưng sao như nghe vọng lại từ đó bao nhiêu tiếng kêu gào rên siết, tắt nghẹn trong cổ họng ... của đám dân đen mỗi lần thay ngôi đổi chúa, của sông Gianh cắt lìa ruột thịt, của Bến Hải nước tẻ hai dòng, của đường 13 pháo chùm pháo chụp, của đường số 1 con bú xác mẹ, của đảo Ko Kra trinh tiết dập vùi, ... của từng đám tù nhân không-danh-số lê lết qua những trại giam ngụy trá. Lịch sử làm thinh hay chính lòng người ngoảnh mặt làm ngơ, bịt tai bịt mắt trước những lộng hành của cái ác. Từ khi nào thơ không còn là hoa trái của cuộc đời và người làm thơ bị coi là đồ thừa thải, bị giam cầm hay bắn giết, mặt đất này chỉ còn là sa mạc, thứ sa mạc làm khô khốc lòng người. Rồi ra, thơ chỉ còn là tiếng dội của vô vọng, là lời của vô ngôn, là mặt thật của vô cùng để lần cuối biểu dương cùng tận cái vinh dự lầm than của kiếp người ...

Vinh dự lầm than của kiếp người ?

Cái nghĩa nghịch lý của câu thơ đã đủ để biểu lộ cho con-mắt-trông-thấu-cả-sáu-cõi-tấm-lòng-nghĩ-suốt-cả-nghìn-đời (**) của bậc-vương-tôn miền-trí-tuệ chưa ! Lời thơ như sóng cuộn ì ầm mà dội lại tiếng vô thanh, vô thanh của vô cùng vô tận, như vẽ ra rồi lại xóa đi từng bức tranh vân cẩu, như mở ra rồi đóng lại cái vòng lẩn quẩn loay hoay của cuộc lữ miên trường. Mỗi câu thơ là một vấn nạn. Nhưng ... Thiên hà ngôn tai . Trời đất có nói gì đâu .

Và rồi tất cả sẽ nguôi ngoai  ?!

 

Rồi tất cả sẽ nguôi ngoai ...

Đã có lúc, làm thơ như dấn thân vào một cuộc đuổi bắt với vô vọng ... Mọi thắc mắc siêu hình vốn dĩ là cách thức ngạo mạn của kẻ chơi đùa với chữ nghĩa. Nhưng khác với lối đua đòi làm dáng, Tô Thùy Yên đã xua thơ mình chạy mút tới tận cùng để giáp mặt cái Cùng Tận đó, cái Vô Hạn đó, cái Hư Không ! Thơ sung mãn như cái hùng tâm truy lùng chân lý. Và vì vậy, ông đã gặp, tôi tin vậy. Bạn có nghe, này bạn có nghe. Vũ trụ miên man chuyển động đều. Chim đã bay quanh từ vạn cỗ. Gió thật xưa, mây thật già nua. Nên với một đời, bao biến đổi. Mà trong vô hạn có gì đâu. Bài thơ, những bài thơ làm trong giai đoạn này không ghi ngày tháng –mà thật sự có cần ghi ngày tháng không. Cái điều rõ ràng là người làm thơ chưa già mà thơ đã cỗi, cỗi như cả cái vũ trụ vô sở vô trú, cả cái dòng thời gian vô thủy vô chung, trùng trùng, điệp điệp ... Và tôi hiểu tại sao Trần Tử Ngang chảy nước mắt, tại sao Tô Thùy Yên sau khi đã mòn gót chân sương nắng tháng năm đã có lúc cũng phất phơ chéo áo đường thiên cổ, nước mắt hồng tuôn đến đá mòn.

Rồi sao nữa ? Rồi  là ... đáo bỉ ngạn !

Từ đó là thái độ tri kỷ tri bỉ, biết điều như mọi kẻ biết-điều nhất trần gian. Vạn vật giai bị ư ngã, phản thân nhi thành, lạc mạc đại yên.  Hề, ta trở lại gian nhà cỏ. ... Ở đây ta có dăm người bạn. Phúc tự tâm, không lý đến đời. Ở đây ta có dăm pho sách. Và một dòng sông, mấy cụm mây. Hạnh phúc ở đâu mà lặn lội dang thân. Hạnh phúc trần gian ở đâu hay ở chính lòng ta đó. Dòng sông u hiển trôi vô lượng. Dòng sông hiền triết chảy vô tâm. Mà ta ngưỡng vọng như sư phụ. Mà ta thân thiết tựa tri âm ... Quên quên, nhớ nhớ tiền sinh kiếp. Thiên cổ mang mang thế sự nhòa. Trận lốc cười tròn trên quá vãng. Ta làm lại cả tâm hồn ta ... Ờ vậy thì còn tiếc gì mà không về ...

Tưởng tượng ta về nơi bản trạch ! Còn gì vui bằng khi mọi điên đảo của thế sự quanh quanh không còn đảo điên giữa lòng ta. Đó có phải là quê-nhà 

của mọi gã đãng tử sau cuộc tuần du bất tận. Với khám phá diệu kỳ : rồi tất cả sẽ nguôi ngoai

Rồi tất cả sẽ nguôi ngoai !

Nhưng rồi có thật sự tất cả sẽ nguôi ngoai hay vẫn bất tận nỗi đời hung hãn đó như chính ông đã mường tượng, một ngày.

 

Những năm 70, chiến tranh bùng lên dữ dội. Súng đạn hung hăng, lòng người hung bạo. Qua sông. Đò nghẹn đoàn quân xa tiếp viện. Mưa lâu, trời mốc, buồn hôi xưa. Con đường đáo nhậm xa như nhớ

 

Xa như nhớ. Trời ơi làm sao đo được cái khoảng cách ở hai đầu một nỗi nhớ mơ hồ. Xa như nhớ. Hoán dụ đến nỗi không còn tính được bằng cây số bởi dặm trường có ở đâu xa. Dặm trường ở ngay chính lòng ta đó. Tuyệt. 

Bộ mặt chiến tranh được vẽ ra bằng đường nét tự tại. Không lớn lối cũng chẳng e dè. Không thêm không bớt. Mà nghe ra như đã sầu đâu từ thiên cổ hận... Nao nao mường tượng bóng mình. Mịt mùng cõi tới, u minh tiếng rền. Xuống đò, đời đã bỏ quên. Một sông nước lớn trào lên mắt ngời.

 

Dĩ nhiên giấy bút làm sao tả cho hết cái bi kịch mà mỗi vai trò chỉ thoáng hiện thoáng mất như những chiếc bóng vật vờ, nhân vật chỉ còn là cái cớ. Diễn trường chính yếu là cái khoảng không còn lại, cái khoảng trống không sau khi vai diễn đã biến mất, mọi tiếng động đã bặt im. Cái còn lại là cái không-còn-gì, không-có-gì. Cái còn lại sau những cuộc tranh giành, dù thắng dù thua, cái còn lại chính là cái im ỉm của thiên địa trơ trơ, của thánh thần lánh mặt, của mất còn còn mất chỉ là hai mặt sấp ngửa của đồng tiền quay tít rồi ... bật ngửa ra, bất kể. Em chạy tìm anh ngoài cõi gió. Lửa oan khốc giỡn cười ghê hồn. Tiếng kêu đá lở long thiên cổ. Cát loạn muôn trùng xóa dấu chôn

 

Trên bối cảnh của một cuộc vật lộn giữa tử sinh không hồi ngưng nghỉ, thơ như một cầu cơ giáng bút. Điều gì khiến ông làm Trường Sa Hành. Trường Sa hay Hoàng Sa ? Ai biết ! Đọc thử hết trọn một bài của Tô Thùy Yên để thấy cái điên đảo của chữ nghĩa, cái lồng lộng của ý tưởng ...

 

Trường Sa Hành

Toujours il y eut cette clameur,
                          Toujours il y eut cette fureur...
                          Saint-John Perse

Trường Sa ! Trường Sa ! Ðảo chuếnh choáng
Thăm thẳm sầu vây trắng bốn bề
Lính thú mươi người lạ sóng nước
Ðêm nằm còn tưởng đảo trôi đi

Mùa Ðông Bắc, gió miên man thổi
Khiến cả lòng ta cũng rách tưa
Ta hỏi han, hề, Hiu Quạnh Lớn
Mà Hiu Quạnh Lớn vẫn làm ngơ

Ðảo hoang, vắng cả hồn ma quỷ
Thảo mộc thời nguyên thủy lạ tên
Mỗi ngày mỗi đắp xanh rờn lạnh
Lên xác thân người mãi đứng yên

Bốn trăm hải lý nhớ không tới
Ta khóc cười như tự bạo hành

Dập giận, vác khòm lưng nhẫn nhục
Ðường thân thế lỡ, cố đi nhanh

 

Sóng thiên cổ khóc, biển tang chế
Hữu hạn nào không tủi nhỏ nhoi ?
Tiếc ta chẳng được bao nhiêu lệ
Nên tưởng trùng dương khóc trắng trời

Mùa gió xoay chiều, gió khốc liệt
Bãi Ðông lỡ mất, bãi Tây bồi
Ðám cây bật gốc chờ tan xác,
Có hối ra đời chẳng chọn nơi ?

Trong làn nước vịnh xanh lơ mộng
Những cụm rong óng ả bập bềnh
Như những tầng buồn lay động mãi
Dưới hồn ta tịch mịch long lanh

Mặt trời chiều rã rưng rưng biển
Vầng khói chim đen thảng thốt quần
Kinh động đất trời như cháy đảo
Ta nghe chừng phỏng khắp châu thân

Ta ngồi bên đống lửa man rợ
Hong tóc râu, chờ chín miếng mồi
Nghe cây dừa ngất gió trùng điệp
Suốt kiếp đau dài nỗi tả tơi

Chú em hãy hát, hát thật lớn
Những điệu vui, bất kể điệu nào
Cho ấm bữa cơm chiều viễn xứ
Cho mái đầu ta chớ cúi sâu.

Ai hét trong lòng ta mỗi lúc
Như người bị bức tử canh khuya
Xé toang từng mảng đời tê điếng
Mà gửi cùng mây, đỏ thảm thê.

Ta nói với từng tinh tú một
Hằng đêm tất cả chuyện trong lòng

Bãi lân tinh thức âm u sáng.
Ta thấy đầu ta cũng sáng trưng

 

Ðất liền, ta gọi, nghe ta không ?
Ðập hoảng vô biên, tín hiệu trùng
Mở, mở giùm ta khoảng cách đặc
Con chim động giấc gào cô đơn

 

Ngày. Ngày trắng chói chang như giũa
Ánh sáng vang lừng điệu múa điên
Mái tóc sầu nung từng sợi đỏ
Kêu dòn như tiếng nứt hoa niên

 

Ôi lũ cây gầy ven bãi sụp
Rễ bung còn gượng cuộc tồn sinh
Gắng tươi cho đến ngày trôi ngã
Hay đến ngày bờ tái tạo xanh

 

San hô mọc tủa thêm cành nhánh
Những nỗi niềm kia cũng mãn khai
Thời gian kết đá mốc u tịch
Ta lấy làm bia tưởng niệm Người

 

Đọc lên thành tiếng. Trường Sa ! Trường Sa ! Đảo chuếch choáng. Thăm thẳm sầu vây trắng bốn bề ... Mùa Đông Bắc, gió miên man thổi. Khiến cả lòng ta cũng rách tưa. Ta hỏi han, hề, Hiu Quạnh lớn. Mà Hiu Quạnh lớn vẫn làm ngơ ...

Tôi sẽ nói gì thêm. Đã hỏi rồi. Đã nói rồi. Hiu Quạnh Lớn có nói gì đâu. Thiên địa bất nhân dĩ vạn vật như sô cẩu. Trời đất bất nhân coi vạn vật như chó rơm. Đã vậy thì còn gì để nói thêm ?

Còn. Còn rất nhiều điều để kể.

Đầu tiên ta kể về im lặng

Mà ý chừng kể để Hư Không nghe

Hư không, hư không có nghe không ? Có nghe Mùa hạn rên siết. Ở đây địa ngục chín tầng sâu. Cả giống nòi câm lặng gục đầu. Cắn chết hàm răng, ứa máu mắt. Chung xiềng nhưng chẳng dám nhìn nhau. Không nhìn nhau nhưng không phải không có gì để nói với nhau. Hay lắm khi im lặng còn nói được triệu lần hơn điều được nói.

Thơ Tô Thùy Yên có triệu điều để nói. Tuy nhiên giọt nước mắt ứa ra ít mặn hơn giọt nước mắt nuốt ngược vào lòng.

Thơ Tô Thùy Yên đọc thầm hay đọc ra rả cho át tiếng sóng vỗ ngoài biển lớn đều như nhau. Cả hai cách đều dội ngược vào người đến nghe đau mềm phế phủ. 

 

Thơ của ông như vậy là như vậy. Y như Hiu Quạnh Lớn. Còn nói nỗi gì. Còn viết thêm chi. Có làm rộn tai. Có làm xốn mắt. Mà sao vẫn cứng đầu cứng cổ mà run tay muốn nhắc muốn nói muốn viết. Mà viết cái chi. Khi mọi sự đã an bày. Hiu Quạnh Lớn có nói gì đâu. Có gì để nói đâu. Hay tại lớn đến choáng ngộp nên làm miệng ú ớ, tay cứng, chữ cùn ... Hay nói đại, nói bất kể, thơ Tô Thùy Yên ... Nói về chuyến Tàu đêm chở tù chạy như một cơn giông lửa ròng rã từ Nam ra Bắc, qua trùng trùng oan khuất. Tàu đi như một cơn điên đảo. Sắt thép kinh hoàng va đập nhau. Ta tưởng chừng nghe thời đại động. Xô đi ầm ỉ một cơn đau ... Con tàu chạy ngược, suốt con đường sắt xuyên Việt như trở ngược giòng lịch sử, từ văn minh trở lại man rợ, từ yêu thương trở lại thù hằn, từ khoan dung trở lại hẹp hòi, từ chân thành trở lại gian trá.

Muốn nín nhưng đọc thơ lòng như lửa đốt. Có gì cháy âm ỉ giữa lòng ta. Có gì cháy hừng hực giữa đầu ta. Lửa bắt từ xác chữ dị thường, cháy lan theo đường gân sớ thịt, nung đốt ý tưởng rồi làm tro than mọi ý tưởng. Vậy mà vẫn níu chữ chạy theo trối chết, để được tới nơi, cùng lúc với ông. Bởi vậy vẫn viết cho cố xác mà rồi cũng chẳng biết sẽ tới đâu. Vẫn muốn viết về thơ ông như lúc còn tưởng tay vói tới trời. Đến lúc biết trời cao tay không vói tới mà cứ vẫn loay hoay điều bất khả. Viết thêm. Viết thêm nữa. Điều bất khả. Làm sao, làm sao nói hết được cái hạo khí hừng hực bốc lên từ chữ nghĩa ông.

Cho nên ...

  • Giảng ! Bình ! Phê ! Luận ! Tán !

  • Nhảm !!!!

Khổ nỗi ! Ý bốc lửa. Chữ cuống cuồng. Những trang giấy trắng. Trắng minh mông. Trắng lạnh ngắt mà lại kêu đòi. Viết về thơ Tô Thùy Yên có phải là vẽ cái vòng tròn mà điểm cuối không bao giờ nối lại được điểm khởi đầu. Viết về thơ Tô Thùy Yên có phải là tả cái minh mông không cột mốc, không điểm tới cũng chẳng có điểm đứng. Cái dập dềnh của sóng, của gió, của mây, của nước mà mọi hình thù bị phá vở từ mỗi sát sa. Có phải là tung tóe theo cơn nổ hồng hoang. Hay là ngộp chìm theo cơn hồng thủy. Cái chết tru rân giờ nguyệt tận. Máu bung từ mỗi lỗ chân lông... Như tên phù thủy già điên loạn.

Lịch sử lên cơn dữ bất thường. Viết về thơ Tô Thùy Yên có phải là vẽ rắn thêm chân khi rắn đâu có chân mà vẫn bò vun vút, là châm nước thêm vào lòng biển lớn, là vùi thêm củi vào miệng hỏa diệm sơn.  Người mẹ trẻ buồn đôi mắt trũng. Thân gầy nhom, tóc cháy, da cằn. Địu con, một dúm thịt nhăn nhúm. Ra ruộng khê tìm mót cái ăn. Còn nói được gì thêm về tội ác ngút trời của loại hà-chính-mãnh-ư-hổ đã và đang cắn xé  mảnh đất vốn đã gầy còm ở bên kia biển lớn. Thơ của ông dữ dội lắm. Thơ của ông là bản cáo trạng không lời buộc tội dù được viết bằng máu và nước mắt chảy ngược của chính bản thân, thay mặt cho cả một thành phần dân tộc bị án tử oan tình. Vì mỗi hình ảnh ông kê ra đã là một bản án tự thân cho đám sát nhân tội đồ của nhân loại. Thơ ông là một bản J’accuse của Émile Zola để đòi lại sự thật cho sự thật. Đọc thơ ông, sống lại ngày dài trong trại-lán-cải-tạo, trong hầm kiên giam, dưới chòi canh hầm hừ, giữa lon cơm mốc thếch, trên bàn tay trần bươi đất, hay quằn đôi vai kéo cày thay trâu, trong mảnh vải bố nát che thân khi rừng núi lập đông. Ta khóc lẻ loi, cười một mình. Thu hình ẩn náu dưới tâm linh. Mắt chong kinh hãi đêm hư sử. Thân lõa lồ đau cháy khổ hình. Nguyễn Du xưa viết Kiều khiến người đời cứ tưởng nhỏ máu ra năm đầu ngón tay mà viết. Nay đọc thơ Tô Thùy Yên cứ tưởng ông đã mài đá ra mà làm mực. Thứ mực không bao giờ phai vì đã và sẽ trầm tích trong nảo cân, trong huyết quản của người đọc, đời này và cả đời sau.

Mà còn tuyệt vời hơn nữa, điều đó còn để xác nhận thơ và người thơ đã không bao giờ và sẽ không bao giờ bị thắt cổ bởi lòi tói xiềng gông. Bởi vì, nghĩ cho cùng, cái được gọi là trại cải tạo trong dãy quần đảo ngục tù mênh mông ở Việt Nam sau năm 75 chỉ nhằm một mục đích duy nhất là triệt hạ nhân phẩm của người tù, triệt tiêu mọi ý thức phản kháng, biến họ thành súc vật. Trại tù nằm bên bờ sông Mã ở Thanh Hóa mà tù nhân không được đi thẳng người, phải bò như con thú bốn chân là một điển hình.

Nhưng dù vậy, ác tâm hèn hạ đó đã và sẽ không bao giờ thành tựu được. Chẳng những vậy, con người, sinh vật thượng đẳng vẫn mãi là con người dù có bị đòn tra ép uổng tới tận tầng cuối của địa ngục. Hơn vậy nữa, người làm thơ, kẻ chịu khổ nạn nhất trong kiếp đọa đày đó vẫn mãi mãi là sinh vật tối thượng vượt hẵn lên trên lũ cầm thú giả dạng làm người. Ta về. Ta về-một bóng trên đường lớn. Thơ chẳng ai đề vạt áo phai ... Ta về cúi mái đầu sương điểm. Nghe nặng từ tâm lượng đất trời. Cám ơn hoa đã vì ta nở. Thế giới vui vì mỗi lẻ loi ... Ta vể như lá rơi về cội. Bếp lửa nhân quần ấm tối nay. Chút rượu hồng đây, xin rưới xuống. Giải oan cho cuộc biển dâu nầy.

Ôi, tấm lòng thi sĩ, người run giùm thế nhân hơi thu run rẩy, ấm giùm thế nhân tia ấm cuối đông, người đau giùm thế nhân cơn bội bạc của thế sự mà cũng vui giùm thế nhân sự thuận thảo của đất trời. Trên dưới trong ngoài đông tây nam bắc, có chỗ nào kềm giữ được đôi cánh chim hồng hộc. Tấm lòng thi sĩ bay lượn vượt thoát khỏi trói buộc của nhân thế,  nhạy như tơ trời, nhịp cùng nhịp với nhịp mùa, đập cùng đập với nhịp tim của thiên hạ. Tấm lòng đó, bao dung đến vô lượng. Hãy nghe ông xẻ chia với người quen kẻ lạ nỗi-vui-nhục-nhằn khi trở lại từ địa ngục trần gian. Ta về như hạt sương trên cỏ. Kết tụ sầu nhân thế chuyển dời. Bé bỏng cũng thì sinh, dị, diệt. Tội tình chi lắm nữa người ơi ... Ta về như sợi tơ trời trắng. Chấp chới trôi buồn với nắng hanh. Ai gọi ai đi ngoài quãng vắng ? Phải, ôi vàng đá nhắn quan san ? Ta về như tứ thơ xiêu tán. Trong cõi hoang đường trắng lãng quên. Nhà cũ, mừng còn nguyên mái vách. Nhện giăng, khói ám, mối xông nền ... Ta về như tiếng kêu đồng vọng. Rau mác lên bờ đã trổ bông. Cho dẫu ngàn năm em vẫn đứng. Chờ anh như biển vẫn chờ sông... Ta về dẫu phải đi chân đất. Khắp thế gian này để gặp em. Đau khổ riêng gì nơi gió cát. Hè nhà, bụi chuối thức thâu đêm... Ta về như hạc vàng thương nhớ. Một thuở trần gian bay lướt qua. Ta tiếc đời ta sao hữu hạn. Đành không trải hết được lòng ta.

Ta về như tứ thơ xiêu tán. Trong cõi hoang đường trắng lãng quên. Tù về mà thơ phiêu hốt như hạc nội mây ngàn. Nghĩ ra làm sao không khoái trá.

Đành không trải hết được lòng ta ? Ờ, làm sao nói cạn được tấm lòng thi sĩ. Người đau cái đau của nạn nước, gấp bao lần cái đau của nhân gian, người buồn cái buồn của thời vận, gấp bao lần cái buồn của nhân gian. Vậy mà rồi, cuối cùng, vẫn phá chấp để tìm lại bộ mặt tích cực của đời sống, để mở lòng yêu đời yêu người dù đã quá độ đắng cay.

Mặc kệ trời bày cuộc bể dâu, nhấn chìm hết mọi ước mơ, tắt lịm hết mọi dự phóng, vẫn nguyên si tấc dạ của đứa con lưu lạc trở về nhà. Thương hờn oán giận rồi ra cũng chỉ là mấy nét nhăn nhúm của bộ mặt trần gian khó ưa. Mặc kệ, vẫn còn đó, nụ hoa nở trái mùa, trái chín muộn trên cây ... Cũng chẳng biết triết lý nào đạo nghĩa nào đã nuôi hồn thi sĩ. Mà cũng chẳng cần biết. Vậy chớ lẽ đời tính vậy chẳng là ... phải phải lắm sao ! Giáo điều chi cho mệt. Đọc xong tôi cũng hả dạ lây. Ôi tâm hồn thi sĩ ấy !

Bởi vậy mà đọc lại thơ ông khi lòng đã lạnh mọi hương nguyền, chuyện đời đã trơn tuột ngoài vòng tay mà sao vẫn thấy xao xuyến như có gì muốn cà kê, muốn lải nhải, muốn trần tình, muốn kể lể ... muốn ... muốn ... muốn ...

Vậy thì nhìn vào những khung giấy bỏ trống bên dưới, có thấy không, chữ nối chữ, lời tiếp lời, đầy ắp ... những điều không nói được, vừa thảng thốt mà lại vừa thống khoái trong lòng khi đọc thơ ông. Thơ Tô Thùy Yên không có tính từ để ép uổng. Nói này nói nọ thật ra chỉ là cưỡng cầu. Hãy đọc thôi. Đọc bằng tấm lòng xích tử, khi ngôn ngữ chưa thành lời ...

_______________________________

 

 

 

Ở một chỗ

rất

gần sao... 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Có lần người bạn thi sĩ ở bên này bờ Hudson, phía New Jersey hứa mời tôi đi uống cà-phê ở một nơi rất gần với mấy vì sao. Những vì sao xa tít vốn dĩ là quê hương rất đỗi ngây thơ của những "Ông Hoàng bé ". Thử cho anh coi lại điệu vũ của bầy sao đêm. Anh ta nói với tôi như vậy. Mấy lần điện thoại rủ rê, cứ hẹn lần hẹn lượt tôi vẫn chưa uống được tách cà-phê pha giữa trời sao đó lần nào.

Chỗ tôi đang ở cũng là một thành phố lớn, nằm chênh chếch về phía đông bắc lục địa. Những con đường ngang dọc từ trên cao nhìn xuống cũng y như mấy miệng vực hun hút giữa khu rừng cao ốc. Mỗi lần ra phố chỉ thấy từng hẻm mây buồn rầu. Thuở mới đến, có bận nhớ nhà, tôi hay len lỏi đi tìm ngó trăng sao. Và lần nào cũng buồn ngẩn buồn ngơ vì trăng sao cứ trốn đâu mất biệt. Thay vào đó là ngàn ngàn con mắt đèn như bầy đom đóm đeo dính mấy tấm vách thẳng băng ngước nhìn tới mỏi cổ. Hơn nữa chưa hết tầm nhìn đã chóa mắt giữa hằng hà sa số ngọn néon xanh xanh đỏ đỏ. Riết rồi thua buồn cũng quên lửng luôn những vì sao đã chắt chiu mang theo như để đánh dấu điểm đứng của quê hương. Vâng, có ngôi sao chỉ mọc ở phương nam. Chắc quê hương tôi ở hướng đó.

Thuở mười một mười hai tuổi, mỗi lần được cho về quê nội, cứ đợi chiều xuống là tôi trèo tuốt lên mấy đụn rơm cao ngất ngoài bìa ruộng, dang tay nằm ngữa đợi trời tối. Ngó lên là trời vòi vọi cao, không một bợn mây mà lại xanh mướt, xanh ngọt cả lòng. Thuở đó tôi đâu biết tả ra sao cái màu ngan ngát của buổi chiều đương chuyển sang đêm. Chỉ thấy nó lâng lâng đến nổi hồn nhỏ cũng muốn bay bổng. Rồi chiều lánh đi thư thả. Ðêm nhón chân tới, rất nhẹ. Rồi con sao thứ nhất bắt đầu ló ra. Cũng êm ru như đã ở đó tự bao giờ. Chớp lia chớp lịa như để nháy gọi nhau, một chút nhẻo thôi là không biết ở đâu mà sao đã rải ra đầy trời. Ðêm trước mắt bỗng lộng lẫy như tấm nhung đen đính hàng triệu kim cương hột mẳn đều như tấm, nhiều đến ngó không xuể. Có lần tính thử đếm chơi nhưng rồi cứ vuột khỏi mấy lần bàn tay nên chán bỏ. Nhưng mà lần nào cũng không quên ao ước hể thấy có một vệt sao băng. Mà rồi y như lần nào cũng trễ, thành ra không kịp có một lời nguyện nào cho tròn. Cho đến một lúc thằng bé chỉ chờ sao lên thôi cũng đủ. Mỗi vì sao như chiếc cầu vòng nhỏ xíu dắt nó vào một thế giới khác, thần tiên. Rồi càng lúc đêm sao lại càng nở ra, trùng trùng điệp điệp. Ðứa nhỏ, tấm lòng hả lớn đến hết cở như muốn hớp cả vào người cái cõi bao la và bí nhiệm đó. Nhưng mà lòng nó nhỏ quá, vũ trụ thì quả thật mênh mông. Có khi nó chảy nước mắt mà không biết vì sao.

Từ đó, bầy sao  cứ lấp lánh theo tôi như những cặp mắt dõi theo từ quê nội, nấn níu chờ tôi lớn lên ở thành phố, đợi có ngày yên ổn rủ tôi trở về làng. Nhưng rồi cái ngày đó không có nữa. Tôi bỏ quê đi thật xa, xa đến mất luôn một lúc cả trời sao trăng nước ở một xóm nhỏ bên bờ kinh Hòa Nghĩa.

Bởi vậy mà chừng nghe lời bạn rủ rê đi ngó sao ở một chỗ thật gần, tôi náo nức lắm. Vậy mà rồi không kịp. Cái chỗ rất gần sao đó không còn nữa. Buổi sáng ngày11 tháng 9 năm 2001, lòng căm thù của con người đã làm nó nổ tung. Hai tòa nhà cao cả trăm từng cùng với mấy ngàn sinh mạng nát ngứu ra thành bụi. Mấy triệu tấn sắt thép và thủy tinh cộng với tim óc của con người dựng đứng thẳng lên trời giữa lòng đảo Manhattan như một thách thức với thiên nhiên bỗng vỡ tan như cám vụn. Nó đã chống chọi với gió cuồng bão dữ không suy xuyển. Vậy mà lần này nó không chống nỗi với cơn bạo hành của ác tính. Phút chốc cả một khối sống hừng hực bỗng hư vô chẳng đáng một mảy may. Phút chốc lòng tin của tôi cũng thành ảo. Phút chốc cái có đó đã hóa không. Có. Không. Không. Có. Không tưởng tượng nỗi. Cái đầu vốn vẫn thường nghĩ xa tới ngàn ngày, nghĩ rộng tới ngàn dặm mà vẫn như không đủ tầm cỡ để chứa được cái chuyện vừa xảy ra. Làm như cái việc vừa xảy ra trước mắt là không thể có được. Tôi sững sờ đến bất động. Cả ngày tôi cứ ngồi dán mắt vào máy truyền hình, nhìn cảnh máy bay đâm thẳng vào cái khối sắt thép lừng lững đó, rồi lửa khói bùng lên và sau hết cái nấm bụi khổng lồ bùng ra như một cơn lốc dữ mà bàng hoàng đến ngớ ngẩn. Miệng tôi không nói ra được một lời. Không có một lời nào nói ra được sự kinh khiếp đó. Sự hung dữ đó. Sự mù quáng đó. Rồi cảnh người sống chạy chết. Cảnh gạch đá sắt thép văng bay tứ tung. Còi xe cứu thương kêu rú in ỏi. Khói bụi bốc trắng mù mịt. Tôi ngồi chết trân nhìn trực tiếp cảnh tàn phá điên dại từ bàn tay con người. Con người. Tuyệt phẩm của thượng đế. Con người. Tuyệt phẩm của ma vương. Con người. Quả tình tôi không hiểu nỗi. Tôi muốn tắt máy mà lại cứ để mở. Nhìn ngó đến hãi hùng. Ống kính truyền hình thu không sót một góc. Nhưng có một cảnh mà máy không thu được. Một cảnh thiếu mất thốt nhiên nghĩ tới làm tôi hốt hoảng, chết điếng. Cùng một lúc, chớp mắt, mấy ngàn người tiêu ra tro bụi. Cùng một lúc, mấy ngàn người mới đó bỗng hư không. Một người cha, một người mẹ, một người con, một người tình... mới sáng đó còn hăm hở thức dậy sửa soạn ra đường, lái xe, đi métro, xe bus tới sở làm. Một tiếng đồng hồ trước đó còn hăm hở bước vào thang máy, cười với người quen này, nói đùa với người quen nọ. Nửa tiếng đồng hồ trước đó còn hăm hở ngồi vào bàn giấy, vừa đưa tay mở máy com-pu-tơ vừa bấm điện thoại gọi đến tiệm hoa nhắn gởi mấy cánh hồng cho người bạn gái. Năm phút trước đó còn vừa mở xấp hồ sơ vừa nghĩ đến bữa cơm chiều với vợ và bầy con nhỏ. Một phút trước đó còn vừa lau sàn nhà vừa nghĩ đến số tiền sẽ gởi cho bà mẹ ở một xứ Á xa xôi... Vâng cái cảnh thiếu sót trong mấy bản tin quá đầy đủ đó nó chỉ có trong đầu tôi thôi liền khi tòa nhà thứ nhất sụp xuống. Rồi tòa nhà thứ hai sụp xuống. Bỗng chốc. Xương thịt. Tro than. Cái cảnh không ai thấy được mặc dù đã xảy ra sờ sờ, cùng lúc với khi mũi phi cơ tiếp giáp với khung sắt thép, cùng lúc với tiếng nổ của hàng trăm tấn dầu, cùng lúc với lòng thù hận biến con người thành thú dữ. Cái cảnh không có trong phim ảnh bởi vì không có máy nào chụp được nhưng nó thật sự có đó, có đó rõ ràng giữa hiện trường, càng lúc càng lớn ra, càng lúc càng lớn ra, lớn đến khủng khiếp. Cái chỗ trống hoang bỏ lại của mấy ngàn nhân mạng mất đi cùng một lúc. Cùng một lúc thất tung. Cùng một lúc biệt tích. Cùng một lúc tan tành. Thịt xương. Niềm tin. Hy vọng. Cái khoảng trống im ỉm của pháp trường sau khi bọn đao phủ đã bỏ đi. Cái khoảng trống điêu tàn của mặt đất không còn người ở. Cái trống hoác ghê rợn nổi lên ngay sau khi lớp tro than đã lắng xuống. Không còn gì nữa. Có còn lại chăng là cái Trống Không khủng khiếp.

Có còn lại chăng, những ngày sau, là cái không vô cùng vô tận trong lòng tôi, trong lòng mọi người.

Mấy ngày sau, tôi thấy lại cái khoảng trống đó trên đường phố của một Nữu Ước thất thần, lơ láo trên những nến, hoa và nước mắt. Và đặc biệt trong những tờ giấy viết tay nhắc một cái tên, những tấm hình nhắc một khuôn mặt, những tiếng kêu thất thanh toát ra từ cặp mắt lặng lẽ của một người vợ tìm chồng, trong tia nhìn lạc lõng của một đứa con tìm mẹ, trong hai bàn tay bưng đầu bất lực của người lính cứu hỏa ngồi bệt xuống bên đường mếu máo, trong tiếng kèn đồng sầu thảm của người da đen vừa thổi vừa khóc khi chiều xuống ở một góc công viên... Cái khoảng trống lớn ra hoài không chặn lại được. Và sẽ còn lớn ra nữa. Một tháng sau. Một năm sau. Nhiều năm sau nữa...

Bởi vì sau buổi sáng tàn khốc đó, tôi biết trong tôi sẽ chỉ còn lại niềm tuyệt vọng.

Tôi bỏ xứ ra đi hai mươi năm, sống lây lất ở xứ người như một thân chùm gởi. Tôi bỏ trời sao của tôi lại cho một lũ điên khùng chưa bao giờ biết trời sao là ân huệ của thượng đế. Tôi xa xứ mà lòng cưu mang từng chuyện thương tâm hai mươi mấy năm trước. Những chuyện thương tâm chưa bao giờ kể đủ về những đọa đày gây ra bởi sự cuồng bạo của mê muội. Tôi đi mà cầu trời khẩn phật cho có ngày đất nước tôi sáng lán, người ở quê tôi tìm lại được tình thương và niềm tin cậy giữa người và người. Tôi chờ mà cứ sợ không còn dịp.

Giao thừa năm trước, cả hoàn cầu mở hội hoa đăng đón kỷ nguyên mới. Người ta nắm tay nhảy múa ca hát, ôm nhau hôn mừng giữa trời đất mới nguyên. Dường như có một lúc tôi thấy mọi người đều hớn hở, tin cậy, nhiệt thành, lòng mở ra vượt quá biên cùng của lề thói hẹp hòi, của nhỏ nhoi và hèn mọn, của thù oán và ghét bỏ, của hiềm khích và đuổi xua, của phân chia và chấp nhất, của lừa đảo và phản trắc... Có lúc sao tôi thấy dường như ai nấy cũng thân ái, nồng nàn, độ lượng, khoan dung... Ai nấy cũng sẵn sàng chín-bỏ-làm-mười. Mọi tiếng nói đều cười tiếng cười giống nhau. Mọi màu da đều mừng nỗi mừng giống nhau. Và như vậy nghĩa là mọi tiếng khóc cũng giống nhau như hệt, mặc kệ đen vàng trắng đỏ, mặc kệ nam bắc đông tây, mặc kệ tư bản cộng sản, mặc kệ chúa, phật, hồi giáo, bà la môn giáo, ấn độ giáo ... gì gì nữa cũng chỉ là một. Chỉ có một tiếng khóc cho nên chỉ có một niềm vui. Cái này, cái kia, cái nọ chỉ có trong đầu óc giặc giã của ta. Kẻ này, kẻ kia, kẻ nọ chỉ có trong cặp mắt loạn lạc của ta. Chớ thật ra tất cả chỉ là MỘT. Cái một tròn trịa nguyên vẹn. Cái một hồng hào hạnh phúc. Cái một lấy CON NGƯOI làm đấng cứu thế. Lấy con người làm đối tượng cho cuộc cứu rỗi. Cho con người và vì con người. Không còn chủ nghĩa tôn giáo chỉ còn con người. Không còn biên giới chủng tộc chỉ còn con người. Sẽ không còn diệt chủng ở Rwanda. Sẽ không còn thảm sát ở Kosovo. Sẽ không còn chôn sống ở Huế... Pháo bông bắn lên cao vút, lời nguyền bay lên cao vút, vụt khỏi mấy tầng mây, sáng át cả mấy chòm sao sáng nhất. Tôi thấy tôi trẻ lại. Và hy vọng. Và hứng khởi. Và tin tưởng. Kỷ nguyên mới. Kỷ nguyên của văn minh, của tiến bộ, của nhân ái. Những vòng tay cứ mở ra, mở rộng ra đến vô chừng tưởng như ôm giáp cả vòng lưng của địa cầu, ôm hết cả vòng eo của nhân loại. Tôi mừng như gặp lại tấm lòng " con đỏ " mà Lão Ðam đã mơ ước một đời. Biết đâu đất nước tôi cũng có cơ theo giòng vận hội mới... Tôi hào hứng đến nỗi làm được cả thơ vui...Tim sẽ cùng tim nối nhịp liền. Mắt bồ câu thoáng hiện nhơn duyên. Em xiêm áo mới quàng vai chị. Ðón gió ngàn năm kỷ mới nguyên.

Nhưng rồi xiêm áo đó rách bươm buổi sáng tháng chín này. Cái vòng tay khít liền đó gãy vụn ra, tan nát. Người của thế kỷ hai mươi mốt giống y như người của thế kỷ hai mươi, giống y như người của thế kỷ thứ nhứt, thứ mười, thứ mười lăm, giống y như thời của pháp đình tôn giáo với giàn hỏa, giống y như thời "thánh chiến " đẩm đầy máu Jésus và Allah. Lịch sử chỉ quay vòng vòng như trò chơi rồng rắn. Và con người thì vẫn đắm chìm trong ngu tối, dốt nát và thù hận. Ðã từ bao lâu, con người thôi ăn lông ở lỗ nhưng đâu thôi suy nghĩ và hành động như cái thời còn ở trong hang động. Chúa, Phật, Allah chắc cũng chỉ biết ngậm ngùi.

Hành động sát nhân một cách tỉnh táo của cái đám gọi là " tử vì đạo " đó làm tôi bần thần dã dượi suốt mấy ngày. Ðúng ra ai cũng có quyền dành cho mình một cái chết để phục vụ cho lý tưởng đã chọn. Nhưng lý tưởng nào để biện hộ cho việc lạnh lùng kéo nhập cục cùng một lúc mấy trăm người đồng hành và ngàn ngàn người vô tội khác vào chỗ chết một cách thảm khốc như vậy. Nhân danh - lại nhân danh! - một chủ nghĩa một niềm tin của người này để cướp lấy quyền sống của người khác có phải là phương thế để xây dựng một thế giới hoà bình, công bằng và bền vững?  Có thượng đế nào chứng nhận được việc đó. Có cứu cánh nào biện minh được cho phương tiện cùng hung cực ác như vậy. Và nếu việc làm đó để nhằm vinh danh một phần nhân loại thì chắc cũng phải vì nhân loại mà phủ nhận sự vinh danh đó.

Nhiều ngàn năm rồi không đủ cải hóa con người. Thú tánh vẫn còn đó. Những thông điệp kêu gọi cảm thông, vị tha, hòa đồng cứ bay lượn đầy trời như những đàn bồ câu trắng. Và vẫn tiếp tục bay lượn hoài trong sự lãnh đạm trơ lì. Con đường đi xuống địa ngục gần nhất vẫn còn là con đuờng đi qua lòng người. Lời nguyện đêm giao thừa giữa hai thế kỷ có thay đổi được gì đâu. Con người vẫn là kẻ thù nguy hiểm nhất của chủng loại. Có dấu hiệu nào đâu để tôi còn mơ ước cho quê hương?

Những đêm như đêm nay, ở thành phố đó sao vẫn mọc đầy trời. Nhưng còn chỗ nào gần nhất để tôi leo lên vói bắt ước mơ tôi.

 Cao Vị Khanh

_____________________________________________________

CVK_NJ.jpg.w560h164.jpg
CVK_docthoTTY.jpg
bottom of page